CHỖ ĐỒNG KHÁC GIỮA PHẬT HỌC VÀ KHOA HỌC
Giảng tại
Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt - 2001
Đề tài hôm nay
tôi nói là Chỗ đồng khác giữa Phật học và Khoa học. Đây là một vấn đề
trọng đại.
Từ trước đến
giờ, đạo Phật được một số nhà khoa học công nhận là đạo khoa học. Tại sao?
Vì đạo Phật phân tích sự vật, con người rất chi ly và hợp lý với khoa học.
Thí dụ Duy thức học có Bách pháp tức một trăm pháp, chia chẻ từ con người
cho tới ngoại cảnh rất rõ ràng. Khoa học cũng phân tích chia chẻ, nên gần
với Phật học.
Tuy nhiên có
một số người nói đạo Phật duy tâm, không dính gì với khoa học hết. Đó là
hai lối nhìn tương phản về đạo Phật, tồn tại từ trước tới nay. Cho nên
chúng tôi nghĩ cũng cần nói qua những nét căn bản đồng và khác giữa hai
bên cho quí vị hiểu tường tận.
Trước hết tôi
nói về chỗ đồng. Khoa học muốn đem lại ấm no hạnh phúc về vật chất cho đời
sống của con người, cho nên trọng tâm khoa học nghiên cứu tìm kiếm là làm
sao cho con người được ấm no, hạnh phúc, sung sướng nhất là về mặt tiện
nghi. Điều này quả thật đã đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho cuộc sống con
người. Như ngày xưa muốn được ấm no, phải nỗ lực cần cù làm việc cặm cụi
cả ngày mới có cơm ăn, áo mặc. Ngày nay khoa học đã giúp con người tìm
được sự ấm no dễ dàng hơn, như một thửa ruộng ngày xưa thu hoạch chừng một
hai tấn, bây giờ có thể thu hoạch gấp đôi gấp ba mà không cần dùng nhiều
sức người, tất cả đều được công nghiệp hóa. Các mặt khác cũng thế, phương
tiện giao thông, y tế, thực phẩm v.v… đều tối tân hiện đại. Do đó chúng ta
thấy khoa học đã thỏa mãn phần nào những nhu cầu vật chất của con người.
Đạo Phật cũng
nhắm thẳng vào con người nghiên cứu, cho nên giữa Phật học và khoa học có
điểm tương đồng là đều lấy con người làm trọng tâm để nghiên cứu.
Đến điểm khác,
đó là Phật học và khoa học có mục đích khác nhau. Khoa học phát minh sáng
tạo theo chiều hướng tìm tòi bên ngoài cốt phục vụ cho nhu cầu vật chất
của con người. Còn Phật học nghiên tầm ngược lại ngay nơi bản thân con
người, để phát minh ra được cái chân thật có năng lực vô tận nằm bên trong
con người. Chúng ta đọc sử Phật, thấy rõ ràng đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi
còn là Thái tử, Ngài dạo bốn cửa thành thấy cảnh người già, người bệnh,
người chết đau đớn thống khổ, Phật liền đặt vấn đề: “Chúng ta sanh ra ai
rồi cũng già, cũng bệnh, cũng chết. Lớp người trước như vậy, lớp người kế
như vậy, lớp người sau cũng mãi mãi như vậy. Thế thì con người từ đâu đến
đây? Sau khi chết sẽ đi về đâu? Muốn thoát ra sự sanh tử này phải làm
sao?”. Ba mục tiêu đức Phật nhắm có khác khoa học không?
Khoa học
nghiên cứu con người chỉ nghiên cứu ngay trong cuộc sống, nếu xa hơn là
phăng tìm nguồn tổ tiên con người có mặt bao lâu, tiến hóa như thế nào. Ở
đây đức Phật nhìn con người trước khi có thân này ở đâu, tại sao đến đây?
Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai, khi chết rồi, còn hay mất? Nếu còn thì đi về
đâu? Thứ ba, nếu muốn dừng sự sanh tử phải làm sao? Đó là ba vấn đề mà tất
cả những người học Phật, nghiên cứu về đạo Phật phải nắm cho được. Như vậy
cùng căn cứ trên con người mà hai bên có hai cái nhìn khác nhau.
Khoa học chỉ
muốn đem lại cho con người sự vui sướng thỏa mãn trong cuộc sống hiện đời,
nhưng đạo Phật đi sâu hơn, nghĩ tới vòng sanh tử tiếp nối không ngừng của
tất cả chúng sanh. Như vậy cái nhìn của đạo Phật sâu xa hơn về cuộc sống
hiện tại cũng như quá khứ vị lai, trong thế giới này và các thế giới khác.
Theo đó mà phương pháp và chỗ nghiên cứu sâu cạn của hai bên khác nhau.
Khoa học tìm
đủ mọi cách để cung phụng, thỏa mãn nhu cầu vật chất cho con người, đó là
nói theo chiều thuận. Song tai hại ghê gớm từ những phát minh khoa học,
con người cũng không thể lường nổi. Cho nên khoa học là một con dao hai
lưỡi, một mặt làm cho con người sung sướng, một mặt tiêu diệt con người.
Vì vậy không thể nói khoa học hoàn toàn đem đến an vui hạnh phúc cho nhân
loại.
Còn Phật học
thì sao? Người ta thấy khoa học ít năm hay ít tháng phát minh cái này, cái
nọ một cách cụ thể rõ ràng. Còn nhìn các thầy tu cứ ngồi lim dim ngó xuống
hoài, không thấy phát minh gì hết. Một bên có kết quả cụ thể, một bên
không thấy chút tăm hơi, cứ thầm lặng bên trong không ai biết thế nào. Đó
là chỗ sai biệt.
Nếu chỉ lo cho
con người khỏe mạnh sống lâu, nhưng sống đến một lúc nào cũng phải chết
thôi. Thành ra việc nghiên cứu ấy rất giới hạn. Còn cái nhìn của đức Phật
không dừng ngang đó, Ngài muốn biết nguồn gốc nào con người có mặt ở đây,
khi chết sẽ đi về đâu. Như vậy sự hiện hữu của chúng ta là một phần thuộc
về quá khứ, và những gì ta làm trong hiện đời sẽ ảnh hưởng đến vị lai. Cho
nên đức Phật phăng tìm lẽ thật đó. Phương tiện duy nhất Ngài phăng tìm là
lặng lẽ chiếu soi vào nội tâm mình, cho tới lúc hoàn toàn tịch tĩnh, tự nó
bừng sáng.
Bởi bừng sáng
nên đức Phật chứng được minh đầu tiên là Túc mạng minh, Ngài nhớ vô số
kiếp về trước của mình, con ai, làm gì, ở đâu… Nhớ như thế, Ngài mới thấy
rõ con người không phải chỉ có mặt lần thứ nhất ở cõi này, mà đã có vô số
lần rồi. Chúng ta thử kiểm lại xem điểm này có hợp với lẽ thật không? Như
trong một gia đình cha mẹ đồng sanh ra ba bốn người con, tất cả những ý
nghĩ, tư tưởng, tâm tư của họ có giống hệt nhau không? Nhiều lắm là giống
hình tướng, nhưng cũng không giống trọn vẹn. Nếu nói về vật chất, gien của
cha mẹ tốt thì con cũng tốt, gien của cha mẹ xấu thì con cũng xấu, nhưng
tại sao lại có kẻ vầy người khác, người hiền kẻ dữ?
Đức Phật thấy
chúng sanh đã có mặt nhiều đời, nên người đời trước hiền hành, đời sau
sanh ra cũng hiền lành, nhờ chủng tử có từ trước. Cũng thế người hung dữ
sanh ra liền hung dữ, không ai dạy mà tự phát. Vì vậy Phật nói mỗi người
mang sẵn những chủng tử nghiệp từ quá khứ liên hệ đến hiện tại và sẽ ảnh
hưởng đến vị lai.
Ai cũng muốn
sanh ra trong gia đình giàu sang sung sướng, nhưng vẫn có người phải chui
vào những gia đình nghèo khổ tàn tật. Cái gì khiến họ phải lựa chọn như
vậy? Đó là nghiệp. Phật thấy rất rõ về điều này, con người từ trước do
tích lũy nghiệp lành, nghiệp dữ nên ngày nay sanh ra gặp những cảnh tốt
xấu, chớ không ai đặt để cho cả. Ví dụ như tôi, cha mẹ sanh ra lo cho học
hành, mong muốn lớn khôn gầy dựng gia đình sự nghiệp như bao nhiêu người,
nhưng tôi lại đi tu. Điều này cha mẹ không dạy, sao lại có? Rõ ràng tôi đã
tích lũy từ đời trước, nên đời này gặp Tam bảo tự nhiên muốn tu. Chúng ta
thấy rõ ở thế gian có nhiều cảnh ngang trái mà người ta vẫn phải chịu,
không buông bỏ được. Đây chính là chỗ đức Phật muốn phăng tìm.
Nói vô số
kiếp, có người thắc mắc ban đầu chưa có ai thì làm sao có chúng sanh thủy
tổ. Phật nói ban đầu là vô minh. Vô minh là mê lầm. Từ một niệm mê lầm mà
có bao nhiêu sanh tử. Như khi chúng ta ngủ, mộng thấy nào là đi đám tiệc,
nào là gây gổ với thiên hạ chẳng hạn, đủ thứ chuyện. Tại sao thấy như vậy?
Tại mê chớ không có lý do nào khác. Sở dĩ ta mê ngủ mới phóng túng đi tùm
lum. Cũng vậy, từ mê lầm chúng ta không sống được với thể tánh thanh tịnh
của mình, nên lăn lộn trong tam giới. Đó là Phật nói về nguồn gốc của sự
sanh.
Bây giờ nói
đến vấn đề sau khi chết đi về đâu? Khi chứng được Thiên nhãn minh, Ngài
thấy rõ chúng sanh đều do nghiệp dẫn đi trong các đường. Nghiệp lành đi
đường tốt, nghiệp dữ đi đường xấu, rõ ràng như chuyện trước mắt, không
nghi ngờ gì hết. Như vậy con người chết không phải là hết, mà bị nghiệp
dẫn đi trong sanh tử. Nghiệp đó mắt phàm không thấy nổi, chỉ khi tâm thanh
tịnh rồi mới thấy được.
Ngày xưa đọc
sách Trung Quốc, thấy mấy ông tiên nhìn ai thì biết người đó có hắc khí
sắp bị tai nạn, hoặc có ánh sáng sẽ gặp việc lành, tương lai tốt đẹp. Đừng
nói chi tiên, mấy con chó ở nhà quê khi thấy người làm heo, giết chó,
chúng sủa rân. Bởi họ có cái gì thầm kín, mắt ta không thấy được. Bây giờ
khoa học tiến nhiều, thấy trong bầu trời nhiều tinh thể mà mắt thường
không thể thấy. Điều này chứng tỏ con mắt phàm tình rất giới hạn. Mắt Phật
vượt qua các giới hạn đó nên Ngài thấy được nghiệp của chúng sanh. Tượng
Phật Bồ-tát thường được trang trí vòng hào quang phía sau đỉnh đầu, để nói
lên ánh sáng trí tuệ của các Ngài siêu xuất thế gian, soi tỏ khắp hết.
Thứ ba, khi
chứng được Lậu tận minh rồi, đức Phật biết rõ chúng sanh đau khổ trôi lăn
trong sanh tử từ vô số kiếp đến nay là do vô minh điên đảo tạo nghiệp mà
ra. Với con mắt phàm phu thấy cuộc đời là hạnh phúc, là quan trọng, nhưng
với con mắt của Phật thì thấy một lần sanh tử là một lần đau khổ. Cứ tiếp
tục như vậy mãi thì đau khổ vô cùng, nên trong kinh A-hàm Phật nói: “Nước
mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả”. Nói vậy thế gian cho là bi quan,
nhưng đó là lẽ thật. Con người sợ thấy sự thật, họ muốn tạm quên vô
thường, cứ hăng hái xông xáo làm tất cả việc, chừng nào ngã đùng chết hãy
hay. Như vậy vô tình loài người cứ thúc nhau đi trên con đường sanh tử
tiếp nối, đời này sanh ra khổ, đời sau tiếp nối khổ, cứ khổ mãi cho tới vô
cùng.
Do thấy được
lẽ thật này, Phật dạy phải tìm cách thoát khổ, không phải thoát khổ một
đời, mà thoát khổ vĩnh viễn. Muốn thế phải làm sao? Khoa học tạo ra vật
chất nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống con người, đó là giảm bớt cái khổ hiện
tại. Nhưng khi nhắm mắt không ai giúp ta được hết. Đức Phật thấy vòng sanh
tử vô cùng vô tận, dù đời này có thỏa mãn sung sướng, chắc gì đời sau được
yên vui. Nhưng thỏa mãn thế nào đi nữa, con người có trốn khỏi cái già,
cái bệnh, cái chết không? Già bệnh chết là đau khổ, thiên hạ ai không sợ.
Vậy cái khổ luôn ở bên mình, nói vui sao được? Một đời này ta đã thấy
chán, huống là trăm ngàn đời, làm sao chịu nổi. Cho nên Phật tìm cách giải
quyết, đừng cho nó tiếp tục nữa. Muốn thế, cách duy nhất là phải tu. Trước
tiên là tạo nghiệp lành, tránh nghiệp dữ, cho vòng luân hồi tốt một chút.
Nhưng cuối cùng còn sanh tử là còn đau khổ, phải tu làm sao để giải thoát
sanh tử. Đến khi chứng được Lậu tận minh, Phật mới thấu rõ phương pháp nào
để chấm dứt dòng sanh tử.
Như vậy nghiên
cứu của Phật học khác với khoa học nhiều ít? Khoa học chỉ lo cho hiện tại,
còn Phật học lo cho vô số đời sau. Phật dạy muốn thoát ly sanh tử, phải có
đủ hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất, biết rõ bản chất con người là hư hay
thực, khổ hay vui? Khi nhận thức đúng rồi, mầm tham muốn được sanh tự
nhiên dừng lại. Như bây giờ nếu chúng ta không tham lam, không nóng giận,
không si mê thì làm việc gì sẽ không có hối hận. Sở dĩ mình hối hận liên
miên vì tham lam, nóng giận, si mê nên làm bậy. Vậy muốn không tạo nghiệp
phải sáng suốt, thấy đúng như thật về con người.
Khi nghe ai
nói “Anh này hôi quá”, chỉ một chút thôi, đó là sự thật mà người ta không
chịu. Cuộc đời này toàn là tô điểm, giả càng thêm giả. Con người mãi chạy
theo cái giả, làm sao tỉnh được. Tất cả chúng ta đa số đều sống trong cái
mê cho nên khổ hoài. Phải tỉnh, thấy được lẽ thật để không còn tham đắm
cuộc sống giả tạm. Không tham đắm cuộc sống giả tạm thì bớt nghiệp dẫn đi
trong sáu đường. Đây là vấn đề hết sức quan trọng.
Trong kinh Kim
Cang Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng
phi tướng tức kiến Như Lai”, nghĩa là tất cả những gì có tướng đều là hư
vọng, nếu thấy các tướng không phải tướng, đó mới là thật thấy Phật. Chúng
ta thường sống trong ảo tưởng hư dối làm sao giải thoát được, cho nên cứ
kéo dài, cứ đùa vui trên con đường sanh tử. Đức Phật thương nên dạy tất cả
chúng ta hãy thức tỉnh, mới thấy cuộc sống này chỉ là một giấc mơ thôi.
Mấy mươi năm tưởng như dài, nhìn lại trong chớp mắt chẳng là gì.
Người tu thiền
trước phải học Bát-nhã để nhớ con người không thật, các cảnh duyên không
thật nên không tham đắm vào đó. Khi ngồi thiền Phật dạy phải định, dừng
tâm nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ phải, nghĩ quấy v.v… để nhận ra cái chân thật
không sanh không diệt muôn đời của mình. Như vậy trước dùng trí tuệ
Bát-nhã ruồng phá tất cả kiến chấp sai lầm mê muội của mình. Sau khi ruồng
cái đó rồi, trở lại dẹp tận gốc tạo nghiệp. Cho nên đối với hành giả tu
thiền, trí Bát-nhã phải đi đầu. Vấn đề này phải tu để thể nghiệm mới biết
được chỗ sâu thẳm bên trong, chớ không thể nói suông được.
Khi ta ngồi
Thiền có những phút tạm yên, vậy ai thấy yên? Đâu phải cái nghĩ thiện,
nghĩ ác thấy, mà ta vẫn biết lúc này đang yên, như vậy ngầm có một cái bên
trong thường thấy thường biết rõ ràng. Cái đó đâu phải từ chỗ nào đến, nó
sẵn nơi mình, nhưng vì vọng tưởng lăng xăng nhào lộn hoài thành ra ta
không thấy nó. Khi vọng tưởng dừng lại, tâm lặng lẽ tự nhiên ta nhận ra
được thôi. Khi yên phăng phắc như vậy còn khen chê phải quấy nữa đâu, thì
lấy gì tạo nghiệp. Không còn tạo nghiệp mà hiện tiền ta vẫn thấy biết, đó
chính là bản tâm giải thoát sanh tử, không còn bị nghiệp kéo lôi nữa. Thế
là nhờ công phu thiền định, trí tuệ phát sanh, chúng ta chặt đứt được cội
gốc luân hồi sanh tử.
Chứng Lậu tận
minh là không còn rớt trong Tam giới, không còn bị sanh tử nữa. Tại sao
không còn? Bởi tâm lặng lẽ hiện tiền thì đâu còn tạo nghiệp để đi trong
sanh tử. Nhà Phật dùng mọi cách để chỉ cho chúng ta thấy mình có viên ngọc
quí, nhưng từ lâu bỏ quên, bây giờ phải nhớ để nhận lại. Vua Trần Thái
Tông khi nói tới sự sanh, Ngài làm hai câu thơ:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật cách gia hương vạn lý trình.
Nghĩa là đã từ
lâu ta làm người khách phong trần. Mỗi ngày đi cách quê hương muôn dậm.
Mỗi lần sanh ra là mỗi lần xa cách quê hương. Cho nên hình ảnh chàng cùng
tử bỏ cha mẹ đi lang thang, khi thức tỉnh trở về thấy cha mẹ không dám
nhìn. Đó là để diễn tả khi chúng ta đã quên cái thật rồi, thì càng đi càng
xa, càng chìm đắm, đối diện với cái thật cũng không thể nhìn ra.
Người biết tu
phải trở về bằng hai cách. Một là biết mình có cái chân thật, đó là gốc.
Trong nhà Thiền gọi là đủ lòng tin. Hai là từ biết mình có cái chân thật
nên những thứ giả dối không gạt ta được nữa. Loại dần cho đến hết cái giả
dối rồi thì cái chân thật hiện ra. Đơn giản làm sao!
Chúng ta thấy
cái nhìn của đức Phật và cái nhìn của khoa học cách xa bao nhiêu? Xa thăm
thẳm, vậy mà bây giờ con người chỉ biết tán dương khoa học, còn Phật học
thì thấy như chuyện đâu đâu. Đức Phật thương chúng sanh cứ mãi mê lầm để
chìm trong sanh tử như thế, nên Ngài mới khởi đại bi tâm muốn cứu độ chúng
sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử, chớ không phải cho ăn cho mặc sung
sướng.
Phật dạy con
người khổ là tại tham, sân, si. Bây giờ muốn hết khổ phải chừa bỏ từ từ,
đi lần tới chỗ tuyệt đỉnh là sạch hết những niệm lăng xăng, chừng đó mới
giải thoát sanh tử, hoàn toàn tự do tự tại. Như vậy con đường chúng ta đi
gần hay xa? Đạo Phật nói tu ba vô số kiếp, xa thăm thẳm phải không? Ba vô
số kiếp mới thành Phật thật là xa thăm thẳm. Nhưng có chỗ Phật nói chúng
sanh giác ngộ thành Phật nhanh như trở bàn tay. “Hồi đầu thị ngạn”, quay
đầu lại là bờ giác. Như vậy cái nào đúng? Cái nào cũng đúng hết.
Ví dụ Phật tử
đã hiểu đạo giữ năm giới rồi, như vậy đời sau sanh ra sung sướng hơn.
Nhưng nếu không có duyên gặp Phật pháp tiếp tục tu nữa, chỉ lo thụ hưởng,
hết phước sẽ trôi lăn trở lại. Cứ trồi lên hụp xuống như vậy ba vô số
kiếp, nên nói tu đến ba vô số kiếp. Còn ngay nơi thân này biết nó giả dối
không tham muốn nữa, tâm lặng dần những niệm lăng xăng phải quấy của thế
gian, nhận ra cái chân thật và sống với nó, đây gọi là giác ngộ thành Phật
nhanh như trở bàn tay.
Phật chứng
được tam minh rồi, Ngài biết được nguyên nhân nào chúng sanh đi trong sanh
tử và làm sao để ra khỏi. Tại sao Ngài biết? Là vì Ngài đã có kho báu,
dùng được nó thì diệu dụng không thể lường. Nên nhà thiền thường nói chân
không diệu hữu. Khi đã thể nhập chỗ chân thật ấy rồi, có năng lực không
thể nghĩ bàn, nên nói diệu dụng như hằng sa.
Chúng ta tu
từng bước, bỏ từ từ chớ không có can đảm buông một lần. Bởi vậy nên lý đạo
thì rất rõ, mà ứng dụng thì chưa tới đâu. Nhiều người tu cả năm mà cuối
cùng thấy cũng chưa bước được bước nào, đôi khi còn sụt nữa là khác. Hạng
người này tu theo con đường ba vô số kiếp. Hạt giống Phật tuy không mất
nhưng cứ trồi lên hụp xuống, tu rồi hưởng, hưởng hết phước lại tuột xuống,
cứ thế xoay vần mãi.
Nhà Thiền
thường nói những bậc đại trượng phu nhảy một cái vọt tới chót núi. Đây
không phải là chuyện nói đùa, mà sự thực nếu người can đảm như Lục Tổ một
lần nghe liền ngộ. Ngộ rồi buông hết, cả ngày không có một niệm như vậy
làm sao không giải thoát được.
Cho nên nếu
nhìn đến chỗ cứu kính thì đạo Phật cách xa khoa học muôn trùng. Đức Phật
không có kính hiển vi, mà thấy hết những hành tinh trên bầu trời nhiều như
số cát sông Hằng, khoa học bây giờ tìm còn chưa ra hết số hành tinh ấy.
Phật thấy vi trùng cũng khỏi cần kính hiển vi, nên chuyện Ngài nói đâu
phải mơ màng. Vì thế phải biết khi sống trở về với tâm chân thật rồi, trí
tuệ thấu suốt, thấy đúng lẽ thật của các pháp.
Tất cả chúng
ta tu Phật thì phải thấy chỗ siêu thoát của đạo Phật. Thấy cho tường tận
mới không lầm với những điều hào nhoáng bên ngoài được người ta tán
thưởng. Ví dụ ngày xưa đi từ Nam ra Bắc phải ba bốn tháng, bây giờ chỉ mấy
tiếng đồng hồ là tới nơi. Thấy thì thích thật, nhưng lỡ máy bay tắt máy
giữa chừng, lúc đó không biết kêu cứu với ai. Thế gian luôn luôn là như
vậy, cạnh cái sung sướng đã có khổ đau chực sẵn một bên.
Đạo Phật không
chấp nhận sự sung sướng như thế. Phật dạy nếu bớt tham sân si thì không
còn mầm mống của đau khổ. Đó là một lẽ thật. Chúng ta tu tới tâm hoàn toàn
trong sạch, tự sáng ra thấy cuộc sống này như trò chơi, chừng đó chết sống
không có gì bận tâm, là đã qua bao nhiêu cái khổ. Dù cuộc sống vật chất
không sung túc lắm, nhưng tâm hồn thoải mái tự tại là ta cảm thấy hạnh
phúc rồi. Chỉ cần giảm bớt ba thứ độc tham sân si thì gia đình nào cũng
hạnh phúc. Đó là hạnh phúc thật sự, chớ không phải hạnh phúc giả dối.
Tóm lại, nếu
hiểu đạo Phật một cách đúng chúng ta sẽ thấy có những đặc điểm như sau.
Đặc điểm thứ nhất, đạo Phật nói đúng như thật chớ không dối gạt người. Tất
cả những gì Phật nói đều là lẽ thật. Đạo Phật cho chúng ta biết thế gian
là khổ và chỉ phương pháp diệt khổ. Đặc điểm thứ hai, đạo Phật chỉ cho
chúng ta nhận ra cái chân thật có sẵn nơi mình, vĩnh viễn xa rời trầm luân
sanh tử, chớ không phải từ đâu lại. Đặc điểm thứ ba, đạo Phật tôn trọng tự
do tuyệt đối. Tất cả chúng sanh ai cũng có quyền làm Phật và ai cũng có
quyền làm chúng sanh, ai cũng có quyền xuống địa ngục, ai cũng có quyền
lên cõi trời, Phật không can dự vào. Ngài chỉ hướng dẫn cho biết đâu là
tốt đâu là xấu, còn phần chọn lựa quyết định là của chúng ta. Tất cả khổ
vui, giải thoát hay trói buộc gốc từ mình.
Tất cả chúng
ta có duyên gặp Phật pháp là điều rất quí hiếm. Ngoài ra còn được thầy,
bạn chỉ dẫn lẽ thật cho mình, đây không phải là chuyện dễ. Qua được hai
điều khó này rồi, chỉ còn mình ráng tu thôi. Nếu không tu được thì thôi,
đừng kêu trời trách đất, cũng đừng than phiền với ai hết, đó là tại mình
có quyền mà không tự sử dụng. Vậy mong tất cả chúng ta luôn sáng suốt sử
dụng quyền của mình, để làm lợi ích cho mình và cho mọi người.
Tự do thế gian
còn có luật pháp này nọ, chứ tự do trong đạo Phật là tuyệt đối. Ta muốn đi
trong lục đạo luân hồi thì cứ đi, muốn ra khỏi thì cứ ra, quyền của mình.
Cho nên vui khổ tự làm tự chịu, không thể trách ai được cả.
Mong tất cả
quí Phật tử nghe ít hiểu nhiều, nói sơ sài mà thấm sâu, nhớ lâu, tu hành
đắc lực, được kết quả thiết thực. Vậy là tốt. |