TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ MẤT
Giảng tại chùa
Lưỡng Xuyên – Trà Vinh 2001
Hôm nay chúng
tôi trở về Lưỡng Xuyên tại Trà Vinh, dự lễ khánh thành ngôi chùa cũng
là Phật học đường năm xưa. Lần này về thấy chùa khang trang chúng tôi rất
vui mừng.
Chúng ta là
người sau kế thừa những bậc tôn túc trước, các Ngài đã gầy dựng, lập nên
những gì tốt đẹp, bổn phận chúng ta là con cháu phải tiếp nối, gìn giữ.
Những gì các vị lập ra bị hư hoại, chúng ta phải sửa sang trang nghiêm như
buổi đầu. Hay nữa là làm đẹp hơn trước, như thế mới tròn bổn phận của hàng
con cháu đi sau.
Cùng tất cả
Tăng Ni Phật tử,
Hôm nay nhân
ngày lễ Khánh thành chùa Lưỡng Xuyên, với niềm hoan hỷ chung của mọi
người, tôi nói một bài pháp tuy không phải cao siêu lắm, nhưng lại thiết
yếu cho người tu Phật. Tất cả chúng ta ai cũng có tâm nguyện tốt lành,
muốn làm sao hiện tại đời mình được an vui tốt đẹp, vị lai lại càng tốt
đẹp hơn. Không ai dại gì chỉ nghĩ tới hiện tại mà quên đi vị lai. Do đó
bài pháp hôm nay mang đề tài Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn
giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
Trước khi nói
tài sản không bị mất, chúng ta nên biết số tài sản mình đã bị mất. Như
hiện giờ mọi người đều muốn có tiền của nhiều, giàu sang sung túc. Vì muốn
như thế nên cả đời cứ lo, cứ tạo, cứ giữ nhưng cuối cùng vẫn giữ không
được. Trong kinh Phật dạy tất cả tài sản thế gian đều bị năm thứ cướp mất.
Thứ nhất là bị
lửa cướp mất. Có người ky cỏm dành dụm cất được cái nhà vừa ý, khi sơ sẩy
một chút lửa phát cháy lên thì thiêu rụi hết. Tất cả những gì dành dụm bao
năm chỉ một cơn hỏa hoạn là tan hoại. Cái không giữ được mà cả đời chúng
ta lo lắng bảo vệ, cho nên khi mất nó ta rất khổ sở.
Thứ hai là bị
nước cuốn trôi. Rõ ràng nhất là tình cảnh lũ lụt ở xứ sở mình. Khi mùa lũ
đến nó cuốn trôi tất cả, những gì ta dành dụm bao năm chỉ một cơn lũ là
mất sạch. Chẳng những nhà cửa, đồ đạc bị nước cuốn đi, mà cả sinh mạng con
cái người thân của mình cũng có thể bị hiểm họa. Cảnh tượng đau khổ này,
chúng ta đã từng chứng kiến, từng biết qua rất rõ rồi. Đó là tai họa thứ
hai.
Thứ ba là bị
trộm cướp lấy mất. Chúng ta làm lụn cực khổ, dành dụm tiền bạc của cải
được kha khá một chút thì bị trộm cướp rình rập, cướp lấy. Như vậy có của
trong tay, không bị lửa cháy, không bị nước cuốn cũng không bảo đảm gìn
giữ dài lâu được.
Thứ tư là bị
vua quan tịch thu. Ngày xưa thời phong kiến thường xảy ra nạn này. Vì lý
do nào đó, một khi vua quan ra lệnh tịch thu thì bao nhiêu tiền của đều bị
thu tóm hết. Như vậy công lao sức lực của mình chắt chiu, khi gặp kẻ có
quyền lực muốn cướp lấy, ta cũng không có cách gì bảo vệ được. Đó là nói
thời phong kiến.
Thứ năm là bị
con bất hiếu tiêu phá. Có nhiều bậc cha mẹ cực nhọc biết bao nhiêu, làm ra
được đồng tiền đổ mồ hôi sôi nước mắt. Tất cả đều vì thương yêu lo lắng
cho con cái về sau. Không ngờ lớn lên, chúng ngỗ nghịch bất hiếu vô đạo,
đã chẳng nghĩ đến công ơn trời biển của cha mẹ, lại còn hung hăng trịch
thượng với song thân, yêu sách thế này thế nọ. Chúng tập bè tập bạn theo
thói hư tật xấu, về nhà kiếm chuyện đòi tiền cha mẹ. Nếu không có, chúng
chẳng từ nan mọi việc tàn ác để thực hiện mục đích của mình, phá hoại tài
sản, hãm hại cha mẹ. Chuyện này kể ra biết bao nhiêu cho hết.
Phật dạy của
cải thế gian bị năm nhà chực lấy như thế, ta có thể giữ được sao? Vậy mà
cả đời mình lo cho có tiền, có của. Khi có tiền của rồi phải lo giữ, giữ
không được thì đau khổ. Con người si mê lo mãi như thế cho tới khi tắt thở
mới thôi. Sống năm bảy chục năm, chúng ta dồn hết sức để lo tạo, giữ gìn
một cái không giữ được, có đáng buồn đáng thương không?
Như vậy cả hai
trường hợp chúng ta đều không thể giữ gìn tài sản được: Trường hợp thứ
nhất bị ngoại cảnh làm tiêu tan. Trường hợp thứ hai bị thân nhân phá hoại.
Vậy mà ít ai thức tỉnh, ít ai quan tâm đến một thứ của cải còn mãi mãi
không mất. Do đó đức Phật mới chỉ bảo cho chúng ta biết mình có một thứ
tài sản không bao giờ mất, lửa đốt không cháy, nước cuốn không trôi và
trộm cướp cũng không rình rập nổi nữa. Tài sản này được chia ra hai phần.
Một là tài sản từ trong nội tâm mình gầy dựng. Hai là tài sản do giúp đỡ
cho người mà được.
Trước hết nói
về tài sản từ nội tâm của mình. Phật dạy chúng ta tu hành cho có công đức.
Làm thế nào tu hành cho có công đức? Khi hiểu Phật pháp rồi, thì tu hành
là việc dành dụm của cải của mình đó. Công đức là của cải. Như bình thường
ta tốt với mọi người, nhưng một cơn giận thì người chung quanh không còn
khen chị đó hiền lành nữa, mà họ nói chị đó dữ quá. Vậy nóng giận làm tan
hoang hết công đức của mình. Vì vậy trong nhà Phật nói: “Một đóm lửa sân
thiêu hết cả rừng công đức”.
Thật ra nóng
giận làm thương tổn chính mình, chớ không phải thương tổn người khác. Tại
sao? Bởi vì khi nóng giận, ta có những lời nói không hiền lành, tay chân
không đàng hoàng, mặt mũi trừng trợn rất dễ sợ. Ai dù đẹp cách mấy khi
nóng giận cũng biến thành hung dữ, ghê tợn. Rõ ràng nóng giận làm cho mình
mất đẹp mà lại còn khiến cho người ghét nữa. Như vậy thương tổn nhiều ít?
Cái làm cho mình thương tổn quá nhiều, tai hại quá lớn như vậy tại sao ta
không bỏ? Có nhiều người còn dọa thiên hạ: “Tánh tôi nóng lắm à, đừng chọc
tôi!”
Chúng ta biết
tu rồi thì phải khôn ngoan, sáng suốt. Những gì tai hại phải chừa bỏ. Như
xử sự với người trong nhà, với hàng xóm lúc nào cũng ôn hòa, hiền lành, tử
tế, không bao giờ nổi nóng, thì mọi người đâu có giận ghét mình. Khi ta có
tai nạn gì, mọi người đều giúp đở. Như vậy việc làm hiền lành của mình cảm
được người khác mến thương. Đó chính là tài sản ta để dành mà không có gì
cướp được.
Chúng ta tu để
tìm giữ những gì quí báu của chính mình, chớ không phải tu để cầu Phật cho
cái này cái kia. Người không biết chuyển tâm niệm tai họa của mình trở
thành một tâm niệm tốt đẹp cho mọi người mến quí thì dù có tài sản bao
nhiêu cũng mất hết. Chỉ lo tu tâm sửa tánh hiền thiện mới thật là người
biết gìn giữ tài sản muôn đời.
Thứ hai nữa là
phải tập tâm từ bi. Từ bi là thương người. Phần nhiều Phật tử cứ nghĩ ai
hiền lành là dễ thương, còn kẻ hung dữ thì dễ ghét. Như vậy tâm mình còn
thương người này, ghét người kia thì đâu thể gọi là lòng từ bi bình đẳng
được. Bây giờ làm sao người hiền mình thương, mà người dữ mình cũng không
ghét. Chúng ta khéo tu như vậy công đức mới tăng trưởng.
Tại sao người
hung dữ ta không ghét? Ta thử đặt lại câu hỏi những người hung dữ có khổ
không? Họ khổ nhiều hơn ai hết, bởi vì họ nổi nóng làm bậy nên thiên hạ
chung quanh đều ghét bỏ. Tới nhà nào người ta cũng trốn, cũng xua đuổi, đó
là khổ rồi. Họ đã khổ nên ta thương họ, tìm cách giúp đỡ, chẳng lẽ họ khổ
mình để mặc hoặc làm họ khổ hơn thì đâu còn gọi đạo Phật là đạo cứu khổ
nữa.
Cho nên từ bi
là tập tình thương dành cho tất cả mọi người, bất luận hiền lành hay hung
dữ, ta đều thương đều giúp đỡ như nhau. Người đã tạo những điều xấu xa, ai
cũng ghét bỏ nên rất khổ. Đôi khi chính sự ghét bỏ này làm cho họ càng dữ
hơn, nên ta cần phải thương họ. Còn những người hiền lành ai cũng thương
mến, mình thương nữa là dư. Vì vậy đối với người hung dữ, chúng ta tìm
cách nhắc nhở khuyến dụ cho họ trở thành người hiền. Như vậy mới thực là
người có tâm từ bi, không bỏ một ai. Nếu chúng ta ghét bỏ nữa vô tình đẩy
họ vào chỗ tội lỗi không có ngày thoát khỏi.
Cho nên biết
con cái mình dở thì cha mẹ phải thương phải khéo, tìm cách này cách khác
để khuyến dụ, nhắc nhở. Tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp giúp cho
nó thức tỉnh. Từ bi trong đạo Phật là thương tất cả, chớ không phải là chỉ
thương người tốt. Nhờ tâm từ bi chúng ta mới tạo được nhiều công đức.
Như vậy nhờ
nhẫn nhục, nhờ từ bi, chúng ta mới tăng trưởng công đức. Từ bi và nhẫn
nhục đâu phải tốn tiền tốn của gì mới có, chỉ trong nội tâm mình phát ra.
Công đức chân thật ấy không ai rình rập lấy được. Nhà Phật gọi đó là
nghiệp lành. Ý nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm lành đó là nghiệp lành.
Đời này chúng ta sống với nghiệp lành, khi thân hoại mạng chung nó cũng
theo mình không bao giờ rời. Đây là vấn đề hết sức thiết yếu. Cho nên
chúng ta phải làm sao tạo được những công đức, nó là tài sản miên viễn của
mình. Đó là công đức nội tâm của mình tạo ra.
Công đức thứ
hai là bố thí giúp đỡ bằng hình thức bên ngoài. Ví dụ thấy người đói không
có cơm ăn, chúng ta có cơm ăn thì chia xớt cho họ. Bố thí như vậy tạo
thành công đức, tức là tài sản không bao giờ mất của mình. Bố thí có chia
ra tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí là bố
thí tiền của. Thấy người nghèo thiếu, ta có dư giúp đỡ gọi là tài thí.
Người bị buồn khổ, ta dùng giáo lý Phật khuyên giải cho họ bớt khổ đó là
pháp thí. Người đang lo sợ, hoảng hốt, không được an ổn, ta kề cận khuyên
nhắc hoặc bảo vệ cho họ được an ổn, đó là vô úy thí. Ví dụ như mấy đứa nhỏ
muốn qua đường mà xe cộ nhiều quá, nó sợ không dám qua, chúng ta nắm tay
đưa nó qua. Đó cũng là bố thí. Thế nên tất cả chúng ta đều có khả năng bố
thí. Người có tiền của thì bố thí tiền của. Người không có tiền của thì bố
thí lời nói. Người không khéo nói thì bố thí bằng hành động giúp đỡ.
Trong kinh kể
đức Phật còn mót từng chút phước xỏ kim, huống gì chúng ta kém phước thiếu
trí mà lại không biết làm các việc công đức! Ngày xưa, có một thầy Tỳ-kheo
mù muốn vá y. Ngài xỏ kim để khâu mà xỏ hoài không được. Đức Phật đi ngang
thấy hỏi:
- Ông làm gì
đó?
- Bạch Thế
Tôn, con đang xỏ kim.
- Ông xỏ được
không?
- Con xỏ hoài
không được.
- Đưa ta xỏ
dùm cho.
Rồi đức Phật
ngồi xuống xỏ kim dùm cho Ngài. Các thầy Tỳ-kheo thấy chuyện xỏ kim nhỏ
nhặt mà đức Thế Tôn còn làm để bòn mót từng chút phước, nên không ai dám
xem thường. Ta giúp người được việc gì thì giúp bất luận việc lớn nhỏ. Tu
không phải làm việc gì cho to, cho quan trọng, mà từ việc nhỏ nhất chúng
ta thấy ai cần cũng sẵn sàng giúp đỡ. Giúp cho người khỏi khó, khỏi khổ,
đó là bố thí. Chúng ta bố thí trong mọi phương tiện.
Ngày xưa, có
một cô gái mồ côi cha mẹ, không ai nuôi. Cô phải đi ăn xin ngoài chợ. Tối
lấy chiếu quấn nằm ngủ. Một hôm nghe nói rằm tháng bảy cúng dường Tam bảo
có phước lắm, cô tự nghĩ làm sao mình tạo phước để khỏi nghèo khổ nữa.
Hôm đó xin được có hai xu, cô muốn cúng cái gì mà chư tăng trong chùa đều
hưởng được hết. Nghĩ vậy cô mua hai xu muối, đem vô chùa năn nỉ vị nấu
cơm: “Con xin được có hai xu để mua muối, xin được cúng hết chư Tăng trong
chùa, mong người giúp cho”. Vị ấy liền bỏ nắm muối của cô vào nồi canh to,
thế là chư Tăng đều được hưởng đầy đủ. Bẵng đi một thời gian, cô cũng
không còn nhớ chuyện cúng muối ấy nữa.
Lần lần lớn
khôn, cô càng xinh đẹp lạ thường. Khi đó trong triều đình nhà vua muốn
chọn người cưới cho Thái tử làm vợ. Thấy mỹ nhân nào Thái tử cũng từ chối.
Vua mới ra lệnh cho các quan tìm người nào Thái tử vừa ý sẽ được trọng
thưởng. Bấy giờ một ông quan đi ngang vùng đó, thấy trên trời có vầng mây
đỏ, ông nghĩ nơi đây chắc có dị nhân phước lớn. Giờ trưa, trên đường trở
về, ông thấy cô bé mười sáu, mười bảy tuổi đang trùm chiếu ngủ. Ông đến
gần nhìn, bất chợt cô bé thức dậy tốc chiếu ra. Thấy người con gái đẹp đẽ
phi thường lại sống đầu đường xó chợ như vầy, ông tội nghiệp đem về nuôi.
Được vài năm, cho ăn mặc dạy dỗ đàng hoàng, tới cô mười tám tuổi ông dẫn
đến trình nhà vua.
Vua gọi Thái
tử lại, vừa thấy cô bé Thái tử đẹp lòng ngay. Cô được Đông cung Thái tử
cưới làm vợ. Thời gian sau nhà vua mất, Thái tử lên ngôi vua và cô bé trở
thành Hoàng hậu. Khi làm Hoàng hậu cô cứ nghĩ, không biết mình đã làm
phước gì được thế này. Chừng ấy mới nhớ chắc do việc cúng muối năm xưa mà
ra.
Một hôm Hoàng
hậu sắm đủ thứ vật dụng sang trọng truyền chở vô ngôi chùa ngày xưa. Nhưng
lúc trước chỉ với hai xu muối của cô bé ăn xin, mà thầy Trụ trì nói bữa
nay có đại thí chủ đến cúng dường, bảo chư Tăng đánh chuông trống đón. Bây
giờ Hoàng hậu đem rất nhiều tài vật đến nhưng thầy Trụ trì không đánh
chuông trống đón. Lấy làm lạ, Hoàng hậu gặp thầy Trụ trì hỏi:
- Thưa thầy
ngày xưa con là đứa ăn mày, chỉ cúng dường có hai xu muối mà nghe chuông
trống đánh rình rang. Ngày nay con là Hoàng hậu cúng cả xe trân bảo mà sao
không nghe chuông trống gì hết?
Thầy Trụ trì
nói:
- Ngày xưa hai
đồng xu quí vì đó là mạng sống của con. Muốn cúng chùa con phải nhịn đói,
nên hai xu ấy lớn vô cùng. Ngày nay con là Hoàng hậu, của cải đầy xe nhưng
đó là của dân chớ đâu phải của con. Lấy của người làm phước cho mình thì
đâu có gì quan trọng.
Nghe vậy Hoàng
hậu giựt mình, thức tỉnh.
Qua câu chuyện
trên chúng ta thấy không phải cúng nhiều tiền, nhiều của mới có phước mà
một vật nhỏ nhoi nhưng với tâm rộng lớn, hy sinh tánh mạng của mình, phước
ấy mới lớn. Thế nên chúng ta tu đừng đợi có tiền nhiều cúng chùa mới có
phước. Mà chính lòng thành, tâm tốt dù ít dù nhiều cũng đều có phước lớn.
Công đức đó không ai thấy, không ai biết, chỉ những bậc giác ngộ mới thấy
biết được. Do đó ai cũng có thể làm việc phước hết.
Phước đức do
chính chúng ta gây tạo mới thật là sản nghiệp của mình, còn tất cả những
tài sản thế gian sẽ mất hết, chúng không bền. Chúng ta lâu nay có gom nhóp
tài sản công đức đó không, hay chỉ gom nhóp tiền bạc để dành hoặc gởi ngân
hàng? Cái có thể mất mà chúng ta cứ lo, cứ giành giựt. Còn cái không mất
thì ngó lơ, bỏ quên. Đó là người chưa biết tu.
Người biết tu
phải nhìn thấy được cái gì thật cố gắng làm, cái gì tạm bợ thì đừng quan
tâm. Đây là vấn đề hết sức thiết yếu. Hai thứ tài sản bên ngoài và công
đức bên trong, chúng ta nên chọn cái nào? Đa số chọn tài sản, vì công đức
không thấy được. Đâu ngờ chính cái không thấy được mới không bị lấy mất,
còn tài sản thấy được sẽ bị người ta chia sớt, lấy bớt.
Chúng ta làm
những việc hiền lành có phước đức, người khác bắt chước theo, như vậy có
lợi cho thế gian biết chừng nào. Còn có tài sản nhiều dùng không hết,
người thiếu hụt chắc chắn họ sẽ dòm ngó, rình rập ăn cắp, tạo nghiệp xấu
cả hai đều khổ.
Hiểu rõ như
vậy, mong rằng tất cả chúng ta đều cố gắng làm những việc tốt đẹp. Mọi
người gặp nhau ai cũng vui tươi, cười nói thân thiện, chớ không có nóng
giận nói bậy, làm bậy, gây khổ cho nhau. Được vậy cả cuộc đời ta không
giàu sang dư dả nhưng vui vẻ, an lành. Ta có của nhiều mà chung quanh
thiếu thì càng khổ, chớ có vui gì đâu. Cho nên công đức chân thành luôn
đem đến an vui cho mình. Ta an vui mà chung quanh cũng được tốt đẹp, được
sung sướng theo.
Đa số Phật tử
đi chùa chịu xin hơn là chịu tu. Chỗ nào xin được về nói Phật ở đó linh
lắm, rủ nhau đi. Chỗ nào xin không được về nói Phật ở đó không linh, lại
miếu Bà linh hơn. Thế là Phật tử theo Phật mà vô tình theo quỉ thần hồi
nào không hay. Đó là những sai lầm của chúng ta. Hiểu rồi, ta đừng để
những sai lầm đó tiếp diễn nữa, mà phải thật tu, thật hiểu đạo mới được.
Chúng ta kiểm
lại xem cuộc đời mình sống được bao lâu? Có ai dám nói tôi sống đến chín
mươi tuổi mới chết không? Không ai dám quyết định như thế cả. Mạng sống
của con người không có gì bảo đảm, được lúc nào mừng lúc đó. Giả sử bảy
tám mươi tuổi ta mới chết, bây giờ nhìn lại thì đã bốn mươi, năm mươi hoặc
sáu mươi rồi, thời gian còn lại đâu có bao nhiêu. Như vậy cái chết luôn
rình đón, chờ cơ hội chụp mình, không ai tránh khỏi.
Nhưng hiện giờ
chúng ta lo cho sự sống mà không nghĩ đến cái chết ở một bên. Nếu có nghĩ
thì nghĩ khi chết chôn chỗ nào đó, chớ không bao giờ nghĩ mình chết có đủ
phước đức không? Bởi vậy chúng ta phải chia hai phần, một phần lo cho sự
sống, một phần chuẩn bị cho sự chết, vì cái chết đâu ai trốn được. Bây giờ
không chuẩn bị ngày mai nhắm mắt, mình sẽ đi đâu? Lúc sống không nghĩ tới
khi chết, thì chết tới sẽ hoảng hốt, lo sợ không biết mình sẽ ra sao, thật
đau khổ.
Bây giờ Phật
tử đến chùa qui y Tam bảo và phát nguyện giữ tròn năm giới, khi chết quí
vị đi đâu? Chúng ta qui y Tam bảo, tức là qui y Phật nên khi chết khỏi
đọa địa ngục, qui y Pháp nên khỏi đọa ngạ quỷ, qui y Tăng nên khỏi súc
sanh. Qui y Tam bảo một cách chân chánh đúng đắn thì khỏi đọa ba đường ác
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Người nguyện giữ năm giới, không sát sanh,
không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, hút á phiện
v.v… sau khi chết được trở lại làm người tốt hơn đời này. Nhà Phật gọi đó
là Nhân thừa Phật giáo, tức đạo lý Phật dạy tu để được làm người. Vậy tu
có hai lợi lớn. Lợi thứ nhất trong đời này chúng ta là người tốt, xứng
đáng. Thứ hai đời sau có ta một hướng đi rõ ràng, tốt đẹp hơn không nghi
ngờ, không sợ sệt gì cả. Người không biết tu, hiện tại dù có tiền của
nhưng sắp chết không biết mình sẽ ra sao nên hoảng hốt, kinh hoàng, sợ sệt
đủ thứ. Đó là vì không chuẩn bị, không lo cho ngày mai. Cho nên người biết
lo xa khi còn sống, phải lo cho ngày mai mình nhắm mắt.
Trong kinh
Phật dạy có sáu đường luân hồi tức lục đạo luân hồi là: địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, người, a-tu-la, trời. Trong sáu đường đó, chúng sanh hoặc lên
hoặc xuống, đảo đi lộn lại không có ngày cùng. Ngày nay chúng ta biết tu,
làm sao khi mất thân này, trở lại trong ba đường lành, tránh được ba đường
dữ.
Như vậy giữ
năm giới là điều kiện giúp cho chúng ta sống đúng với con người tốt đẹp
trong hiện tại và mai sau. Người qui y Tam bảo, thọ trì năm giới rồi, khi
tuổi thọ gần hết tự biết mình sẽ đi đâu, không nghi ngờ. Cho nên lúc ấy
vui vẻ cười nói với người thân: “Chiếc xe cũ đã hư, tôi chuẩn bị xe mới
tốt hơn. Đừng lo”. Như vậy chết rất an ổn. Còn bây giờ chúng ta không biết
lo, không nghĩ gì về ngày mai, tới chừng chết hoảng hốt, sợ sệt không biết
đi đường nào cũng muộn rồi.
Chúng sanh tối
tăm, không biết lo cho chính mình nên Phật mới thương xót chỉ dạy. Kế đến
quí thầy là những người thay Phật, chịu trách nhiệm truyền đạt lại những
gì đức Phật đã chỉ dạy, giúp cho chúng sanh biết rõ đường đi của mình,
tránh khổ đau ở ngày mai. Cho nên chư Tăng chỉ giúp chúng ta bằng cách
nhắc nhở, còn làm được hay không là ở mỗi người, quí thầy không thể làm
hơn được.
Phật tử bây
giờ có bệnh chờ chết mời thầy đến tụng kinh. Nhờ thầy tụng kinh để đưa về
Cực Lạc, điều đó tôi không tin trăm phần trăm. Vì sao? Bởi vì Phật đã dạy
nghiệp đã tạo thì nó dẫn mình đi, chớ không ai có khả năng dẫn ta cả. Nếu
có, chỉ phần nào thôi. Nhiều người dẫn trong kinh Vu Lan, nói mẹ ngài Mục
Kiền Liên bị đọa làm ngạ quỷ nhưng Ngài vẫn cứu thoát được. Nhưng họ quên
trong kinh Vu Lan nói sơn lâm thiền định, thọ hạ kinh hành, lục thông
La-hán. Nghĩa là phải mời chư vị chứng A-la-hán, đi kinh hành dưới gốc
cây, trong rừng cầu mới được.
Tại sao cầu
được? Đâu có gì lạ, khi chúng ta có người thân ở xa không gặp. Bỗng dưng
hôm đó ta nghe lòng bối rối, nóng nảy liền tìm đến thăm, mới hay người đó
đang bị tai nạn hoặc bệnh sắp chết. Đó là do người ấy tưởng nhiều về mình,
những luồng tư tưởng ấy tạo mối giao cảm, nhắc nhở mình nên nó rất có ảnh
hưởng. Cũng vậy, những vị đang kinh hành dưới cội cây, đang thiền định
trong rừng núi hoặc người đã chứng lục thông La-hán. Tinh thần các Ngài
mạnh lắm, các Ngài chú tâm hướng về ai thì chuyển được tâm của họ. Do đó
mẹ ngài Mục-kiền-liên nhờ sự chú tâm của các Ngài, từ tâm tham lam bỏn sẻn
chuyển thành tâm thanh tịnh sáng suốt nên bà được sanh cõi trời.
Phật tử ngày
nay lấy cớ đó chờ người thân sắp chết, thỉnh thầy về cầu nguyện. Nhưng lại
quên thầy có chứng được lục thông La-hán chưa? Nếu quí thầy cũng phàm phu,
chỉ khác hơn là tu hơi kỹ kỹ hơn Phật tử một chút, thì sự việc cầu nguyện
ấy rất khó. Chi bằng chúng ta tu cho mình tốt hơn. Nếu chết rồi nhờ quí
thầy quí cô cầu, cầu không được lúc đó mình làm sao? Có xuống địa ngục
cũng phải chịu, làm ngạ quỷ cũng không thể thoát. Thôi thì tự ta rèn luyện
để tâm được tốt, tích chứa nhiều công đức, mai kia đầy đủ tư lương đi một
cách thảnh thơi, khỏi lo sợ gì hết, như vậy bảo đảm hơn không, sướng hơn
không. Thế nên chúng tôi nhắc quí Phật tử phải thực tu, chớ đừng chờ đợi
ai.
Tất cả chúng
ta vì thương mình, muốn lợi ích cho đời mình phải cố gắng tu tạo những
công đức lành. Tạo nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Bởi đó là cái của mình,
không lấy được, lửa không cháy, nước không trôi, đó mới thực là của mình.
Cái thực mà mình không màng tới, lo những cái không thực, đó là không sáng
suốt. Chúng ta tu phải tỉnh sáng chớ không thể mù tối được. Nên ai là
người chân chánh tu hành phải chuẩn bị cho mình ngay trong đời này.
Người giữ giới
không sát sanh đời sau sống dai, ít bệnh tật. Giữ giới không trộm cướp đời
sau giàu có. Giữ giới không tà dâm đời sau đẹp đẻ, trang nghiêm. Giữ giới
không nói dối đời sau nói lưu loát, ai cũng tin cũng quí. Giữ giới không
uống rượu, không hút á phiện v.v… đời sau trí tuệ minh mẫn. Chuẩn bị cho
mình để đời sau mình đủ điều kiện làm một người tốt hơn bây giờ, đó là tu.
Qui y Tam bảo, giữ năm giới đó là người biết tu.
Nếu một gia
đình, chồng vợ con cái đều qui y Tam bảo, giữ năm giới hết thì gia đình đó
hiền lành lương thiện. Nếu một xóm, một làng ai cũng giữ năm giới hết thì
xóm làng đó yên ổn vui vẻ, không sợ trộm cướp, tà dâm bởi vì người nào
cũng tốt, cũng tu hành. Tu Phật là đem lại lợi ích cho bản thân, cho gia
đình, cho xã hội.
Ngày nay Phật
tử nhiều buồn khổ vì gia đình con cái hút á phiện, xì ke, ma túy. Đó là
tại không giữ giới. Cha mẹ buồn, xóm giềng cũng lo sợ nữa. Như vậy khuyên
nhau tu để chúng ta được bình an, xã hội được tốt đẹp. Đó là điều hết sức
thiết yếu trong cuộc sống hiện tại và mai sau.
Người khéo tu
biết tránh nhân, người không biết tu chỉ tránh quả. Hiện nay ngành y luôn
luôn khuyến khích ngừa bệnh hơn trị bệnh, đó là phù hợp với đạo Phật dạy
tránh nhân hơn tránh quả. Nhân xấu chúng ta không tạo thì quả xấu đâu có,
còn nhân xấu đã tạo có sợ quả cũng không khỏi. Như kẻ xách dao đào hầm,
móc vách của người không sợ, tới chừng gặp cảnh sát thì run. Đó là sợ quả
mà không sợ nhân. Nếu biết làm việc đó có ngày ở tù thì đâu dám làm, không
làm thì sợ ai. Đó là sợ nhân chớ không sợ quả.
Hiểu rõ như
thế, trên đường tu rất có lợi vì chúng ta sáng suốt không tạo nghiệp nhân
ác, chắc chắn không bị quả xấu. Phật nói Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả.
Vì Bồ-tát biết nhân ác liền tránh nên không sợ quả xấu. Còn chúng sanh sợ
quả, hồi làm không sợ, tới chừng gặp kết quả xấu thì hoảng hốt. Cho nên
nói tới tu là nói tới người tỉnh sáng, chớ không phải người si mê.
Nhiều Phật tử
cứ ngỡ rằng người tu là tiêu cực ích kỷ, cứ lẩn quẩn trong chùa nói pháp,
không giúp ích cho ai hết. Hiểu thế là sai lầm. Chính vì muốn cho mọi
người được sáng suốt, biết lỗi lầm để tránh, biết nhân xấu để chừa nên quí
thầy luôn thuyết pháp nhắc nhở cho Phật tử. Như bình thường không ai nhắc,
chúng ta đâu biết nóng giận là tật xấu, nên cứ nóng hoài bỏ không được.
Bây giờ nhờ quí thầy nhắc mình biết đó là xấu, có hại cho bản thân và mọi
người nên cố gắng chừa bỏ. Đó là tu.
Được vậy chúng
ta sống trên đời này không uổng phí. Chớ nếu sống bảy tám mươi năm mà chỉ
lo ăn ngon, mặc đẹp v.v… tới già tắt thở, thành cái gì không biết, có phải
uổng phí không? Như vậy lo cho thật nhiều, rốt cuộc chỉ nuôi dưỡng cái
thây thối thôi, có gì cao thượng đâu. Vậy mà hầu hết mọi người đều mắc kẹt
trong đó. Cho nên chúng ta phải biết tìm sống với những gì chân thật,
không quan tâm đến các thứ hư dối. Tu sống như thế mới quí.
Chúng ta biết
tu là chúng ta biết sống. Còn người không biết tu sống cũng như kẻ say. Cứ
loanh quanh, lẩn quẩn rồi ngã đùng ra chết không biết gì, chừng ấy hối hận
cũng không kịp. Vì vậy chúng ta cần sớm tỉnh thức, trau dồi tích lũy sự
nghiệp chân thật của mình. Được vậy khi sống cũng như lúc sắp lâm chung
đều thanh thản an vui.
Thời gian ít,
bài pháp tới đây chấm dứt, mong quí Phật tử nghe hiểu ứng dụng tu. Đó là
điều mong mỏi lớn nhất của chúng tôi. |