|
|
||
|
Hôm nay tôi có một tin mới, để báo cho Tăng Ni Phật tử hay, là ngày 19 tháng giêng Âm lịch tới đây, chúng tôi đặt viên đá đầu tiên cho một Thiền viện dưới chân núi Yên Tử, thuộc huyện Uông Bí tỉnh Quảng Ninh. Trước hết tôi cũng nói cái nguyện của tôi chứ không phải cái mộng như Thầy tôi. V́ khi tôi nghiên cứu kỹ Phật giáo Việt Nam, th́ nguồn gốc Phật giáo Việt Nam đă có từ thế kỷ thứ II, đến nay là hai mươi thế kỷ. Như vậy đạo Phật có mặt trên nước Việt Nam đă hai ngàn năm, mà t́m cái căn bản của Phật giáo Việt Nam chúng ta không biết đặt ở đâu. Nếu từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ X, th́ Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng, trước hết là Phương pháp tu thiền của ngài Khương Tăng Hội, Ngài dạy Lục Diệu Pháp Môn theo kinh. Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ X th́ có những ngài như ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài Vô Ngôn Thông truyền thiền tông qua Việt Nam, rồi sau tới đời Lư tức là thế kỷ thứ XII, khoảng hai thế kỷ XI và XII th́ có phái Thảo Đường truyền thiền qua Việt Nam. Ngài Khương Tăng Hội là người sinh ở đất nước Việt Nam, truyền chánh pháp đúng theo kinh. Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi gốc người Ấn từ Trung Hoa truyền thiền qua nước ta, rồi kế ngài Vô Ngôn Thông và ngài Thảo Đường cũng gốc người Trung Hoa truyền thiền ở Việt Nam. Như vậy, Phật giáo Việt Nam từ trước đến đó, chịu ảnh hưởng Thiền tông rất sâu đậm, nhưng những vị Tổ truyền đều là người Ấn và người Hoa. Đến thế kỷ thứ XIII, sau khi vua Trần Nhân Tông trao ngôi lại cho con mà đi tu, Ngài tu mười năm ở núi Yên Tử. Năm năm đầu, Ngài chuyên hạ thủ công phu tu hành, không dám lơi lỏng và không hề rời núi. Sau đó Ngài ngộ đạo, Ngài mới làm bài Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, nói lên chỗ sở đắc sở chứng của Ngài nhờ năm năm trường ở núi. Sau đó, Ngài mới đi mở mang truyền bá và lập thành một hệ phái Thiền tông Việt Nam tức là phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ đó ở Việt Nam mới có một vị Tổ - tổ ban đầu là Sơ tổ Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tông, là một ông vua Việt Nam đi tu đạt đạo thành Tổ. Như vậy nếu lấy đây làm nền tảng, chúng ta thấy có căn cứ. |
Cổng Thiền Viện |
Chánh điện |
|
Thất Hoà Thượng |
|
Con đội đỉnh tháp |
|
Hoa Văn |
|
V́ vậy, chúng tôi khi lập các thiền viện, ban đầu chúng tôi c̣n phân vân, chưa biết phải làm sao đặt một nền tảng cho vững, để ngôi nhà Phật giáo Việt Nam được lâu bền, cho nên khi lập Chân Không, rồi lập các thiền viện này, tôi chưa có đề cập đến Trúc Lâm Yên Tử. Đến khi lên được Dalat, tôi suy nghĩ kỹ, muốn đặt một cái nền cho ngôi nhà vững, th́ cái nền Phật giáo Việt Nam phải là thiền Trúc Lâm Yên Tử, v́ vậy tôi mới để Thiền viện Trúc Lâm. Tại sao tôi không để Trúc Lâm Yên Tử ? V́ tôi đặt nó ở tỉnh Lâm Đồng làm sao để Yên Tử được. Như vậy th́ cái nguyện của chúng tôi, muốn làm sao cho thiền Trúc Lâm Yên Tử được sống dậy ở trên đất nước Việt Nam, để làm cái nền vững chắc cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, nhưng tôi chưa có cơ hội. Chúng tôi cứ thầm lặng mấy mươi năm nay, cứ tu thiền, dạy thiền và dạy những quyển sách, quyển luận của các thiền sư Việt Nam hoặc ở Trung Hoa; mà chúng tôi không đặt một chỗ đứng cho đầy đủ.
|
Đĩnh Đầu Rồng
|
Ngói Lưởi Hái |
|
Hôm nay đủ duyên, được những vị trong Ban bảo vệ di tích Yên Tử vào Trúc Lâm thăm, và mời chúng tôi ra Yên Tử hợp tác để xây dựng lại các ngôi chùa, các di tích ở Yên Tử. Khi được mời, tôi than rằng tuổi đă già không thể làm nổi việc lớn, cũng không thể leo được cao, nếu quư vị muốn tôi hợp tác, th́ xin cho tôi một di tích nào ở dưới thấp trong quần thể di tích của Yên Tử, tôi có thể lập một thiền viện tại đó. Qua hai ba năm trao đổi qua lại, chúng tôi có làm đơn để xin xây dựng một thiền viện ở dưới chân núi Yên Tử, nhưng chưa được quư vị lưu tâm. Năm này quư vị, từ cấp trên tới cấp dưới đều chú ư, nhưng các vị đồng ư cho chúng tôi xây dựng lại ngôi chùa Lân dưới chân núi Yên Tử c̣n không để ư đến thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Cho nên vừa rồi chúng tôi phải hai lần chạy ra Bắc để giải thích lư do chúng tôi phải thành lập thiền viện này. Chúng tôi nói rằng, nếu quư ngài có phương tiện xây dựng lại, kiến thiết lại tất cả những di tích ở Yên Tử th́ rất tốt, rất đẹp. Nhưng chúng ta nên đặt câu hỏi. Tại sao người Việt Nam lại hành hương núi Yên Tử rất đông? Bởi v́ tôi được nghe năm 1992 chỉ có hai vạn người đi hành hương; nhưng năm rồi (năm 2001) đến hai chục vạn người đi hành hương trên núi Yên Tử. Người hành hương đông như vậy th́ đương nhiên có một cái ǵ họ mong mỏi, cái ǵ họ muốn t́m kiếm. Nếu chúng ta cất chùa, chúng ta xây tháp, làm đường tốt đi lên, nhưng mà lên đó rồi họ thấy được cái ǵ hay ? Tự nhiên là không có cái ǵ, chỉ có chùa h́nh thức. Chính chỗ họ quư là họ muốn t́m lên Yên Tử để thấy được đường lối tu mà chư tổ thời xưa, đă đắc đạo ở đó. Tra cứu lịch sử, tôi thấy cuối đời Lư đầu đời Trần có thiền sư Hiện Quang tu đắc đạo trên núi Yên Tử, dưới Ngài có thiền sư Đạo Viên hay là Viên Chứng đắc đạo; dưới đó nữa có thiền sư Đại Đăng. Những vị đó đều là quốc sư hai triều, triều vua Trần Thái Tông triều vua Trần Thánh Tông. Sau đó có những vị tiếp nối nhưng không được rơ ràng. Hơn nữa, khi vua Trần Nhân Tông đi tu mới lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử, th́ Ngài là Sơ tổ cũng đắc đạo ở đó, rồi ngài Pháp Loa ngài Huyền Quang cũng đều đắc đạo trên núi Yên Tử. Như vậy th́ cái quư báu, cái linh thiêng của Yên Tử là nhờ người tu đắc đạo trên đó, bởi vậy cho nên ngoài Bắc có câu ca dao:
|
Nguồn: www.livingstream.net. |
||
THIỀN TÔNG VIỆT NAM |
||