PHẦN 4
“Tuy nhiên
thiền môn cũng cho dùng chánh tri kiến để trị đó.” Ở trong nhà thiền, cũng
có cho dùng chánh tri kiến để trị, tức là dùng cái tỉnh giác để trị cái mê
lầm. Nhưng: “Nếu luận người đương thời (người đương thời là người như
chúng ta chẳng hạn), tức chẳng phải như thế.” Nghĩa là không nói ngộ rồi
mới tu, mà phải nói: “Phật đạo dài lâu, hằng chịu siêng năng khổ nhọc, mới
có thể được thành.” Người đương thời như chúng ta thì phải nói như vậy. Ở
đây Ngài giải thích theo lý thiền câu: “Phật đạo dài lâu, hằng chịu siêng
năng khổ nhọc mới có thể được thành.” Có nghĩa là: “Dài suốt ba đời phàm
thánh nhất như, nên nói: Phật đạo dài lâu.” Bởi vì như chúng ta thấy, cái
tâm thể này nó không bị hạn cuộc trong thời gian. Sở dĩ có ba thời: Quá
khứ, hiện tại, vị lai là chúng ta căn cứ trên thời gian sinh diệt mà nói.
Tâm thể thì nó không mắc kẹt trong thời gian, cho nên nói: ”Phật đạo dài
lâu.” Nghĩa là nó thấu suốt cả ba thời, không bị chi phối, phàm và thánh
đều là nhất như. Vì tâm đó không có đối đãi, không có hai (nên không có
chia ra, đây là Phàm, kia là Thánh). Chẳng hạn chúng ta, đối với Phật thì
chúng ta là Phàm, Phật là Thánh. Đó là đứng về mặt đối đãi, mê ngộ mà nói.
Phật vì ngộ được tâm thể, nên gọi Ngài là Thánh, chúng ta vì quên tâm thể
ấy nên gọi là phàm. Nhưng thật ra tâm thể ấy, không có phàm, cũng không có
thánh. Nhưng giờ đây chúng ta muốn làm thánh thì sao? Chỉ một việc hết sức
đơn giản là nhớ thôi. Vì chúng ta không phải trèo non, lội biển nhọc nhằn,
mà chỉ có một việc nhớ, nhớ là thánh, quên là phàm, nhớ là ngộ, quên là
mê. Vậy chúng ta nhớ cái gì? Nhớ mình có tâm thể. Còn quên cái gì? Quên
tâm thể, chạy ra ngoài. Cho nên chữ mê, ngộ thực ra rất đơn giản. Vì chúng
ta thường hay quan trọng nó, nói ngộ là phải ngộ được cái gì? Và mê là mê
cái gì? Nó dầy đặc mà mình không hiểu?
Ở đây, mê chỉ
có nghĩa là quên. Như trong Kinh Pháp Hoa nói: “Có người có hòn ngọc quí,
ở trong chéo áo mà quên, nên phải lang thang đi xin ăn nơi này, nơi nọ
chịu nhiều khổ sở. Đến khi gặp người bạn chỉ cho, liền biết là có hòn ngọc
quí cất trong áo, tức là người đó nhận ra mình có hòn ngọc quí, từ đó về
sau không còn phải đi xin ăn đói khổ nữa.
Chúng ta bây
giờ cũng vậy. Ai ai cũng có tâm thể đó, nhưng quên đi, nên cứ chạy theo
vọng tưởng sinh diệt, duyên theo sáu trần nó cứ cuốn chúng ta đi nơi này
nơi kia, gọi đó là luân hồi. Chỉ khi nào chúng ta sực nhớ lại, không chạy
theo vọng tưởng, sáu trần, hằng sống với cái tâm thể, thì đó là đạo. Còn
quên nó để chạy theo vọng tưởng, duyên theo sáu trần, đó là mê. Nói thì
hết sức đơn giản, tưởng chừng trong chốc lát chúng ta giải quyết xong! Tuy
nhiên, đến khi thực hành thì quả thật cay đắng, phải vậy không?
Bởi gì chúng
ta quên lâu đời quá, quên nó để chạy theo những cái rất tầm thường ở bên
ngoài, nhưng mình cứ chạy theo mãi. Thật tình nếu chịu khó ngẫm nghĩ kỹ
chúng ta sẽ thấy:
Buổi sáng ta
ăn lót lòng, và làm vài công việc đến trưa. Trưa vào nấu cơm ăn xong, nằm
nghĩ một chút đã đến xế chiều. Tiếp tục công việc, rồi nấu cơm ăn là đến
tối. Đêm nghĩ một giấc thức dậy là sáng. Hết sáng đến tối, tối đến sáng
như vậy... Rồi chính trong cái sinh diệt triền miên đó, mình lại đặt điều
kiện này điều kiện kia, chớ không bao giờ có niệm tỉnh giác. Nào biết đâu,
thời gian rất là chóng vánh! Chăngr hạn như những vị 6, 7 mươi tuổi. Giờ
sực nhớ lại 6, 7 mươi năm qua nào có xa xôi gì đâu? Những cái đó nó cứ
trôi qua, trôi qua trong chốc lát. Như vậy, mà mình thì ngày nay mong ngày
mai, ngày mai làm sao sáng sủa hơn ngày nay. Rồi mong năm này sáng sủa hơn
năm ngoái. Chúng ta cứ sống với những cái gì ở bên ngoài, mà quên mất
mình, quên lững đi, chớ không nói là quên chút ít. Cho nên Phật nói, Ngài
thấy chúng sanh đáng thương là ở chỗ đó! Nếu chúng ta không có tâm thể,
hoặc phải tạo ra một cách cực khổ, và mình tạo không được thì không biết
làm sao, còn nó rõ ràng mà bỏ quên đi để chịu khổ, thử hỏi không đáng
thương sao được? Đáng thương là tại vì nó có, mà chúng ta lại quên đi. Tuy
quên mà đi đến đâu cũng mang nó theo, nhưng không biết đem ra dùng. Giờ
đây khi hiểu được lẽ này thì chúng ta thấy rõ, sự tu hành của chúng ta chỉ
là làm sao nhận ra, thấy rõ được cái mặt thật của chính mình (nhà thiền
gọi là: Bản lai diện mục), để rồi từ đây về sau không còn kẹt ở trong đối
đãi, trong phàm thánh, mê ngộ. Vì trên tâm thể đâu có phàm thánh, đâu có
mê ngộ?
“Chẳng khởi
thấy khác chưa từng trái bỏ.”
Nghĩa là bây
giờ, lúc nào chúng ta cũng nhận ra mình, và hằng sống trong cái đó và
không chạy theo cái khác, đó là không thấy khác, đó là chưa từng trái bỏ.
Nên nói: “Hằng chịu siêng năng khổ nhọc.”
Muốn hằng sống
trong thể đó thì cũng phải lâu mới được. Vì vậy nên nói: “Người mà khi đi,
đứng, nằm, ngồi đều không có niệm khác, người đó gọi là thấy tánh.” Không
phải chúng ta ngày đêm lạy Phật thật nhiều gọi là thấy tánh. Thấy tánh là
suốt ngày đêm không để cho các niệm khác dấy lên, hằng sống với cái chân
thật của chính mình.
“Tột cùng
không có pháp khác nên nói: “Mới có thể được thành.”
Nghĩa là khi
đến chỗ tột cùng, thì chỉ có tâm thể đó , chớ không có pháp nào khác,
không có quả vị nào ai đem đến cho mình.
“Đây là việc
của Đại Trượng Phu.”
Người nhận
được sống được là Đại trượng Phu chớ không phải là kẻ tầm thường.
“Người không
biết đi hỏi, liền y nơi đó mà đáp. Chẳng biết bèn tự hỏi thì ông muốn đáp
cho ai? Người không biết đáp, liền y lời nói khởi kiến giải. Chẳng biết
bèn tự đáp thì ông có chỉ thú gì? Cho nên nói: Thảy là Ông, khéo xem, khéo
xem!”
Đoạn này thật
là khó hiểu! Nếu người không biết được tâm thể của mình, rồi đi hỏi kẻ
khác. Người đó nói y theo câu hỏi của mình, mà đáp lại cho người.
Đó là trường
hợp người không biết chạy theo bên ngoài để hỏi. Còn bây giờ Ngài nói
chẳng biết, bèn tự hỏi thì ông muốn đáp cho ai? Nếu mình chạy theo bên
ngoài để hỏi, thì đã có người hỏi và người đáp, rõ ràng là có hai, tức
thuộc ở ngoài. Thực tình nếu không biết thì mình tự hỏi lấy mình, tự vấn
lấy mình, như vậy còn có ai hỏi? Ai đáp? Cho nên nói: Đáp cho ai?
“Người không
biết đáp, liền y lời nói khởi kiến giải, chẳng biết bèn tự đáp thì ông có
chỉ thú gì?”
Người không
biết đáp, là người khi nghe hỏi liền khởi cái hiểu biết phân biệt, thế
này, thế kia để đáp lại người hỏi. Đó là khởi kiến giải. Nếu chẳng biết
bèn tự đáp cho mình, thì còn có chỉ thú gì? Tóm lại, câu chót Ngài nói:
“Cho nên nói thảy là ông, khéo xem! Khéo xem!”
Như vậy đoạn
này Ngài nói, nếu chúng ta không biết thì nhận nơi mình, ta vấn nơi mình
mà biết. Còn nếu chúng ta biết đáp thì cũng tự thầm đáp, để xoay lại mình,
chớ đừng có chạy theo câu hỏi của người mà suy nghĩ, tính toán. Thế mới
không bị mắc kẹt, các ý nghĩ khác ở bên ngoài, mà hỏi và đáp đều chính nơi
mình hết. Cho nên, trong nhà thiền thường dùng những câu nói như vấn tức
là đáp. Khi hỏi tức là đáp. Tại sao khi hỏi là đáp? Và hỏi là hỏi cái gì?
Phải chăng hỏi đạo? Hỏi Phật? Hỏi Tâm? Đạo Phật ở đâu? Rõ ràng ở ngay đầu
câu hỏi đó, đã có đạo, đã có Phật rồi! Vậy mà mình cứ chờ người khác đáp,
rồi bám theo cái đó mà suy nghĩ, cuối cùng chấp lấy chỗ kiến giải, cho là
của mình. Thật đáng hổ thẹn thay!
Cho nên người
biết hỏi là hỏi ngay nơi mình, vừa dấy niệm lên biết đầu cái niệm ấy là
gì? Tự nhiên sẽ thấy! Trái lại, nếu dấy niệm chạy theo ra ngoài hỏi, chờ
người đáp rồi suy nghĩ, đó là mắc kẹt. Đến người đáp cũng vậy, khi người
hỏi, mình đáp, thì cũng đáp cho khéo, để cho họ xoay lại họ, mình xoay lại
mình, đó mới là đáp đúng.
Chính chỗ này
nên quí vị thấy, trong nhà thiền nhiều khi có những hành động lạ lùng.
Chẳng hạn như hỏi: “Thế nào là câu cứu cánh.” Vị Thiền Sư chỉ ngồi làm
thinh. Đó là đáp hay không đáp? Đáp đó là dùng cái gì đáp? Tức là trở lại
mình. Bởi vì cái cứu cánh là cái tự mình nhận, tự mình thấy trước khi vọng
tưởng chưa sanh, nên hỏi: “Thế nào là cứu cánh?” chỉ ngồi làm thinh. Nếu
người không hiểu thì thôi, còn nếu khéo thì nhận ra ngay, vì trong cái làm
thinh đó đã chỉ cái cứu cánh rồi. Đó là đáp để trở về mình, và người hỏi
kia, họ cũng trở về họ. Đây tôi dẫn thêm một câu chuyện:
Có một Thiền
sư một hôm hỏi thị giả:
- Oâng họ gì?
Thị giả đáp:
- Con đồng họ
với hoà thượng.
Vị Thiền Sư
lại hỏi:
- Ta họ gì?
Chúng ta ai
trả lời dùm câu hỏi đó xem?
Thị giả thưa:
- Đầu câu nói
đó là gì?
Thật là câu
nói khéo làm sao! Đầu câu nói đó là gì?
Vị Thiền Sư
hỏi:
- Ngươi từng
học ở đâu?
Thị giả thưa:
- Không có chỗ
khác!
Vậy ông Hòa
Thượng họ gì? Nghe câu chuyện như là nói đùa mà thật thấu đáo. Nếu thị giả
không trả lời như vậy, mà nói: Thưa Hòa Thượng con họ Nguyễn, họ Lê gì
đó... Thì chắc là nguy! Hỏi: “Đầu câu nói là gì? Tức vị Hòa Thượng kia đã
biết họ của Ông thị giả rồi. Nghĩa là chú đồng họ với ta. Đó là những cái
khéo của nhà thiền, mà người ngoài (ngoại cuộc) có vẻ lạt lẻo làm sao!
Nhưng thật tình nó rất thâm thúy! Chính lối đáp như vậy, mới thật là cái
hỏi đáp trở về mình. Còn chúng ta cứ nghe hỏi rồi đáp, không khéo là hỏi
đáp theo phân biệt của ý thức. Vì vậy nên Ngài nói: Thảy là ông, khéo xem!
Khéo xem. Tức là cái gì cũng xoay về chính mình. Trong Kinh Lăng Nghiêm
đâu chẳng nói: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai.” Nghĩa là, người
nào chuyển được vật, thì người đó đồng với chư Phật. Cũng như Lục Tổ nói:
“Người chuyển Kinh và người bị Kinh chuyển. Như câu chuyện Ông Pháp Đạt
tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn bộ, mà không hiểu chỉ thú của Kinh, như vậy là
bị kinh chuyển. Còn giờ đây biết chuyễn được Kinh thì đó là người thấy
đạo. Do đó, bao nhiêu lời Phật dạy là để thấy lại mình, nhưng chúng ta
không chịu thấy, mà cứ cho lời Phật nói thế này là hay, thế kia là tuyệt
diệu... Rồi suy nghĩ hoài câu nói đó, đến nỗi chưa bao giờ thấy được mình.
Không thấy
được mình thì dù lời Phật nói có hay thế mấy đi nữa, cũng là của báu thiên
hạ (Thiền Sư nói: Mặc áo nhà bên cạnh), không phải của báu nhà mình. Nên
nhân lời Phật nói mà thấy được mình, đó mới thật là chuyển Kinh. Cũng như
chúng ta thấy sự vật, chúng ta nghe tiếng. v.v... Tất cả sau trần đối đãi
bên ngoài ta, nhưng mỗi cái thấy, cái nghe chúng ta đều xoay trở lại mình
nhận rõ nơi mình, thì đó gọi là chuyễn vật, là đồng với chư Phật.
“Hoặc có người
bảo: từ trước cổ nhân Phật Tổ chỉ bày ngôn giáo, lưu bố thế gian, mỗi mỗi
phân minh. Cớ sao đều nói là “tự mình”, đâu không phụ lòng từ bi của
Thượng Tổ, chư Thánh nhọc nhằn dạy bảo?”
Đến đây Ngài
đặt nạn vấn. Ngài nói: có người hỏi; từ xưa đến giờ Phật Tổ đã chỉ dạy,
bao nhiêu Kinh điển rõ ràng, truyền bá đầy đủ trên thế gian rành rẽ. Giờ
đây cái gì Ngài cũng bảo là “tự mình.”
Như vậy có
phải Ngài phụ lòng chư Phật, chư Thánh hay chăng? Ngài đáp:
“Tôi thuận
theo tông thú của Phật Tổ, chính Ông phụ lòng từ bi của chư Thánh trước,
chớ tôi đâu có phụ. Tâị sao? Nếu nói có sở thuyết, tức là chê bai Phật,
Tổ. Ông chớ nên làm người rốt sau đoạn hạt giống Phật. Nếu chẳng đến nơi
mình biết trở về, thì việc làm đều thành hư ngụy. Dù Ông nhớ được như hà
sa, hiểu được như trần mặc ở nơi mình nào có ích gì? Cho nên nói: “đem cái
nghe nhớ lại chư Phật, sao chẳng nghe lại tánh nghe, cầu tướng ở bên
ngoài, cùng ông đâu dính dáng gì. Có một vị tôn túc bảo: nay ta đáp ông
một câu, mà tiến được, vẫn còn đôi phần so sánh. Nếu Ông chẳng hội, Lão
Tăng thành vọng rồi.”
Đoạn này Ngài
nói thật rõ, tại sao chúng ta phải trở về mình như câu hỏi trên. Nếu cái
gì chúng ta cũng nói trở về mình. Như vậy là chúng ta đã phụ lòng chư
Phật chỉ bảo. Nhất là đức Phật A Di Đà đang đưa tay đón tiếp chúng ta
(nghĩa là Ngài sẵn sàng đón tiếp chúng ta, mà chúng ta không chịu đưa tay
cho Ngài dìu, thành ra như vậy mình đã phụ Ngài sao?). nhưng ở đây Ngài
Phật Nhãn nói lại: “Đó là Ông phụ, chớ không phải ta phụ.” Tại sao Ngài
trả lời như vậy? Vì “nếu có sở thuyết (chỗ nói) tức là chê bai Phật, Tổ.”
Trong Kinh Kim Cang Phật nói: “nếu nói Phật có thuyết pháp tức là chê bai
Phật.” Như vậy nói có sở thuyết, tức có cái bị nói, Ông chớ nên làm người,
rốt sau đoạn hạt giống Phật.” Nghĩa là Ông chớ làm chớ làm cái kẻ sau cùng
dứt hạt giống Phật. Bởi vì lời của chư Phật nói ra, cốt chỉ chúng ta ngộ
tâm thể của mình, chớ không phải để nói thành câu hay, lời khéo cho chúng
ta học thuộc. Thế nhưng chúng ta thường hay bị mắc kẹt ở lời Phật nói,
không chịu nhận nơi mình. Do đó Phật nói Kinh suốt 49 năm, mà sau cùng
Ngài kết luận một câu: “Ta chưa từng nói một chữ,” để thấy rằng có nói đó
chỉ là phương tiện tạm thời, chớ không phải cứu cánh chơn thật. Cái thật
chính là trở về nơi mỗi người chúng ta, nên nhận ra được nơi chính mình.
Nếu không như vậy, chính chúng ta đã tự đoạn hạt giống Phật của chính
mình, chớ không ai khác.
“Nếu chẳng đến
nơi mình biết trở về, thì việc làm đều thành hư ngụy.” Nếu chúng ta không
trở về nơi chính mình, thì những việc làm của chúng ta như: gõ mỏ, tụng
Kinh, niệm Phật. v.v... là cầu những cái bên ngoài (tức những cái đó) đều
là hư ngụy. Như vậy, cái chính yếu, cốt phải trở về mình. Thế nên, chúng
ta ngồi thiền là để làm gì? Là không chạy theo vọng tưởng. Nếu ngồi mà
mong thấy Phật, thấy tướng hào quang... đó là mong những cái bên ngoài, đó
cũng là hư ngụy, mà chạy theo cái hư ngụy tức đã là tà. Vì vậy cho nên
nói: “Dù Ông nhớ được như hà sa (nhớ Kinh, nhớ lời Tổ nhiều như cát sông
Hằng), hiểu được như trần mặc (hiểu Kinh, hiểu lý nhiều như bụi mực), nơi
mình nào có ích gì? Nghĩa là nếu chúng ta hiểu nhiều, nhớ nhiều. Nhưng
chính nơi mình nào có ích gì? Chính Phật đã từng trách Ngài A Nan trong
Kinh Lăng Nghiêm: “Dù cho Ông đa văn, học thuộc lòng ba tạng Kinh của chư
Phật, không bằng một ngày Ông thật hành tu để thấy đạo.” Tức là một ngày
mà chúng ta tu, chúng ta sống thật với mình, còn quí hơn thuộc lòng ba
tạng Kinh Phật.
“Cho nên nói:
đem cái nghe nhớ lại lời chư Phật, sao chẳng nghe lại tánh nghe?” Câu này
trích lại trong Kinh Lăng nghiêm: “Tương văn trì Phật, Phật hà bất tự văn
văn”. Nghĩa là đem cái nghe mà nhớ lời chư Phật, sao chẳng nghe lại tánh
nghe của mình. Bởi chúng ta có cái bệnh, nghe câu nào trong Kinh nói hay
thì nhớ cho thuộc, mà không chịu sống lại tánh nghe hằng có của chúng ta.
“Cầu Phật có
tướng ở bên ngoài, cùng Ông đâu có dính dáng.” Câu này trích ở trong lời
các Tổ nói. Nghĩa là chúng ta đã có Phật mà không biết trở về, lại cứ cầu
Phật ở bên ngoài như Phật Thích Ca, Phật A Di Đà. v.v... vậy Phật ở bên
ngoài đâu làm cho mình trở về được? Muốn trở về, phải là chính mình chớ
không ai khác! Vậy nên Ngài dẫn “Có vị Tôn túc bảo: nay ta đáp Ông một câu
cũng chẳng khó, nếu Ông ngay một câu mà tiến được, vẫn còn đôi phần so
sánh.” Bởi nếu chúng ta nhân câu nói của vị đó mà có tiến, có hiểu thì
cũng vẫn còn trong vòng đối đãi, so sánh. Lại “nếu Ông chẳng hội thì Lão
Tăng trở thành vọng rồi.” Còn nếu chúng ta không hiểu thì đó cũng là lời
nói rỗng, vô ích.
Nói tóm lại,
chúng ta phải thấy rằng, học đạo gốc là trở về mình. Nhưng bây giờ chúng
ta và Phật tử học đạo như thế nào? Trở về mình hay chạy ra bên ngoài. Gần
hết 90% là chạy ra ngoài. Nghe nói ở đây, kia có thầy bói giỏi, tức liền
đi đến để xem. Nghe đằng nọ có gò mối nổi lên giống hình Ông Phật liền tới
lễ. v.v... Cứ như vậy mà chạy ngược chạy xuôi tìm Phật. Cuối cùng Phật ở
đâu không thấy, mà Phật chính mình thì đành quên mất tự lúc nào.
“Học Giả thời
nay đua nhau, lấy hỏi đáp làm quan yếu trong Thiền Tông, chẳng biết là tâm
thủ xả khởi tưởng. Than ôi cái học đến lý, đến sự đều là lối nói của người
gần đây, dù có chút ít nhận hiểu cũng chưa được thôi dứt. Đâu chẳng nghe
nói: Đạo Niết bàn dứt bặt nghĩ lường. Phải biết thẳng thắn tự kiểm điểm
mới được.”
Ngài nói rằng
nhiều người cho hỏi đáp là chỗ quan yếu của người học Thiền. Nhưng thật ra
đó cũng là tâm thủ xả. Vì nếu người đáp hay, thì ta cũng chấp vào câu đáp
để mà nhớ, còn người đáp dở thì chúng ta chê. Như vậy cũng còn là cái
tưởng thủ xả thôi. Cái học dẫn đến lý, đến sự, là người học thì chia ra
đây là sự, kia là lý, lý khác, sự khác. Cái đó đều là lối nói của người
gần đây. “Và có những người như vậy, dù có chút ít nhận hiểu, cũng chưa
được thôi dứt.” Vì sao? Vì chúng ta còn kẹt trong cái suy tư, phân biệt.
“Đâu chẳng nghe nói, Đạo Niết bàn dứt bặt nghĩ lường.” Nếu chúng ta còn
suy nghĩ, dù suy nghĩ cái hay như Niết bàn, như Phật chăng nữa, thì cũng
chỉ là Niết bàn tưởng, Phật tưởng mà thôi. Chỉ khi nào chúng ta không
nghĩ, không tính toán đó mới thật là đạo Niết bàn. “Phải biết thẳng thắn,
tự kiểm điểm mới được.” Do đó mà chúng ta phải thẳng thắn, nhìn lại mình
để kiểm điểm nơi mìnhthì mới thấy được Niết bàn. Còn nếu chúng ta cứ chạy
ra ngoài, theo cái bên ngoài thì ắt không bao giờ thấy.
“Người do mê
tâm nên tìm đạo, bèn đến trong núi rừng cầu gặp thiện tri thức, cho là
riêng có cái đạo, có thể khiến người được an lạc. Họ không biết nghiên cứu
trở lại, chằm chỗ mê hạ thủ công phu là tối đệ nhất. Nếu không đến được
chỗ mê này, dù vào núi rừng không trở lại, cũng uổng công mà thôi. Chỗ mê
cũng rất dễ nói mà khó vào. Cho nên Tiên Đức nó: “khó tin, khó hiểu!” lại
bảo đây là nói đạo của Tông Đốn. Nói phản chiếu vốn là lời tẩu tác, huống
là chẳng như thế. Người đời sau, bèn dùng lời trên làm bình thường vô sự,
một vị chơn thật. Đây là chỗ không rõ của kẻ hậu học, ăn mặc chẳng xét.”
|