Nói đến Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 là nói đường hướng tu thiền của Tu viện Chân Không (1970-1986) ngày trước, hay của Thiền viện Thường Chiếu... hiện nay (1974-1991...) do chúng tôi (Thích Thanh Từ) chủ trương hướng dẫn. Chúng tôi không theo các tông phái chi nhánh Thiền tông Trung Hoa sau này, như tông Tào Ðộng, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Chúng tôi chỉ kết hợp ba cái mốc quan trọng trong dòng lịch sử truyền thừa Thiền tông từ Trung Hoa đến Việt Nam. Mốc thứ nhất là Nhị Tổ Huệ Khả, mốc thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, mốc thứ ba là Sơ Tổ Trúc Lâm. Hòa hội chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng tu hành của ba vị Tổ này thành phương pháp tu thiền trong các Thiền viện chúng tôi.
1.
Nhị Tổ Huệ
Khả 2.
Lục Tổ Huệ
Năng 3. Sơ Tổ Trúc
Lâm |
|||||
|
|||||
Sau khi ngài Huệ Khả được Tổ
Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) nhận làm đệ tử mà lòng vẫn còn thao
thức, tại sao tâm mãi lăng xăng trong lúc ngồi thiền. Một hôm đến
trước Tổ, Ngài bạch: "Bạch Hòa thượng, tâm con chẳng an, xin Hòa
thượng dạy con pháp an tâm." Tổ Ðạt-ma nhìn thẳng, bảo: "Ðem tâm ra
ta an cho." Ngài sửng sốt quay lại tìm tâm, không thấy bóng dáng,
bạch Tổ: "Con tìm tâm không được." Tổ bảo: "Ta an tâm cho ngươi
rồi." Ngay đây ngài Huệ Khả biết được đường
vào. |
|||||
Chỗ biết được đường vào của ngài Huệ Khả là một pháp
tu mà không có pháp. Bởi vì từ xưa đến nay, tất cả chúng ta đều nhận cái
suy nghĩ phân biệt lăng xăng là tâm của mình, ngài Huệ Khả cũng chung một
thông lệ ấy. Cho nên ngồi lại tu, muốn cho tâm an mà nó không chịu an,
khiến chúng ta rất khổ sở về vấn đề này. Cầu pháp an tâm là điều cấp thiết
của người quyết chí tu hành. Ở đây Tổ Ðạt-ma không dạy phương pháp gì,
Ngài chỉ bảo "Ðem tâm ra ta an cho". Câu này là một tiếng sấm dẹp tan mê
lầm muôn thuở của ngài Huệ Khả. 1. Cái tâm suy nghĩ ấy khi có khi không, còn chúng ta thì lúc nào cũng hằng hữu. Nếu chấp nhận nó là mình thì khi không suy nghĩ là không có mình sao? 2. Bình thường nó suy nghĩ lăng xăng, khi nhìn lại tìm kiếm nó thì mất tăm mất dạng. Nếu nó là thật mình thì lúc nào cũng phải có. Trái lại khi tìm thì mất, chẳng qua nó chỉ là bóng dáng mà thôi. Chấp nhận cái bóng làm mình thì thật là đau khổ cho con người. 3. Chúng ta ai cũng thừa nhận mình trước sau vẫn là mình, mình là một từ bé đến già. Thế mà, tâm suy nghĩ ấy lại trăm ngàn thứ, có khi nghĩ lành như hiền thánh, có nghĩ dữ như cọp sói... thì cái nào là mình? 4. Lúc đang suy nghĩ, chúng ta biết mình đang suy nghĩ, lúc không suy nghĩ biết không suy nghĩ. Cái suy nghĩ ấy là đối tượng bị biết của chúng ta. Ðã là đối tượng tức là khách, là cái bên ngoài không phải mình. Nếu cái suy nghĩ là thật mình, lúc không suy nghĩ, ai biết không suy nghĩ? Ðã có cái biết lúc không suy nghĩ thì làm sao nhận cái suy nghĩ làm mình được?
Cái không phải mình mà lầm nhận là mình, trong kinh
Phật gọi là "Nhận giặc làm con", tai họa không thể lường được. Cho
nên bao nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu, đức Phật đều dạy xoay
quanh cái trục "Chận đứng tâm suy nghĩ lăng xăng này". Tụng kinh
phải nhiếp tâm, niệm Phật phải nhất tâm, tọa thiền phải định... Song
đặc biệt là Thiền tông, chư Tổ không dùng phương tiện để đè bẹp, để
ngăn chận nó, mà dùng trí biết rõ bản chất không thật của nó thì nó
hết tác quái. Chính câu "Ðem tâm ra ta an cho" của Tổ Ðạt-ma đủ thể
hiện ý nghĩa này. "Biết đường vào" chưa phải là
kẻ đến nhà, phải trải thời gian lâu xa, ngài Huệ Khả mới bạch với Tổ
Ðạt-ma: "Từ đây trở đi con dứt hết các duyên." Tổ Ðạt-ma bảo: "Chớ
rơi vào đoạn diệt." Huệ Khả thưa: "Không rơi." Tổ Ðạt-ma hỏi: "Con
làm thế nào?" Huệ Khả thưa: "Con thường biết rõ ràng, nói không thể
đến." Tổ Ðạt-ma dạy: "Ðây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên hoài
nghi." Ðến đây mới thật là người về tới nhà, không còn nghi ngờ gì
nữa. Khi Tổ Ðạt-ma sắp tịch, hỏi lại
chỗ sở ngộ của các đồ đệ, đến lượt Huệ Khả, Ngài chỉ bước ra đảnh lễ
ba lạy rồi lui. Tổ Ðạt-ma nói: "Ông được phần tủy của ta." Ðến chỗ
cứu kính không còn ngôn ngữ để trình bày, vì ngôn ngữ là phương tiện
tương đối, không thể diễn tả được cái chân thật tuyệt đối. Từ đó
ngài Huệ Khả được truyền y bát làm Tổ thứ hai ở Trung
Hoa.
|
|||||
Chỗ sở ngộ của Tổ Huệ Năng là do
nghe kinh Kim Cang Bát-nhã. Sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cho vào
thất và nghe giảng kinh Kim Cang đến đoạn Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: "Khi
phát tâm cầu vô thượng chánh giác, làm sao an trụ tâm?" Phật đáp:
"Chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
sanh tâm kia; nên không chỗ trụ mà sanh tâm ấy." Ngài đại ngộ kêu
lên: "Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh! Ðâu ngờ tánh mình vốn
không sanh diệt! Ðâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ! Ðâu ngờ tánh mình
vốn không dao động! Ðâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp!" Ngũ Tổ
bảo: "Chẳng biết bản tâm học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm
mình, gọi là Trượng phu, Thiên nhân sư, Phật..." Thế là Ngài được
Ngũ Tổ truyền y bát làm Tổ thứ sáu. |
|||||
Lục Tổ vì phương tiện lập Tam vô: Vô Niệm làm Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm Bổn. Theo Lục Tổ giải: Ðối trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không phược, đây là lấy Vô trụ làm gốc. Ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô tướng, hay lìa tướng tức là pháp thể thanh tịnh, đây là lấy Vô tướng làm thể. Ðối trên các cảnh tâm không nhiễm, gọi là Vô niệm (Kinh Pháp Bảo Ðàn, phẩm Ðịnh Huệ). Không nhiễm các pháp, không kẹt các tướng, không dính mắc các pháp, đây là chủ trương của Lục Tổ. Không nhiễm, không kẹt, không dính, ngay khi tiếp xúc với sáu trần là thiền định. Không phải chạy trốn cảnh trần, rồi sau tâm mới an định như các lối thiền định khác.
|
|||||
Vua Trần Nhân Tông lúc còn làm
Thái tử đã thông suốt Thiền tông do sự giáo dục của Tuệ Trung Thượng
sĩ. Sau khi bỏ ngôi đi xuất gia, lấy hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu-đà,
Ngài hòa hội các phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo
Ðường đã truyền bá trên đất nước Việt Nam, lập thành phái thiền Trúc
Lâm Yên Tử. Ðây là phái thiền hoàn toàn Việt Nam. Ở đây chúng tôi
chỉ chắt lọc một vài nét nổi bật trong sự chỉ dạy của Ngài để làm
tiêu chuẩn, đó là bài kệ Hữu Cú Vô
Cú: |
|||||
|
|||||
Ðoạn một và hai, Ngài quở người
chấp hai bên là tự chuốc khổ vào mình. Ðoạn ba và bốn, Ngài chê kẻ
chấp hai bên là dại khờ, chỉ nhọc nhằn luống công. Ðoạn năm và sáu,
Ngài trách những phương tiện tạm bợ mà người vì cố chấp hai bên nên
không thấy chân lý. Ðoạn bảy và tám, Ngài chỉ thẳng chân lý ngay
trước mắt như lỗ mũi nằm sẵn dưới chân mày mà người ta không nhận,
cứ lý luận ồn ào vô ích. Ðoạn chín, Ngài nói ai dứt chấp hai bên mới
thật vui thích. Ngay đoạn chín này hẳn là chỗ Nhị Tổ trình kiến giải
bằng ba lễ mà không có một lời. Không kẹt hai bên làø căn bản của
Thiền tông, cũng chính là cốt tủy của Phật
giáo.
Lại một bài kệ kết thúc bài phú
"Cư Trần Lạc Ðạo" của Sơ Tổ Trúc Lâm là cô đọng những gì Lục Tổ đã
thấy và ứng dụng: |
|||||
|
|||||
|
|||||
Chúng tôi dung hợp pháp tu của
ba vị Tổ trên thành một lối tu cụ thể như sau: - Nơi Nhị Tổ, chúng tôi ứng dụng pháp an tâm. Nghĩa là biết rõ tâm suy tưởng lâu nay là hư ảo, không để nó đánh lừa, lôi dẫn chúng ta chạy theo trần cảnh, nên nói "Vọng tưởng không theo". Mỗi khi nó dấy lên đều biết rõ như vậy. Một khi hành giả nhận diện bản chất hư ảo của chúng thì chúng tự biến mất. Khi tọa thiền cũng như lúc tiếp duyên xúc cảnh đều thấy rõ, không lầm chúng. Ðến bao giờ được như Nhị Tổ nói "Ðoạn hết các duyên mà rõ ràng thường biết, nói không thể đến" là đạt kết quả. |
|||||
Tuy nhiên vọng tưởng này không
phải dễ lắng, dứt cái này khởi cái khác liên miên không dừng. Hành
giả phải bền chí theo dõi, soi sáng mãi chúng mới từ từ thưa dần.
Nhận vọng tưởng hư ảo làm tâm mình là mê lầm, biết vọng tưởng hư dối
không thật là tỉnh giác. Lối tu này là dùng "cái dụng của trí để phá
si mê", chớ không có pháp gì dùng để đè bẹp, nên nói "pháp an tâm mà
không có pháp". Khi hết si mê vọng tưởng lặng thì trí dụng cũng
dừng, như trong mười mục chăn trâu, khi trâu mất thì người chăn cũng
không còn. Trí dụng hết đối trị, liền hội nhập trí
thể.
- Với Lục Tổ, chúng tôi ứng
dụng sáu căn không dính mắc sáu trần làm hướng tiến tu. Ðó là câu
"Bất ưng trụ sắc sanh tâm..." trong kinh Kim Cang được Ngũ Tổ giảng
cho Lục Tổ. Nhưng làm sao căn không dính trần? Ðương nhiên phải dùng
trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, thấy các pháp duyên hợp hư dối như huyễn
như hóa. Vì thế trong kinh Pháp Bảo Ðàn, sau phẩm Hành Do là đến
phẩm Bát-nhã. Nhờ trí tuệ Bát-nhã soi rọi thấy rõ các pháp duyên
sanh, không có chủ thể (vô ngã), không cố định (vô thường) nên tâm
không nhiễm trước sắc... do đó căn, cảnh không dính mắc nhau. Căn,
cảnh không dính mắc nhau là Vô Niệm, Vô Tướng, Vô Trụ, đó là chủ
trương của Lục Tổ.
Lại có một cách khác, nếu hành
giả kiến tánh như Lục Tổ, hằng sống với thể tánh bất sanh bất diệt
của mình thì còn gì bận bịu với vọng tưởng hư dối, với sáu trần giả
hợp. Ði đứng nằm ngồi không lúc nào rời tự tánh chính mình. Ðược thế
thì ung dung tự tại, nên nói "đói ăn khát
uống".
- Ðến Sơ Tổ Trúc Lâm, trong bài
kệ "Câu Có Câu Không", đoạn thứ tư nói "Nón tuyết giày hoa, ôm cây
đợi thỏ", là tinh thần Bát-nhã của Lục Tổ. Các pháp hư giả như nón
tuyết, như đôi giày bằng hoa, tạm có rồi tan mất, mới thấy đẹp rồi
héo xàu, có gì lâu bền. Nếu chấp giữ nó là người ngu, như kẻ "ôm cây
đợi thỏ". Toàn thể pháp đối đãi đều không thật, do phương tiện bày
lập, giống như dây sắn dây bìm, một phen cắt đứt chúng mới là an vui
tự tại. Ðấy là tinh thần hai câu kết của bài kệ "Cắt đứt sắn bìm, đó
đây vui thích". Vừa dấy niệm là đối đãi, vừa thốt lời là đối đãi,
nếu dứt hết đối đãi thì còn niệm nào để khởi, còn lời gì để nói. Ðây
là hằng sống thật với thiền.
Phần sau ở hai câu kệ "Trong
nhà có báu thôi tìm kiếm. Ðối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền", là hình
ảnh Lục Tổ thốt lên "Ðâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh!..." Thấu
triệt tánh mình như thấy hòn ngọc quí vô giá có sẵn trong nhà, còn
gì phải tìm kiếm đâu xa. Thấy tánh mình thanh tịnh, chẳng sanh chẳng
diệt, so với thân vô thường tạm bợ và tâm vọng tưởng hư ảo thì thân
tâm này còn có giá trị gì. Trong không chấp thân, không chấp vọng
tưởng làm mình, ngoài đối cảnh không còn dính mắc, chính đây là chủ
yếu của Thiền tông, cũng là cội nguồn của Phật pháp. Ở đây chúng tôi
lấy "Ðối cảnh không tâm" làm tiêu chuẩn tu hành. Không tâm là không
tâm vọng tưởng chạy đuổi theo ngoại trần, chớ chẳng phải không tâm
là vô tri vô giác như cây gỗ. Không tâm hư ảo sanh diệt mà vẫn có
tâm hằng giác hằng tri, bất sanh bất diệt. Ðây là chỗ giải thoát
sanh tử của người tu Phật.
Nhị Tổ Huệ Khả sau khi ngộ đạo
vẫn được Tổ Ðạt-ma giới thiệu bốn quyển kinh Lăng-già để ấn tâm. Lục
Tổ Huệ Năng nghe giảng kinh Kim Cang ngộ đạo. Thế là đủ minh chứng
Thiền tông không rời Kinh, vì Thiền là tâm của Phật, Kinh là miệng
của Phật. Ðức Phật tâm miệng không khác thì Thiền và Giáo làm sao
tách rời được. Cho nên chúng tôi chủ trương "Thiền, Giáo đồng
hành".
Ðể thấy rõ nét lối dung hợp
pháp tu qua ba vị Tổ trên, chúng tôi cô đọng lại bằng những lối
tu:
1.
Biết vọng không theo, vì vọng tưởng là những tâm
niệm hư ảo.
2.
Ðối cảnh không tâm, vì nó là tướng duyên hợp giả
dối tạm bợ.
3.
Không kẹt hai bên, vì đối đãi là không thật.
4.
Hằng sống với cái thật, không theo cái giả, vì giả
là luân hồi, thật là giải thoát.
Ðây là bốn phương tiện chúng
tôi tạm lập để hướng dẫn người tu. Tùy theo căn cơ trình độ nhanh
chậm, cao thấp của hành giả mà lối ứng dụng có khác. Cũng có thể bốn
lối tu này, hành giả linh động ứng dụng theo thứ tự từ pháp thứ nhất
đến pháp thứ tư để tu hành cũng tốt. Những nét cô đọng trên là kết
thúc bài này của chúng
tôi. |