TU BA NGHIỆP
Giảng tại Tu
viện Kim Cang - Mỹ - 2000
Chúng ta tu
Phật ai cũng nhắm đến chỗ giải thoát sanh tử. Muốn cầu giải thoát sanh tử
thì phải biết nguyên nhân dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Vì vậy
hôm nay chúng tôi nói về đề tài Tu ba nghiệp, bởi ba nghiệp chính là
nguyên nhân dẫn chúng ta trôi lăn trong sanh tử.
Trước khi đi
sâu vào vấn đề, tôi dẫn một ít câu thơ của thi hào Nguyễn Du trong truyện
Kiều:
Đã
mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách cứ trời gần trời xa.
Thi hào họ
Nguyễn có cái nhìn rất thấm nhuần đạo Phật, ông đã hiểu đã nắm vững tại
sao con người phải chịu khổ vui. Điều đó xưa kia Tổ tiên ta cứ ngỡ do
Thượng đế cả, Ngài ban vui hoặc phạt khổ. Nhưng với cái nhìn của đạo Phật
thì không phải vậy, mà đó là do nghiệp. Chúng ta đã tạo nghiệp nào thì nó
sẽ lôi dẫn mình đi tới chỗ an vui hoặc đau khổ. Từ ngàn xưa, những nhân
vật đại diện cho các tư tưởng lớn Việt Nam đã có tầm hiểu biết về đạo Phật
sâu rộng như thế.
Đến như quần
chúng Việt Nam, mỗi khi thấy người thân quen gặp khổ nạn, thường hay thốt
câu “Tội nghiệp anh (chị) quá!” Hai chữ Tội nghiệp đơn giản mà chứa đầy đủ
ý nghĩa. Tội là sự xấu ác, Nghiệp là sức mạnh lôi dẫn người tạo tội đi tới
chỗ thọ khổ. Như vậy, khổ không phải bỗng dưng có mà do nghiệp mình tạo,
nên ngày nay mới thọ quả.
Nhiều người
cho rằng kẻ ấy hồi xưa xấu ác nên bây giờ chịu khổ là đáng kiếp. Nghĩ như
vậy không phải là Phật tử, vì người con Phật lúc nào cũng chứa chan lòng
từ bi. Thấy người khổ, dù ở hoàn cảnh nào cũng thương hết. Dù xưa kia họ
có tạo nghiệp ác, nhưng ngày nay thấy họ khổ ta đều xót xa, không nỡ bỏ
qua. Vì vậy dùng từ “Tội nghiệp” với lòng chân thành hiền hòa, ai khổ mình
cũng thương.
Chữ “Nghiệp”
nguyên tiếng Phạn là Karma, Trung Hoa dịch là Nghiệp. Nghiệp là thói quen
do ta thực hành liên tục một công việc nào đó trong một thời gian dài.
Người Việt Nam dùng chữ “Nghiệp” rất đúng. Thí dụ hai người cùng làm nghề
thợ mộc, họ gọi nhau là bạn “đồng nghiệp”. Hoặc thầy giáo cô giáo gặp
nhau, giới thiệu với bạn bè mình: “Đây là bạn đồng nghiệp của tôi”.
Nói tới nghiệp
thì tôi đi xa hơn một chút. Có nhiều người nghĩ rằng làm ra tiền của để
lại cho con cháu nó hưởng. Nhưng trên thực tế, điều đó không phải lúc nào
cũng đúng như ý muốn. Bởi vì tiền của là vật bên ngoài, dễ bị mất mát.
Ngày nay nó đang là của mình, nhưng bất cứ lúc nào có sự chuyển biến thì
nó thành của người khác. Chỉ có tạo nghiệp lành hoặc nghiệp dữ, cái đó mới
trung thành với chúng ta.
Thí dụ như có
ba người, một thợ mộc, một thợ hồ và một bác sĩ cùng qua sông trên một
chuyến đò. Cả ba đều có mang theo những vật dụng của mình. Khi ra tới giữa
sông đò bị chìm, đồ đạc mang theo mất hết, chỉ ba người còn sống sót. Họ
bắt đầu gầy dựng lại của cải bằng nghề nghiệp của mình. Như vậy, của cải
bên ngoài có thể bị mất mát, nhưng nghề nghiệp không bao giờ mất.
Chúng ta muốn
để lại cho mai sau không mất thì phải tạo nghiệp lành. Nghiệp lành không
ai lấy được, còn của cải có khi bị ăn cắp, hoặc mất do nạn lửa nước v.v…
Cho nên nghiệp hết sức quan trọng, quyết định dòng luân hồi sanh tử của
chúng ta, nó là sợi dây cột trói con người rất chặt, khó có thể thoát ra
được.
Nghiệp từ đâu
mà có? Trong nhà Phật nói nghiệp đến từ ba chỗ: thân, miệng và ý. Thân làm
điều tốt điều lành gọi là tạo nghiệp lành, làm điều xấu dữ gọi là tạo
nghiệp ác. Miệng nói lời tốt lành là tạo nghiệp lành, nói lời ác dữ là tạo
nghiệp ác. Ý nghĩ điều hay lẽ phải là tạo nghiệp lành, nghĩ điều xấu dở là
tạo nghiệp ác.
Chúng ta tạo
nghiệp, để rồi bị nghiệp dẫn trở lại, xoay vần như thế mãi. Đúng như lời
cụ Nguyễn Du nói “đã mang lấy nghiệp vào thân, thì đừng trách lẫn trời gần
trời xa”. Trời không chen vào cái khổ vui của mình, mà chính nghiệp lành
nghiệp dữ của mình đưa đẩy ta tới chỗ khổ vui. Ví dụ cụ thể như những
người tập uống rượu, mỗi ngày uống một ly, hai ly, uống lâu thành ghiền.
Ghiền gọi là nghiệp. Hoặc người tập đi chùa, tụng kinh mỗi ngày quen rồi,
bữa nào không đi thấy buồn, vì nó đã thành nghiệp. Nghiệp uống rượu,
nghiệp đi chùa. Nhưng uống rượu là nghiệp xấu, còn đi chùa nghe kinh học
đạo là nghiệp lành. Cả hai đều là nghiệp, nhưng một bên đưa tới chỗ thanh
thản sáng suốt, một bên đưa tới chỗ si tối hiểm nguy.
Rõ ràng chúng
ta tạo nghiệp, rồi nghiệp dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Cho nên
Phật dạy phải tránh những nghiệp dữ ác. Phật tử sau khi qui y rồi, Phật
cấm không được làm năm điều: không sát sanh, không trộm cướp, không tà
dâm, đó là tránh nghiệp ác của thân, chặn đứng cho ta khỏi rơi vào chỗ
hiểm nguy đau khổ. Như vậy thì ba cái này mình không làm là mình giữ được
thân không tạo tội ác. Phật cấm uống rượu và nói dối, đó là tránh nghiệp
ác của miệng. Nói đủ miệng có tới bốn điều: nói dối, nói hai lưỡi, nói
hung dữ, nói thêu dệt. Khi tu khá Phật tử giữ luôn cả bốn điều trên. Đến ý
có ba: tham lam, nóng giận, si mê. Phật dạy người biết tu phải bớt tham
lam, bớt nóng giận và bớt si mê. Đó là tu để ba nghiệp của mình càng ngày
càng tốt.
Như vậy giai
đoạn thứ nhất Phật dạy chúng ta đừng làm những điều đó, tức không tạo
nghiệp ác thì khỏi rơi vào đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Không
rơi vào ba đường này, khi nhắm mắt ít nhất chúng ta cũng trở lại làm
người. Đời này làm người, đời sau cũng trở lại làm người, không thua thiệt
gì hết. Chúng ta giữ trọn vẹn những điều này là giữ được vị trí con người.
Tiến lên nữa
chúng ta muốn được phước cao hơn con người thì phải thêm: không nói dối,
không nói lời hung dữ, không nói lời đâm thọc, không nói thêu dệt. Ba
nghiệp của ý bớt tham, bớt sân, bớt si. Tu như thế chúng ta sẽ vượt lên
hơn người, sanh lên các cõi trời. Như vậy càng không làm những điều tội
lỗi, càng hưởng được quả lành. Nếu tạo những tội ác nhiều thì phải chịu
khổ đau nhiều. Khổ đau và an lạc do chính chúng ta là chủ nhân tạo ra và
hưởng lấy, chứ không có thánh thần nào can dự vào hết.
Nhưng Phật tử
khi gặp khổ thì kêu trời, kêu Phật, chứ không kêu mình. Chúng ta tạo nhân
thì chịu quả, tại sao lại kêu trời, kêu Phật? Như thanh niên còn trẻ mà
tập hút á phiện, xì ke, ma túy đến nghiện ngập, khi hết tiền thì ụa mửa
vật vã. Cái khổ bị ụa mửa, bị hành hạ đó do ai bày ra? Vậy mà tới chừng
khổ lại trách trời trách đất trách xã hội. Trách như thế có đúng không? Đó
là vì khi quá khổ rồi nói bướng, chứ không có lẽ thật.
Chúng ta biết
tu thì tự chọn lấy con đường để tiến lên, chứ không ai chọn thay cho mình
hết. Một chữ Nghiệp cũng đủ để nói lên rõ ràng sự khổ vui do chúng ta tạo
thì chúng ta hưởng, chứ không ai khác. Hiểu như vậy ta mới quay lại tu sửa
chính mình. Khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng, ta tự biết “bởi tôi ngu si
nên tôi phải khổ!” Cho nên hiểu rõ ý nghĩa của Nghiệp rồi, chúng ta trở
thành người cứng cỏi, mạnh mẽ, dám chịu trách nhiệm về cuộc đời, về những
gì mình đã gây tạo. Cho nên tu Phật là tạo cho mình một cơ hội để được tu
sửa, dở sửa thành hay. Đã hay thì tiến thêm nữa. Đó là ý nghĩa tu.
Riêng nghiệp ý
tôi nói “bớt” chứ không nói “hết”, bớt tham, bớt sân, bớt si. Tất cả quí
vị có thấy “bớt” là khó không? Ai cũng biết tham lam, nóng giận, si mê là
xấu, nhưng không chịu bỏ tức là chấp nhận xấu. Vậy mà có người nói xấu thì
giận. Cuộc sống thế gian quả thật mâu thuẫn vô cùng, giữ cái xấu mà ai nói
xấu thì không chịu! Cho nên chúng ta phải nhìn thấu đáo được lẽ thật.
Tham, sân, si
là cội gốc gây ra đau khổ. Ta biết nó xấu hại, mà không chịu bỏ thì chắc
chắn cuộc sống không an ổn. Ví dụ trong nhà, vợ chồng cãi nhau một chút
liền nổi nóng lên. Từ việc rất nhỏ, nhưng khi nổi nóng đùng đùng thì nó
thành lớn, nhiều khi đi tới tai họa phải ly dị nhau. Như vậy, nóng giận là
nhân đau khổ, ta đã biết rõ sao không chịu bỏ bớt? Bớt được một phần là
giảm thiểu một phần khổ đau. Cho nên người tu theo đạo Phật là người tìm
về nguồn hạnh phúc, nguồn an lạc. Muốn thế, những gì thuộc nhân khổ đau,
ta phải trừ bỏ. Trừ bỏ những nhân đó gọi là tu.
Nhiều Phật tử
cứ cho rằng tu là ăn chay. Nghe ai ăn chay một tháng hai ngày liền khen
“bạn biết tu rồi đó”. Cứ nói ăn chay là tu, mà gốc nóng giận, tham lam, si
mê lại không chịu sửa. Đó là tu cái ngọn chứ không phải tu cái gốc, nên tu
mà không hết khổ. Nhiều người ở chùa ăn chay mười năm hai chục năm, mà ai
nói trái ý cũng la hét um sùm, vậy có tu chưa? Ăn chay trường mà còn nóng
giận là chưa phải tu. Chúng ta tu đúng nghĩa tu, chứ không phải tu trên
hình thức. Tu hình thức sẽ tạo cho mình nhiều tật xấu lắm. Thí dụ mình ăn
chay trường, tới nhà người ăn mặn, ta cầm chén đũa lên ngửi và chê “Tanh
quá!” Thế là mất lòng chủ nhà rồi! Ta cho mình tu hay, khi dễ người khác,
như vậy đâu phải tu hay.
Trong ba
nghiệp, chủ động là ý. Ý nghĩ tốt thì miệng nói tốt, thân làm tốt. Ý nghĩ
xấu thì miệng nói xấu, thân làm xấu. Tội lỗi hay phước đức đều gốc từ ý mà
ra. Cho nên tu bớt tham, bớt sân, bớt si là nhắm ngay gốc của ba nghiệp.
Chúng ta biết tu phải cố gắng làm chủ phần nào ba độc tham, sân, si. Làm
chủ được chúng thì đời sống bình an, không làm chủ được chúng thì đau khổ
liên miên không dứt.
Nếu để tham
lam chồng chất trong lòng thì được một đòi mười, được mười đòi trăm, được
trăm đòi ngàn, được ngàn đòi triệu v.v… cứ thêm hoài, không biết chừng nào
mới đủ. Muốn mà bị ngăn trở thì sân, nên nói từ tham sanh sân. Nếu bớt
được tham thì không ham muốn nhiều, nên cũng không bị ngăn trở, không sanh
sân hận. Chỉ cái tham mà tạo ra bao nhiêu duyên cớ để chúng ta khổ liên
tục. Nên bớt tham thì bớt sân. Đó là sự liên hệ giữa tham và sân. Hai thứ
này tuy thấy mạnh nhưng gốc của nó là si, nên tôi gọi khác một chút: si,
tham, sân.
Ví dụ người
nam thấy người nữ có sắc đẹp nên mê đắm. Nếu ai ngăn cản không cho tới lui
cưới hỏi thì họ hận thù. Như vậy, vì mê sắc đẹp, muốn chiếm hữu, nếu bị
ngăn cản thì oán thù muốn giết hại nhau. Đó là gốc từ si, mới tới tham
sân. Người tu Phật phải làm sao đầy đủ trí tuệ để phá dẹp si mê trước. Phá
được si rồi thì tham, sân theo đó hết.
Trong nhà Phật
có nhiều cách trừ si mê. Thường nhất chúng ta tụng Bát-nhã Tâm Kinh, mở
đầu là câu Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Nghĩa là Bồ-tát Quán Tự
Tại khi thực hành sâu trí tuệ Bát-nhã rồi, Ngài quán thân năm uẩn tự tánh
là không, liền qua hết tất cả khổ nạn. Chúng ta tụng kinh Bát-nhã bao
nhiêu biến rồi? Khổ nạn có qua hết chưa? Tụng thì rất nhiều mà khổ nạn còn
nguyên, chẳng lẽ lời Phật dạy không đúng?
Bởi vì trong
Bát-nhã có chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật
tướng Bát-nhã. Văn tự Bát-nhã tức là chữ lời trong kinh, được dụ như một
con thuyền. Quán chiếu Bát-nhã tức là xét kỹ. Kinh Bát-nhã dạy phải chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, tức là soi xét thấu đáo năm uẩn không có tánh
thật, mới qua hết khổ nạn. Quán chiếu Bát-nhã được dụ như dầm chèo để bơi.
Chúng ta chỉ tụng kinh mà muốn qua hết khổ nạn, chẳng khác nào người muốn
qua sông, xuống thuyền ngồi đó không chịu chèo bơi thì chừng nào mới qua
sông được. Cũng vậy trước chúng ta đọc văn tự, kế phải quán chiếu mới có
thể đến chỗ thật tướng, là chỗ rốt ráo viên mãn. Tóm lại Văn tự dụ như con
thuyền, Quán chiếu dụ như chèo dầm để bơi, Thật tướng tức đến bờ bên kia.
Thế mới gọi là tu Bát-nhã.
Chúng ta tu
chỉ có chặng đầu, hai chặng sau bỏ quên. Như vậy chừng nào mới hết khổ?
Nên cần phải xem xét lại việc tu của mình cho thấu đáo. Bát-nhã là chữ
Phạn, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Dùng trí tuệ soi thấy thân năm uẩn không
thật thì mọi khổ nạn đều qua hết. Như khi ta quán sát lại mình, thấy thân
tạm bợ giả dối, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì mất. Biết thế rồi có ai
khen hoặc chê mình không mừng cũng không giận. Đó là qua hết các khổ.
Ngược lại nếu thấy thân thật, người ta khen mình mừng, chê mình giận tức
là khổ.
Như vậy muốn
phá si mê phải dùng trí tuệ, chứ không phải đọc tụng. Nhưng phần đông Phật
tử thích đọc tụng, không chịu dùng trí tuệ quán chiếu. Vì tính cách quan
trọng ấy của Bát-nhã nên trong tất cả các chùa, chư Tăng Ni tụng kinh nào,
cuối cùng cũng kết thúc bằng bài kinh Bát-nhã. Nhiều người thấy vậy hiểu
lầm, cho rằng Bát-nhã là bổ khuyết tâm kinh. Bổ khuyết tức là bù vào chỗ
thiếu. Tại sao phải bù? Họ giải thích khi tụng kinh có lúc nhanh quá nên
nhiều khi có chỗ thiếu, có chỗ nhầm nên cuối cùng phải tụng bài kinh
Bát-nhã để bù lại. Quan niệm đó thật là ngây thơ, không hiểu gì hết.
Bát-nhã là trí
tuệ, dù tu Tịnh độ, tu Mật tông hay tu Thiền đều phải có trí tuệ. Vì vậy
tu pháp nào cuối cùng cũng phải tụng kinh Bát-nhã. Qua đó đủ thấy tất cả
pháp tu của đạo Phật đều nhắm đến mục đích cuối cùng là mở sáng con mắt
trí tuệ, để đi tới giác ngộ giải thoát. Chúng ta hiểu được ý nghĩa đó mới
khỏi lầm lẫn những gì Phật dạy.
Chúng ta bớt
si thì bớt tham, bớt sân. Tu như thế lần lần ba nghiệp thân, miệng, ý được
trong sạch. Nghiệp là một luật rất công bằng. Phật dạy ai gây nghiệp nào
thì phải đền trả nghiệp ấy, người khác không thế được. Chúng ta muốn được
an vui thì tạo nghiệp lành, muốn đau khổ thì tạo nghiệp dữ, không ai tạo
dùm hưởng dùm được cả.
Trong kinh
A-hàm nói: Người tu Phật và không tu Phật, nếu làm mười phần lành thì cùng
hưởng mười phần tốt, làm mười phần ác thì cùng chịu mười phần xấu. Không
phải người không tu Phật làm ác mới chịu khổ, còn người tu Phật làm ác
được Phật tha. Mình và người làm điều lành, làm điều dữ đều chịu quả báo
công bằng như nhau, không có ân huệ riêng cho người nào. Bởi vì lý nghiệp
báo rất bình đẳng cho tất cả mọi loài. Cũng như ngày nay trong các nước
văn minh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Đạo Phật không
cho người Phật tử ỷ lại ta là Phật tử, lỡ làm tội sám hối sẽ hết. “Sám
hối” nghĩa là chừa bỏ lỗi cũ và không tạo lỗi mới. Người biết sám hối là
biết chừa lỗi cũ, không tạo lỗi mới, nhờ thế bớt tội. Người không biết sám
hối xưa làm tội nay tiếp tục làm tội, thì tội càng thêm nặng, dù lạy vạn
Phật cũng không phải sám hối, không thể nào bớt tội được.
Phật tử không
hiểu ý nghĩa hai chữ sám hối nên vừa lạy sám hối xong, về nhà nghĩ: “Bữa
nay sám hối rồi, tội lỗi cũ ngang đây xem như xí xóa. Ta bắt đầu làm tội
mới, mai mốt sám hối nữa sẽ hết”. Nửa tháng sám hối một lần như vậy thì
tha hồ tạo tội, Phật bôi sổ đều đều, đâu phải lo. Sám hối như vậy có hết
tội không? Chẳng những không hết mà tội ngày càng chất chồng thêm. Phải
hiểu sám hối là chuyển nghiệp của mình. Người biết tu nhận định rõ ràng
nghiệp lành đưa tới chỗ an vui, nghiệp dữ đưa tới đau khổ. Nên từ bỏ những
nghiệp dữ, tu tạo các nghiệp lành thì được sanh cõi trời, người an vui
hạnh phúc. Nếu chọn con đường sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối… thì
kết quả sẽ đi xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta là chủ nhân để
chọn con đường của mình, lên hay xuống tùy ta định liệu. Đức Phật được gọi
là đấng Đạo sư tức người chỉ đường, chứ không phải người đón đưa mình đi
lên hay đày đọa mình đi xuống.
Nếu chúng ta
can đảm muốn vượt lên tới chỗ cuối cùng thì đối với cả hai loại nghiệp đi
lên và đi xuống này đều bỏ luôn, dừng hết. Lúc đó ta đi đâu? Dừng nghiệp
đi xuống và bỏ cả nghiệp đi lên, chỗ này nhiều người sợ lắm, không biết đi
đâu? Bởi chúng ta quen mong đời này tu đời sau hưởng phước, vì vậy thấy
tạo nghiệp đi lên dễ chấp nhận. Bây giờ Phật dạy chỗ rốt ráo không tạo
nghiệp đi xuống, cũng không tạo nghiệp đi lên, không biết phải đi đâu? Đó
là giải thoát sanh tử, còn đi đâu nữa.
Như tôi đã nói
trong ba nghiệp, ý nghiệp là chủ. Ý nghĩ ác, nghĩ lành, nghĩ đủ thứ. Bởi
nghĩ ác nên đi xuống đường dữ, nghĩ thiện nên đi lên đường lành. Bây giờ
cả hai đường dữ và lành đều dừng hết tức là dứt mầm sanh tử, giải thoát
sanh tử. Đây chính là mục đích cuối cùng chúng ta mong muốn, sao bây giờ
lại nghi ngại? Trong kinh Tịnh độ nói Tam nghiệp thường thanh tịnh, đồng
Phật vãng Tây phương: ba nghiệp thường trong sạch thì đồng với chư Phật về
cõi Phật. Nghiệp sạch mới về cõi Phật được chứ.
Với người tu
thiền, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi, Phật dạy phải buông hết những vọng
niệm lăng xăng xấu ác cũng như hiền thiện. Hai hướng đó dừng hết là dứt
sạch nghiệp. Dứt nghiệp là giải thoát sanh tử. Nói tóm lại, ai muốn được
hưởng đời sau sung sướng thì tu nghiệp lành, ai muốn hưởng sung sướng mà
tạo nghiệp ác thì phải chịu quả khổ, còn người muốn giải thoát sanh tử, ra
khỏi luân hồi lục đạo thì phải dứt sạch nghiệp. Mà chủ động của nghiệp là
ý, nên phải dừng từ ý. Chẳng những không tham, không sân, không si, mà tất
cả ý niệm đều phải sạch. Dừng được như vậy mới giải thoát sanh tử.
Lục Tổ Huệ
Năng khi được Ngũ Tổ truyền y bát rồi, Ngài đi về phương Nam. Mọi người
hay được tức giận đuổi theo để giành y lại, vì cho rằng Lục Tổ chỉ là một
gã cư sĩ quê dốt không đủ tư cách đảm nhận y bát và làm Tổ kế tiếp. Trong
số ấy có thượng tọa Minh, xưa là võ tướng phi ngựa rất nhanh nên đuổi kịp.
Lục Tổ thấy có người đuổi theo, biết được ý họ nên Ngài để y bát trên bàn
thạch, nghĩ rằng: “Y bát là vật biểu tín, không phải trọng tâm của sự giác
ngộ, họ cố giành thôi ta để lại”. Ngài liền trốn vô lùm cây. Huệ Minh tới
nơi thấy y bát trên bàn thạch mừng quá, xuống ngựa ôm lên nhưng ôm không
nổi. Chừng đó mới giựt mình biết đây là vật nhiệm mầu, người thường không
thể chạm đến. Ngay đó ông thức tỉnh, đổi tâm giành y bát thành tâm cầu
pháp, bèn kêu: “Hành giả! Hành giả! Tôi tới đây vì pháp chứ không phải vì
y bát”. Nghe thế Lục Tổ mới từ trong bụi chui ra nói: “Nếu ông vì pháp thì
hãy đứng yên lặng giây lâu, tôi sẽ nói pháp cho nghe”. Thượng tọa Minh
đứng yên lặng giây lâu, Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì
là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?” Ngay câu nói đó Thượng tọa Minh
liền ngộ đạo.
Nghĩ thiện,
nghĩ ác là hai đường lên và xuống, bây giờ dứt hai đường đó, tâm lặng lẽ
chính là mặt thật xưa nay của mình hiện tiền. Như khi ta ngồi ngoài vườn
một mình có bóng mát và khí trời thanh thản, lòng không nghĩ suy gì hết.
Ngay lúc đó có mình không? Mình ra sao? Chúng ta cứ ngỡ suy nghĩ hơn thua,
phải quấy, tốt xấu là tâm mình, nếu không có nghĩ suy thì không có mình.
Thật ra không phải vậy. Tâm nghĩ suy hơn thua phải quấy là tâm sinh diệt,
tâm tạp nhạp, không phải mình. Hằng ngày ta nói “tôi nhớ” hoặc “tôi
thương”. Có ai làm trái ý thì nói “tôi giận”… Như vậy, buồn thương giận
ghét cái nào là mình? Nếu cái nào cũng là mình hết thì ta có mấy chục
mình? Từ khi cha mẹ sanh ra cho tới ngày ta nhắm mắt mình là một hay
nhiều? Ai cũng biết chỉ có một “mình” thôi, vậy tại sao lại cho cả trăm
thứ buồn thương giận ghét đều là mình? Chính vì lầm nhận như thế nên ta
không thấy được mặt mày thật của mình.
Khi ta không
nghĩ suy gì hết, gió thổi mát mình biết mát, tiếng chim kêu mình nghe,
bóng người đi mình thấy… Như vậy ta luôn “biết” một cách rõ ràng, không
nhầm lẫn chút nào. Phật bảo tâm là cái “biết” ấy. Tuy nhiên, phải hiểu cái
biết được chia làm hai loại chơn tâm và vọng tâm. Tâm biết sinh diệt liên
tục từ cái này tới cái kia là tâm hư vọng. Còn tâm biết không sanh không
diệt, rỗng rang, không hình không tướng là chơn tâm. Như vậy khi ta không
nghĩ suy mà vẫn biết, đó là tâm thật hiện tiền, gọi là “bản lai diện mục.”
Chỉ khi nào yên hết các thứ lăng xăng lộn xộn ta mới nhận ra tâm thật này.
Người tu thiền
hay tu niệm Phật… đều đi tới chỗ phải lặng hết những nghĩ suy, để tâm yên
tịnh, trong sáng không dấy động, đó là trở về tâm thật hiện tiền của mình.
Mình có tâm đó mà không nhớ, không biết nên bây giờ phải cố gắng dẹp các
loạn tưởng để tâm ấy hiện ra. Do đó, niệm Phật muốn được thành công thì
phải nhất tâm. Người tu thiền phải định mới dừng hết tán loạn. Chừng đó
tâm thật của chính mình tự nhiên hiện bày. Lâu nay ta có sẵn tâm ấy, nhưng
nó bị lẩn khuất trong đám nghĩ suy lăng xăng lộn xộn nên ta không nhận ra.
Hiện giờ chúng
ta vì dùng tâm điên đảo nên tạo nghiệp này nghiệp nọ, sanh cõi này cõi kia
liên miên không dừng. Phật dạy muốn giải thoát sanh tử phải dừng tâm đó,
lặng nó đi thì mới giải thoát sanh tử được. Ý nghĩa này hết sức rõ ràng,
nhưng người tu Phật ít khi chú ý, ít khi nghĩ tới.
Thiền sư Nam
Tuyền - Phổ Nguyện có một đệ tử đến xin học đạo là Ngài Triệu Châu Tùng
Thẩm. Lúc đó ngài Triệu Châu còn nhỏ, là Sa-di. Thiền sư Nam Tuyền hỏi:
- Ông là Sa-di
có chủ hay Sa-di không chủ?
Ngài Triệu
Châu thưa:
- Bạch Hòa
thượng, con là Sa-di có chủ.
Ngài Nam Tuyền
hỏi:
- Chủ ở đâu?
Triệu Châu
liền chắp tay thưa:
- Mùa đông giá
rét, kính chúc Hòa thượng được trăm tuổi.
Ngài Nam Tuyền
gật đầu. Hôm khác, ngài Triệu Châu hỏi thầy:
- Thế nào là
đạo?
Ngài Nam Tuyền
trả lời:
- Tâm bình
thường là đạo.
Ngay đó Ngài
Triệu Châu liền ngộ. Câu trả lời nghe đơn giản quá chừng! Người xưa không
giấu diếm chúng ta điều gì, chỉ tại mình không hiểu thôi. Nghe nói “tâm
bình thường” thấy dễ quá, mình cũng bình thường sao không thấy đạo? Chúng
ta có tâm bình thường chưa? Tâm chưa bình thường tức là bất thường. Tâm
bất thường là tâm điên đảo, đã điên đảo thì làm sao thấy đạo được? Bởi vậy
Phật nói chúng sanh điên đảo, sống mà không thấy được lẽ thực, nên chịu
đau khổ. Nhưng chúng sanh có ai nhận mình điên đảo đâu?
Những nghĩ suy
phải quấy, tốt xấu, hơn thua… luôn luôn chạy vùn vụt trong đầu ta không
dừng nên lẽ thật bị che khuất. Bây giờ muốn thấy lẽ thật, thì phải dừng nó
lại. Dừng nó lại lẽ thật tự hiện, không cần tìm kiếm ở đâu hết. Chữ “Đạo”
là chân lý, cũng gọi là Phật tánh. Tánh Phật của chúng ta sẵn đó mà mình
không biết, cứ chạy tìm nơi này nơi kia. Thật sự, chỉ cần dừng tâm niệm
thiện ác hai bên thì tánh Phật hiện ra. Như vậy, có người nào không đủ khả
năng thành Phật không? Chúng ta là Phật con, chỉ vì chưa phát hiện được
thôi, chứ đã có chủng tử sẵn rồi, nên Phật dùng từ “Phật tử” tức Phật con.
Hiểu chỗ này
rồi chúng ta mới thấy tu là chuyển dần từ con người phàm tục si mê, thành
con người giác ngộ sáng suốt. Chứ không phải tu đứng khựng một chỗ, chờ
hết năm hết tháng chết rồi, đời sau sanh ra sướng hơn đời này một chút,
thế là hài lòng. Có những người giàu sang bằng năm mười lần mình nhưng họ
vẫn kêu khổ như thường. Bởi khổ đã nằm sẵn nơi thân tạm bợ này rồi, sanh
lão bệnh tử khổ. Cuối cùng tất cả đều là một thây thối. Gầy cũng thối, mập
cũng thối, đen cũng thối, trắng cũng thối, giàu cũng thối, nghèo cũng
thối, chứ có người nào khác hơn đâu. Con đường đi tới của mọi người đều
giống hệt nhau, không có sự khác biệt. Chỉ ai biết tu, biết chuyển nghiệp,
dứt nghiệp thì mới đổi khác.
Nghiệp do tâm
nghĩ lành hoặc nghĩ dữ tạo ra, lâu nay chúng ta lầm tưởng nó thật. Sự thật
không phải vậy. Tổ Đạo Tín, đệ tử tổ Tăng Xán Ngài còn là Sa-di, đến đảnh
lễ thưa với tổ Tăng Xán:
- Bạch Hòa
thượng, xin Ngài dạy cho con pháp môn giải thoát.
Tổ Tăng Xán
nhìn thẳng vào mặt ngài Đạo Tín hỏi:
- Ai trói buộc
ngươi?
- Thưa không
ai trói buộc con.
- Đã không ai
trói buộc, cầu giải thoát làm gì?
Ngay đó ngài
Đạo Tín ngộ đạo.
Chúng ta thấy
nghiệp là từ ý niệm, mà ý niệm không thật nên nghiệp cũng không thật. Ngài
Đạo Tín tưởng có một cái gì thật trói buộc khiến mình không giải thoát.
Khi Tổ hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín nhìn lại, thấy không ai
trói buộc nên thưa với Tổ: “Không ai trói buộc con”. Tổ bảo: “Đã không ai
trói buộc, cầu giải thoát làm gì?” Ngay đó Ngài được tự tại.
Nhìn lại chúng
ta có nhiều lầm lỗi đáng thương. Thí dụ thấy người đó dễ thương ta liền
khởi niệm thương. Niệm thương ấy lôi kéo, khiến mình đuổi theo người kia.
Nếu họ không thương lại thì mình khổ, rồi đổ thừa tại nghiệp tôi nó vậy.
Đáng cười nhất là trong chùa, mấy thầy trẻ trẻ gặp bổn đạo dễ thương, thế
là rủ nhau ra đời. Nếu ai hỏi tại sao đang tu mà ra đời, thì trả lời tại
nghiệp lôi. Nghiệp không thật, làm sao lôi mình được, nhưng vì mình theo
nó nên nó thành thật. Vì vậy ngài Khuê Phong nói: “Nghiệp” thể không mà
thành sự. Thể tức bản chất của nghiệp là không, nhưng khi ý khởi tốt xấu,
rồi nói làm theo đó nên thành nghiệp. Biết bản chất của nghiệp không thật,
chúng ta không theo nó, không gây tạo thì dứt nghiệp. Còn nếu theo nó, gây
tạo thì nó kéo chúng ta đi hoài.
Mọi người ở
thế gian đều đi theo nghiệp. Nghiệp giống như sợi dây xỏ mũi, nó lôi đâu
mình đi đó, không cưỡng lại được nên trầm luân muôn kiếp. Ngày nay, chúng
ta tu theo Phật thì phải dứt sạch nghiệp, chuyển mê lầm thành giác ngộ.
Khi không nghĩ thiện không nghĩ ác chúng ta vẫn hiện tiền chứ không mất.
Chúng ta là chủ đi trong luân hồi sanh tử chúng ta cũng là chủ để giải
thoát luân hồi sanh tử. Biết rõ như vậy là chúng ta biết tu.
Chúc tất cả
dứt sạch ba nghiệp để được an vui tự tại ngay giữa cõi đời đau khổ này. Đó
là mục đích cuối cùng của người tu Phật chúng ta vậy. |