| 
      
      
      TU THIỀN 
      Giảng tại Hội 
      Liên Hiệp Khoa Học Kỹ Thuật - Hà Nội - 1996 
      Hôm nay chúng 
      tôi nói về đề tài Tu Thiền. Bởi vì hiện thời nhiều người đang khao khát tu 
      thiền mà chưa biết thiền nào là thiền chánh, thiền nào là thiền tà, hay 
      thiền nào của đạo Phật, thiền nào không phải của đạo Phật v.v… Do đó chúng 
      tôi sẽ nói rõ về vấn đề này. 
      Tất cả chúng 
      ta ai có đọc sách Phật, nghiên cứu lịch sử đều thừa nhận rằng đức Phật 
      Thích-ca Mâu-ni tọa thiền dưới cội Bồ-đề ngót bốn mươi chín ngày đêm, cuối 
      cùng được giác ngộ thành Phật. Kế đó những đồ đệ lớn của Ngài như Xá Lợi 
      Phất, Mục Kiền Liên v.v… cũng do tu thiền mà chứng quả A-la-hán. Sau này 
      chư Tổ từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản cũng do tu thiền 
      mà được giác ngộ thành Tổ. Như vậy hệ thống truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ 
      sang các nước, từ thời Phật tại thế mãi đến ngày nay, gốc do tu thiền mà 
      ra. Do đó, nói đến tu thiền là nói đến đường lối căn bản của đạo Phật.
       
      Nhưng gần đây, 
      có một số người bảo: “Coi chừng tu thiền điên”. Chúng tôi cũng đã nhiều 
      lần cải chánh về điều này. Thật ra không phải tu thiền điên mà vì không 
      biết tu thiền nên mới điên. Nếu tu thiền điên thì đức Thích-ca đâu thành 
      Phật, các đệ tử Ngài đâu chứng quả A-la-hán, đâu có chư Tổ tu thiền. Song 
      trên lịch sử cũng như trên thực tế có rất nhiều người tu thiền đạt kết quả 
      tốt. Vì vậy nói tu thiền điên là một lối nói không có chứng cứ. Chỉ người 
      không biết tu thiền nhưng ham tu quá nên học lõm ở đâu, hoặc theo các 
      phương pháp không phải của đạo Phật, ứng dụng tu sai thành ra điên, rồi đổ 
      thừa tu thiền điên. Đó là một sai lầm lớn.  
      Vì vậy hôm nay 
      tôi sẽ giải thích rõ tu thiền như thế nào là tu theo đạo Phật, tu thiền 
      như thế nào không phải là tu theo đạo Phật, để tất cả nắm vững đường lối 
      tu, thấy rõ ràng tường tận pháp Phật dạy, ứng dụng tu thiền cho đúng đắn 
      để sau này không phạm sai lầm, đưa tới kết quả không tốt. 
      Trước hết 
      chúng ta nên biết Thiền là gì? Thiền là âm tiếng Phạn nói cho đủ là Thiền 
      na, Trung Hoa dịch là Tĩnh lự hay Tư duy tu, Đức tùng lâm hay trạng trái 
      định tuệ quân bình. Tĩnh lự, tĩnh là lặng, lự là suy tư. Những suy tư nghĩ 
      ngợi được lắng xuống, gọi đó là tĩnh lự hay tu chỉ. Tư duy tu, tư duy tức 
      là soi xét hay quán chiếu, tu là cách hành trì. Lối tu bằng cách soi xét 
      quán chiếu gọi là quán.  
      Trong nhà 
      thiền có chia ra hai lối tu chỉ và quán. Chỉ là định, quán là tuệ. Chỉ, 
      quán tức là định tuệ riêng từng phần. Thiền là gom cả định tuệ đồng tu nên 
      gọi là Thiền na, tức quân bình định và tuệ. Gọi công đức tùng lâm, vì tu 
      thiền là pháp tu chủ yếu của đạo Phật, nên ai ứng dụng tu như thế gọi là 
      công đức tùng lâm. 
      Sau này chư Tổ 
      không định nghĩa thiền như thế mà các Ngài nói đây là pháp tu Phản quan tự 
      kỷ. Phản quan là soi trở lại, tự kỷ là chính mình. Phản quan tự kỷ là soi 
      sáng lại chính mình.  
      Trong nhà Phật 
      có chia ra năm loại thiền: 
      1. Thiền phàm 
      phu. 
      2. Thiền ngoại 
      đạo. 
      3. Thiền Tiểu 
      thừa. 
      4. Thiền Đại 
      thừa. 
      5. Thiền Tối 
      thượng thừa. 
      Như vậy thiền 
      là một từ ngữ chung, nhưng ứng dụng tu thì có riêng từng loại khác nhau. 
      
      
      1. Thế nào là phàm phu thiền?  
      Tức pháp tu 
      thiền làm cho tâm lóng lặng, với ước nguyện sẽ được sanh về các cõi trời. 
      Trong nhà Phật chia ra cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Cõi Dục tức là chúng 
      sanh do ái dục mà sanh ra. Cõi Sắc là chúng sanh có hình tướng đẹp đẽ, 
      sống lâu, sung sướng hơn cõi Dục. Cõi Vô sắc chúng sanh sống chỉ có tâm 
      thức, không có hình tướng. 
      Nếu tu thiền 
      chỉ mơ ước được sanh vào cõi trời Sắc giới, thụ hưởng sự sung sướng lâu 
      dài tốt đẹp, đó là thiền phàm phu. Ví dụ có người thắp một cây hương, để 
      trước mặt rồi cứ ngồi nhìn mãi cây hương, trụ tâm một chỗ không cho tán 
      loạn, không nghĩ gì khác. Định tâm như thế mong được kết quả sanh cõi 
      lành. Đó là định của phàm phu, chớ chưa phải định của Thánh nhân. Hoặc có 
      người quán một pháp nào vừa được kết quả, liền tự mãn thích thú. Đó cũng 
      là thiền phàm phu.  
      Trong Phật 
      giáo, Thiền phàm phu được chia làm bốn phần: sơ thiền, nhị thiền, tam 
      thiền, tứ thiền.  
      Sơ thiền nghĩa 
      là Ly sanh hỷ lạc. Thí dụ người bị nhiễm ái thế gian nặng nề nên khổ sở, 
      khi chuyên tu thiền tâm được an ổn một chút, những nhiễm ái không còn dính 
      mắc nữa, gọi là ly sanh. Ly tức là lìa được lòng yêu mến ngũ dục. Do lìa 
      được ngũ dục nên tâm sanh hoan hỷ, gọi là ly sanh hỷ lạc. Người tu thiền 
      đến trạng thái đó gọi là được định sơ thiền.  
      Nhị thiền 
      nghĩa là Định sanh hỷ lạc. Tiến lên một phần nữa, khi chúng ta tiến tu tâm 
      được an định, nhờ định ta cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái, thích thú. Đây 
      gọi là định sanh hỷ lạc. Người tu thiền đến được trạng thái này gọi là 
      được định Nhị thiền.  
      Tam thiền 
      nghĩa là Ly hỷ diệu lạc. Từ định sanh hỷ lạc đó chúng ta tiến lên một bậc 
      nữa là tâm chuyên chú duy nhất, lìa bỏ cái vui do định sanh ở trên. Chữ hỷ 
      là mừng, mừng thì tâm dao động, vì vậy phải lìa cái vui mừng thô để được 
      cái vui tế nhị nhẹ nhàng, cho nên gọi là ly hỷ diệu lạc. Người tu thiền 
      đến được trạng thái này gọi là được định Tam thiền.  
      Tứ thiền nghĩa 
      là Xả niệm thanh tịnh địa. Còn thấy có vui là còn có khổ đối lại, dù là 
      cái vui tế nhiệm. Vì vậy nên xả niệm thanh tịnh địa, nghĩa là bỏ hết các 
      niệm khổ vui, để đến được chỗ hoàn toàn thanh tịnh. Buông hết niệm, tâm 
      được trong sáng, đó là xả niệm thanh tịnh địa. Người tu thiền đến được 
      trạng thái này là được định Tứ thiền. 
      Tuy nhiên, tu 
      đạt những kết quả đó để mong được sanh vào các cõi trời như sơ thiền 
      thiên, nhị thiền thiên, tam thiền thiên, tứ thiền thiên, tức là bốn cõi 
      trời Sắc giới. Đó là thiền phàm phu. Vì tu còn mong thụ hưởng, mong được 
      kết quả sung sướng. Tức còn giữ thân, để được an hưởng sung sướng nên gọi 
      là phàm phu thiền. 
      
      
      2. Thế nào là thiền ngoại đạo?  
      Trước khi giải 
      thích thiền ngoại đạo, tôi định nghĩa rõ hai chữ ngoại đạo cho quí vị khỏi 
      lầm. Đạo Phật nói ngoại đạo không có nghĩa công kích nhóm này, phái kia 
      v.v… mà ngoại đạo là ngoài tâm cầu Phật. Như tôi thường nói chúng ta tu 
      Phật là cốt giác ngộ, giải thoát sanh tử. Vì vậy đạo Phật lấy giác ngộ làm 
      trọng tâm. Giác ngộ từ đâu mà có? Từ tâm của chính mình. Vì thế thiền của 
      đạo Phật là cốt ngay nơi tâm mình an định rồi trí tuệ phát sáng, chớ không 
      phải trông cậy mong chờ bên ngoài. Do đó trong nhà thiền định nghĩa “Ngoại 
      tâm cầu Phật, danh vi ngoại đạo”, tức là ngoài tâm cầu Phật gọi là ngoại 
      đạo.  
      Như vậy dù 
      người mang hình thức tu sĩ, mà mong cầu Phật từ đâu đến ấn chứng cho cũng 
      thuộc ngoại đạo. Bởi tâm là gốc của sự giác ngộ, nếu bỏ tâm mà cầu giác 
      ngộ là bỏ gốc theo ngọn, đó là ngoại đạo. Tất cả pháp tu thiền đặt trọng 
      tâm bên ngoài, không lấy nội tâm làm chánh đều thuộc về ngoại đạo. 
       
      Như chúng tôi 
      thấy hiện giờ có những lối tu thiền không phải của đạo Phật. Như trong 
      Nam, có lối tu thiền chuyển luân xa, tức là vận chuyển luồng điện chạy từ 
      rún lên đầu, lên trán, rồi vòng ra sau lưng, hoặc ngược lại. Chạy vòng 
      vòng như vậy gọi là chuyển luân xa. Đó cũng là một pháp tu thiền nhưng 
      không hề dính dáng gì với đạo Phật 
      Đạo Phật chủ 
      trương do giới sanh định, do định sanh tuệ. Tuệ tức là giác ngộ. Giới là 
      nền tảng đạo đức, định là thiền định, từ thiền định mà phát sanh trí tuệ 
      sáng suốt giác ngộ. Đó là thiền của đạo Phật. Giới, định, tuệ gọi là tam 
      giải thoát môn hay tam vô lậu học, nghĩa là ba cánh cửa giải thoát, hay ba 
      môn học không còn rơi rớt trong sanh tử nữa. Như vậy thiền của đạo Phật là 
      định để phát tuệ, chớ không có gì khác lạ.  
      Một lối thiền 
      nữa là thiền xuất hồn. Cách tu này cũng giống chuyển luân xa nhưng cốt để 
      mở khiếu huyệt trên đầu, cho thần hồn có thể phóng ra ngoài đi cầu đạo nơi 
      này nơi kia. Thiền xuất hồn không phải thiền của đạo Phật, mà chúng tôi 
      cho rằng đây là một trò chơi nguy hiểm. Tại sao? Vì khi muốn mở khiếu 
      huyệt để xuất hồn, nếu không có khả năng đúng đắn, mở sai là phát điên. Và 
      khi xuất hồn thì đi đâu? Có khi đi cầu đạo cũng có khi đi du lịch. Cầu đạo 
      nơi các vị thần thánh nào đó mà chính người ấy cũng không biết rõ lai 
      lịch. Cầu đạo như thế chân chánh hay không?  
      Trong nhà Phật 
      nói người muốn đạt đạo phải ngay nơi tâm mình lóng lặng các thứ vọng tưởng 
      lăng xăng, tâm sáng suốt là thấy đạo. Nếu cầu đạo bên ngoài là không hợp 
      đạo lý. Tại sao? Giả sử người ấy gặp một vị Thánh tự xưng là Phật, thì 
      chắc đó là Phật chưa? Bởi đâu ai biết mặt mũi Phậtthật thế nào. Song thế 
      gian này người ta hay “lạm xưng” như thế. Ví dụ ở quê có ông đồng bà cốt 
      lên, đồng cốt đó có bao giờ nói tôi là yêu quái, quỉ ma không? Không. Tất 
      cả đều nói ta là Thánh là thần hết, thậm chí có khi họ xưng là Tề thiên 
      đại thánh nữa chứ. Trong khi Tề thiên đại thánh là một nhân vật tiểu 
      thuyết, chớ Tây du ký của Đường Huyền Trang Tam Tạng thì đâu có Tôn Ngộ 
      Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng. Ngài Huyền Trang chỉ một thân một mình, chịu 
      cực chịu khổ lần sang Ấn Độ học đạo và thỉnh kinh về.  
      Hiểu như vậy 
      mới thấy thiên hạ hay lợi dụng rồi lạm xưng, chớ không có chỗ y cứ nào 
      đúng đắn hợp pháp cả. Bởi thế người tu muốn xuất hồn, đi ngao du trong bầu 
      trời tìm các bậc Hiền Thánh chỉ dạy, điều đó không có gì bảo đảm hết. Kinh 
      Phật thường nói: “Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng”, nghĩa là Phật 
      cao một thước, mà ma cao tới mười thước. Vì ma ở gần ta, còn Phật thì xa 
      ta, nên tâm mình vừa mong cầu điều gì ma liền biết. Do đó nó hiện ra đánh 
      lừa người thiếu trí, nhẹ dạ. Cầu đạo như thế là một sự mông lung, tưởng 
      tượng, không có thực tế.  
      Thực tế của 
      người tu là lặng hết tâm phiền não, lặng hết những tâm vọng tưởng, trí tự 
      sáng suốt, thấy biết đúng như thật các pháp, không còn nghi ngờ gì nữa. 
      Cũng như người học trò chuyên tâm thành ý học bài thì thuộc bài. Đó là lẽ 
      thật, chớ không phải lên non lên núi xin lá bùa uống vô mà thuộc bài được. 
      Việc ấy không có bằng cớ, không có tinh thần khoa học chút nào hết. 
       
      Mỗi chúng ta 
      phải tự rèn luyện, tự gạn lọc nội tâm từ dở xấu trở thành sáng suốt yên 
      tĩnh, đó là gốc của sự tu. Tu như vậy mới là tu thật. Cho nên người cầu 
      đạo nơi Thánh thần bên ngoài,  không tin ở sức của mình, đó là lối cầu đạo 
      hiếu kỳ chớ không phải chân thật.  
      Kế nữa, có lối 
      thiền người ta ngồi lại cứ trông đợi, nhờ sức điện của các vị Thánh thần 
      hộ trợ cho được sáng, được mạnh. Nhiều người dùng cách đó để trị bệnh 
      thiên hạ, gọi là cứu nhân độ thế. Cũng có cứu đó, nhưng được một thời gian 
      rồi cũng phải chạy đến bác sĩ như thường, chớ không hết thật. Nó chỉ tạm 
      thời chớ không phải là cứu kính, song con người cứ thích những cái tạm 
      thời. Ví dụ mình đang đau, người đó dùng sức điện làm cho mình bớt đau nên 
      ta thấy hiệu nghiệm ngay lúc đó, nhưng chưa hẳn hết bệnh luôn. Vì thế cách 
      đó cũng không phải là phương pháp cứu kính. Đó là thiền trông vào sức điện 
      bên ngoài.  
      Ngoài ra, còn 
      có những lối thiền người ta tu với mơ ước mong cầu những vị thần, vị Thánh 
      tới thọ ký, giống như trong kinh nói Phật lấy tay xoa đầu thọ ký. Những 
      người đó ngồi thiền cũng mơ ước như vậy. Do mơ ước thế nên thấy có bóng 
      nào tới xoa đầu liền tự vỗ ngực nói tôi được Phật thọ ký rồi, tôi là 
      Bồ-tát này nọ. Đó là bệnh.  
      Tu thiền không 
      khéo sẽ có rất nhiều bệnh. Tôi nhớ câu chuyện của Tuệ Trung Thượng Sĩ, khi 
      được Hoàng thái hậu đãi bữa cơm, trong đó có cả chay lẫn mặn. Thượng Sĩ 
      ngồi trên bàn, mặn cũng ăn, chay cũng gắp, không từ chay, mặn gì cả. Thái 
      hậu thấy vậy mới thưa: 
      - Sư huynh là 
      người tu thiền mà còn ăn mặn, làm sao đắc đạo, làm sao thành Phật? 
      Ngài trả lời: 
      - Anh không 
      cầu làm Phật, cũng như Phật không cầu làm anh. Hoàng hậu há chẳng nghe cổ 
      đức nói “Văn Thù là Văn Thù, Giải Thoát là Giải Thoát” đó sao? 
      Câu “Văn Thù 
      là Văn Thù, Giải Thoát là Giải Thoát” nhiều người không hiểu. Nó xuất phát 
      từ cốt chuyện thế này. Ở Trung Hoa có một Thiền sư tên là Văn Hỷ, nghe nói 
      trên Ngũ Đài Sơn là nơi ẩn tích của Bồ-tát Văn Thù. Ai có tâm tha thiết 
      cầu đạo, lên đó Ngài sẽ dạy đạo cho. Vì thế  ngài Văn Hỷ quyết tâm lên 
      núi, hết lòng muốn gặp ngài Văn Thù để được dạy đạo. Chuyến đi của Ngài 
      rất nhọc nhằn, khi gần tới đỉnh bỗng dưng gặp một ông già cỡi trâu, Ngài 
      hỏi: Động Kim Cang ở chỗ nào? Ông già chỉ nhưng không nói gì. Ngài chào 
      rồi đi.  
      Tới cửa động 
      Ngài thấy ông già đã cỡi trâu về rồi, có một đồng tử mời ông uống nước. 
      Khi bưng chung trà lên, ông già hỏi Ngài: “Ở phương Nam có cái này không?” 
      Ngài trả lời “Không”. Ông già nói: “Như vậy lấy gì uống nước?” Ngài bí, 
      trả lời không được. Thấy trời sắp tối, Ngài xin ở lại. Ông già nói “Chỗ 
      này không ở được, để tôi tiễn ông về”, liền sai đồng tử tiễn Ngài về.
       
      Khi tiễn ra 
      tới cửa động Ngài mới hỏi chú đồng tử: “Động này tên là động gì?” Đồng tử 
      không nói, tiễn thêm một quảng đường nữa rồi từ giã và ẩn mất. Ngài nhìn 
      trên mây thấy bóng ngài Văn Thù cỡi con sư tử lông vàng qua lại trên ấy. 
      Ngài vội sụp xuống lạy rồi trở về.  
      Khi về tới chỗ 
      Thiền sư Ngưỡng Sơn, Ngài xin nhập chúng tu. Thời gian sau Ngài ngộ được 
      lý thiền. Một hôm đến phiên nấu cháo, Ngài cầm cây dầm quậy cháo, khói bay 
      lên thì bỗng thấy Bồ-tát Văn Thù cỡi sư tử lông vàng qua lại trong đám 
      khói. Thấy vậy Ngài cầm dầm đập cái bóng trong khói. Ngài Văn Thù nói “Ta 
      là Văn Thù, ta là Văn Thù”. Ngài nói “Văn Thù là Văn Thù, Giải Thoát là 
      Giải Thoát”, nói rồi cứ đập. Bấy giờ  Bồ-tát Văn Thù biến mất. Ngài Văn Hỷ 
      sau này ngộ đạo ở nơi Giải thoát thự, nên người ta gọi Ngài là Giải Thoát.
       
      Qua câu 
      chuyện, chúng ta thấy sao tàn nhẫn quá. Hồi chưa biết thì khăn gói leo núi 
      leo non để tìm. Bây giờ Bồ-tát tới tận nơi mà không tôn kính, không hỏi 
      đạo, lại lấy dầm quậy cháo đập. Tại sao? Câu “Văn Thù là Văn Thù, Giải 
      Thoát là Giải Thoát” để nói rằng khi chưa ngộ đạo thì tìm đến Bồ-tát, tìm 
      đến Phật để cầu học. Nhưng khi ngộ rồi thì chính tâm mình là chỗ qui 
      hướng, chớ không còn trông cậy vào Phật, Bồ-tát bên ngoài nữa. Vì Phật và 
      Bồ-tát bên ngoài chắc gì là thật, có khi ma hiện. Cho nên quay về tâm mình 
      là bảo đảm nhất, tất cả các hiện tướng bên ngoài đều không chấp nhận. Do 
      đó tông Lâm Tế có câu “Phùng ma sát ma, phùng Phật sát Phật”, nghĩa là gặp 
      ma giết ma, gặp Phật giết Phật. Tại sao? Vì không bảo đảm đâu là Phật, đâu 
      là ma. Đã không bảo đảm thì có thể bị dụ dẫn theo đường tà. Cho nên trở về 
      mình là gốc, không nên trông cậy bên ngoài. Đó là một lẽ thật. Hiểu như 
      vậy chúng ta mới thấy trọng tâm tu của nhà thiền. 
      Trở lại câu 
      chuyện của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Câu đầu “Anh là anh, anh không cầu 
      làm Phật, cũng như Phật không cầu làm anh” nghe có vẻ ngang ngược quá phải 
      không? Tu mà không cầu thành Phật, vậy cầu cái gì? Bởi cầu là tìm kiếm bên 
      ngoài, cầu thành Phật là mong thành Phật bên ngoài. Nếu cầu bên ngoài 
      được, thì không phải là mình. Bởi Phật là giác, chính tâm mình được an 
      định, trí tuệ phát sáng, đó là giác ngộ. Giác ngộ ông Phật nơi mình chớ 
      không phải ở ngoài. Cho nên tu còn cầu bên ngoài là không đúng ý nghĩa của 
      đạo Phật. Vì vậy Ngài nói không cầu thành Phật.  
      Chúng ta nhìn 
      thật kỹ mới thấy giới Phật tử ngày nay tu cầu bên ngoài nhiều hay tu để tự 
      giác nhiều? Gần hết chín mươi chín phần trăm cầu bên ngoài. Cầu Phật cho 
      con cái này, cho con cái kia, Phật độ con được bình an, bố thí cho con 
      được phát tài. Cầu đủ thứ hết mà không hề hướng về mình. Đó là một lầm lẫn 
      hết sức lớn của người Phật tử hiện nay.  
      Trong nhà Phật 
      nói ba môn học giải thoát là Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh. Ví dụ 
      người Phật tử giữ năm giới: không giết người, không trộm cướp, không tà 
      dâm, không nói dối, không uống rượu say, không dùng các chất cay nghiện. 
      Năm giới căn bản đó là năm nền tảng đạo đức của con người. Người có đạo 
      đức mới đủ tư cách hướng dẫn, chỉ dạy người khác. Người tu dù cho nói hay, 
      có thần thông lạ mà phạm giới thì cũng chưa gọi là người đủ tư cách hướng 
      dẫn Phật tử tu.  
      Giới là nền 
      tảng đạo đức, từ giới sanh định, rồi mới có trí tuệ. Nền tảng đạo đức 
      không có thì thiền định trí tuệ sẽ lạc vào ngoại đạo, chớ không phải là 
      Phật giáo. Quí Phật tử có bệnh mê thần thông lắm. Giả sử tôi đang thuyết 
      pháp ở đây mà ngoài sân bỗng dưng có ai phi thân đứng lên hư không, hoặc 
      ngồi kiết già thì quí vị còn can đảm ngồi nghe tôi giảng không? Chắc là 
      chạy ào hết ra ngoài để nhìn vị Thánh đang hiện trong hư không đó. Như vậy 
      tôi sẽ ế, sẽ nói chuyện với cái bàn, chớ không người nào ngồi nghe cả. Tại 
      sao vậy? Vì ai cũng thích cái lạ, cho nên thần thông đối với họn hấp dẫn 
      hơn. Bởi thích thần thông nên cũng dễ mắc sai lầm.  
      Tôi sẽ giải 
      thích về thần thông để cho tất cả  hiểu rõ. Trong nhà Phật, những vị tu 
      chứng A-la-hán cũng có thần thông. Song Phật cấm sử dụng thần thông trừ 
      khi được phép của Phật. Tại sao vậy? Vì Phật biết tâm của chúng sanh thích 
      cái lạ, gọi là bệnh hiếu kỳ. Cho nên hiện thần thông, sẽ làm mê hoặc họ, 
      tất cả đều nhắm vào vị có thần thông. Dù vị đó tu chừng năm tuổi hạ, còn 
      những vị mười tuổi, hai chục tuổi hạ, nhưng không hiện thần thông họ cũng 
      không kính trọng. Thành ra chỉ quí thần thông mà không quí đức hạnh. Họ 
      không biết rằng người có thần thông mà chưa dứt phiền não thì rất dễ sinh 
      họa lớn. Ngày xưa đọc truyện Tàu, nhiều vị tu trên núi có thần thông, 
      nhưng người ta khéo dùng thuật kích bác hay thách đố liền nổi giận xách 
      gươm xuống núi. Có thần thông mà lại thích đi đánh nhau, giết nhau thì đâu 
      phải là đệ tử Phật. Điều này chúng ta đã thấy rõ. 
      Thời Phật còn 
      tại thế, có bốn vị ngoại đạo tu chứng được Ngũ thông. Ngũ thông gồm: thiên 
      nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng 
      thông. Thiên nhãn thông là thấy xa, thiên nhĩ là nghe xa, tha tâm thông là 
      biết được tâm người khác, thần túc thông là hiện lớn hiện nhỏ, hoặc đằng 
      vân, độn thổ, độn thủy v.v… túc mạng thông là biết được bao nhiêu đời, bao 
      nhiêu kiếp trước. Bây giờ ai được một trong năm thông đó là ta đã thấy 
      phục lăn rồi, đừng nói đủ hết cả năm.  
      Bốn vị tiên 
      ngoại đạo ấy tu được Ngũ thông như vậy mà tới lúc mạng căn chấm dứt, tuổi 
      thọ hết, bốn ông biết mình sắp chết. Một ông dùng thần thông bay lên hư 
      không, núp trong đám mây, vì nghĩ quỉ vô thường không tìm được sẽ khỏi 
      chết. Một ông độn thủy, tức lặn sâu dưới đáy biển cho quỉ vô thường không 
      biết đâu mà tìm. Một ông chun vô trong núi, ẩn giữa lòng núi. Một ông chun 
      xuống lòng đất. Bốn ông núp ở bốn chỗ để trốn quỉ vô thường. Nhưng đúng 
      giờ phải chết thì ông trên mây mất thần thông rơi xuống nát thây. Ông ở 
      đáy biển mất thần thông nên chết ngộp dưới đó. Ông ở trong núi bị núi khép 
      lại chôn luôn tại chỗ. Ông ở dưới đất cũng bị đất khép lại mà chết. Như 
      vậy được Ngũ thông vẫn trốn không được cái chết. Đó là một lẽ thật. 
      Thêm một câu 
      chuyện nữa. Trong kinh đức Phật kể một vị tiên nhân tu cũng được ngũ 
      thông, thuyết pháp rất hay. Vì vậy mỗi lần ông thuyết pháp, chư thiên cõi 
      trời Đao Lợi cùng xuống nghe. Lần đó ông thuyết pháp xong, vị trời ở cõi 
      Đao Lợi ngồi khóc. Ông lấy làm lạ hỏi: Tại sao ông nghe tôi thuyết pháp 
      lại khóc? Đáp: Thưa Ngài, Ngài thuyết pháp rất hay, tôi nghe thích lắm, 
      nhưng tuổi thọ của Ngài sắp hết, tôi sẽ không được nghe Ngài thuyết pháp 
      nữa nên mới khóc.  
      Nghe thế, tiên 
      nhân giật mình hỏi vị trời kia: Bây giờ phải làm sao để thoát được cái 
      chết? Vị ở cõi trời Đao Lợi bảo: Nếu Ngài muốn khỏi chết, thì phải tìm đến 
      đức Phật Thích-ca nhờ Ngài chỉ dạy phương pháp thoát khỏi cái chết. Tiên 
      nhân ấy hỏi: Hiện giờ đức Phật Thích-ca ở đâu? Vị kia nói: Hiện giờ đức 
      Phật đang thuyết pháp ở núi Linh Thứu, Ngài đến đó sẽ gặp. Tiên nhân liền 
      bay đến núi Linh Thứu. 
      Trên đường, 
      nhìn thấy hai cây ngô đồng trổ hoa rực rỡ, ông dùng thần thông nhổ hai cây 
      ấy, để trong lòng bàn tay đem đến cúng dường Phật. Tới nơi, tiên nhân dâng 
      hai cây ngô đồng lên đức Phật và hỏi:  
      - Bạch Thế 
      Tôn, phải tu cách nào để khỏi chết?  
      Phật bảo:
       
      - Buông.
       
      Ông liền buông 
      một cây ngô đồng xuống. Phật lại bảo:  
      - Buông.
       
      Ông buông một 
      tay nữa. Phật bảo:  
      - Buông. 
      Ông ngạc nhiên 
      thưa:  
      - Bạch Thế 
      Tôn, hai tay con cầm hai cây ngô đồng, Ngài bảo buông lần thứ nhất con 
      buông một tay, bảo buông lần thứ hai, con buông thêm tay còn lại, bây giờ 
      Ngài bảo buông nữa, con biết buông cái gì?  
      Phật nói:
       
      - Không phải 
      ta bảo ngươi buông cây ngô đồng. Buông lần thứ nhất là buông sáu trần, 
      đừng dính mắc với nó. Buông lần thứ hai là buông sáu căn, đừng chấp thân 
      là thật, là của ta. Buông lần thứ ba là buông sáu thức. Căn, trần và thức 
      đều buông được hết thì khỏi chết.  
      Nghe tới đó 
      tiên nhân liền ngộ, tu theo lời Phật dạy, không còn bị chết nữa. Thật là 
      đơn giản, không cần dùng thần thông mà cứu được mạng sống. Đó là không 
      dính với cảnh, không chấp thân, không chấp thức là tâm. Cảnh, thân, tâm 
      không chấp ấy là giải thoát sanh tử. Như vậy ngũ thông chỉ là một phương 
      tiện làm cho người ta nể phục, chớ không phải cứu kính. 
      Ở Trung Hoa, 
      có câu chuyện kể về hai vị, một Thiền sư, một đạo sĩ. Đạo sĩ tức là người 
      tu tiên. Cả hai đều đi tới bến đò cùng sang sông. Đạo sĩ muốn thi thố thần 
      thông cho Thiền sư xem, nên nói: “Huynh, đi qua sông”. Thiền sư bảo: 
      “Huynh qua được thì cứ qua”. Đạo sĩ liền vén áo đi trên nước như đi trên 
      đất bằng. Qua tới bờ bên kia ông quay sang ngoắc, ý bảo Thiền sư hãy đi 
      qua như mình. Bấy giờ Thiền sư đi tới bến đò mua vé qua đò. Khi cùng gặp 
      nhau trên bờ, thấy đạo sĩ có vẻ ngạo nghễ quá. Thiền sư liền hỏi: 
       
      - Huynh luyện 
      tập bao lâu mới được thần thông như vậy? 
      - Ba mươi năm, 
      tôi mới được như vầy.  
      Thiền sư cười:
       
      - Công phu ba 
      mươi năm của huynh, đáng giá hai xu.  
      Bởi đạo sĩ 
      luyện tập ba mươi năm cũng qua sông được, còn Thiền sư chỉ tốn hai xu cũng 
      qua sông được, có hơn gì đâu. Cho nên Thiền sư nói công phu ba mươi năm 
      luyện tập ấy giá đáng hai xu. Câu chuyện cho chúng ta thấy, đối với người 
      tu Phật, thần thông rất tầm thường. 
      Một lần khác, 
      Thiền sư Hoàng Bá, tức Hoàng Bá Hy Vận. Ngài dạo núi Thiên Thai vào mùa 
      mưa. Cùng đi với Ngài có một vị tăng khác. Khi tới dòng suối lớn, nước 
      chảy ầm ầm rất khó qua. Vị kia bảo: “Qua, qua, chúng ta qua”. Ngài nói: 
      “Huynh qua được thì cứ qua”. Vị kia liền vén áo đi qua, xong rồi quay lại 
      ngoắc: “Qua đây, qua đây”. Ngài Hoàng Bá không nói gì, đi tìm chiếc bè bơi 
      qua. Tới nơi, vị kia nói với vẻ ngạo nghễ: “Huynh thấy tôi chưa!” Ngài 
      Hoàng Bá trả lời: “Nếu tôi sớm biết huynh như vậy, khi nãy đã chặt bắp đùi 
      của huynh rồi”. Vị tăng kia xìu xuống và than: “Đây là pháp khí Đại thừa, 
      ta không thể bì được”. 
      Như vậy với 
      con mắt đạo Phật, thần thông là một trò chơi, không có gì quan trọng. 
      Nhưng với con mắt thiền phàm phu thần thông là tuyệt đỉnh. Người tu theo 
      đạo Phật phải hiểu, khi ngộ đạo chứng quả tuy có thần thông, nhưng đó là 
      việc thường, không nên xem đó là điều kỳ đặc rồi sanh tâm kiêu ngạo. Khi 
      nghiệp tới, thần thông không thể giải quyết được gì. 
      Như câu chuyện 
      ngài Mục Kiền Liên, là đệ tử thần thông bậc nhất của đức Phật. Nhưng khi 
      thọ mạng sắp hết bị đám du đãng vây đánh, Ngài dùng thần thông bay mà bay 
      không được, phải chịu đòn cho tới ngất xỉu. Sau cùng Ngài được khiêng về 
      hương thất của Thế Tôn. Các thầy Tỳ-kheo hỏi Phật:  
      - Bạch Thế 
      Tôn, ngài Mục Kiền Liên có thần thông bậc nhất, tại sao bị đánh gần chết 
      như vậy?  
      Phật trả lời:
       
      - Đó là do 
      nghiệp quá khứ, nay ông đã chứng quả A-la-hán, thân này là thân chót, nên 
      tất cả các nghiệp quá khứ còn lại phải trả cho hết.  
      Vì vậy khi trả 
      nghiệp thần thông không dùng được. Cho nên biết thần thông không đối đầu 
      với nghiệp lực. Trong nhà Phật có câu “thần thông bất năng địch nghiệp”, 
      nghĩa là thần thông không thể chống lại với nghiệp. Nghiệp đáng sợ hơn 
      thần thông nhiều. Người thế gian không hiểu nên trọng thần thông mà không 
      sợ nghiệp. 
      Nghiệp là hành 
      động, thói quen lành hay dữ của chính mình, sẽ theo ta như bóng với hình. 
      Khi phải trả thì không thể nào cưỡng nỗi. Còn thần thông do luyện tập 
      được, có rồi mất không thật. Người tu thiền mà mong cầu thần thông, đó là 
      thiền tà, cái không chủ yếu cho lầm là cái chủ yếu. Hiểu rõ như thế sự tu 
      mới không ngại, không lầm.  
      Tóm lại, nói 
      tới thiền ngoại đạo chúng ta nên lưu ý những điểm sau: một là nặng về thần 
      thông, hai là nặng về sống dai, ba là nặng về diệu dụng mầu nhiệm, để giúp 
      người này cứu người kia v.v… Cả ba điểm đó đều là bệnh. Tại sao nói sống 
      dai là bệnh? Phật dạy chúng ta tu cốt mở sáng trí tuệ, thấy mình, thấy 
      người, thấy mọi vật đúng như thật. Thấy đúng như thật gọi là có trí tuệ. 
      Với con mắt nhà Phật nhìn tất cả từ người cho tới muôn vật đều do duyên 
      hợp, duyên hết thì ly tán. Hợp thì sanh, ly thì tử. Mà những gì có hợp 
      nhất định phải có tan, không ngờ vực được. Bây giờ có người muốn hợp mà 
      không muốn tan, như vậy đó là đúng hay sai? Phàm hợp thì phải tan, bây giờ 
      không muốn tan, như vậy là sai rồi. Cho nên tu muốn sống thật lâu, là 
      không hiểu đạo lý duyên sanh vậy.  
      Như trong sử 
      sách Trung Hoa thường nhắc những vị tu tiên, luyện thuốc trường sanh bất 
      tử, uống vào sống mãi không chết. Nhưng bây giờ chúng ta thử tìm xem ở 
      Trung Hoa có còn sót lại ông tiên nào không? Đi đâu mất hết. Đó là vấn đề 
      mà ít người để ý. Cứ nghĩ uống thuốc trường sanh bất tử là sống hoài, sống 
      hoài sao bây giờ kiếm không ra, thử hỏi họ đi đâu? Cho nên muốn sống dai 
      đối với đạo Phật, đó là một ý niệm không đúng.  
      Tới những công 
      dụng biến hóa v.v… cũng là cái nhìn lệch lạc. Bởi như trên đã nói, người 
      có thần thông không thể chống lại nghiệp lực của mình, thì làm sao giúp ai 
      được khi nghiệp của họ đến. Vì vậy tu thiền mà còn nặng về những điểm đó 
      thì chưa hẳn là người hiểu đạo Phật. 
      
      
      3. Thế nào là thiền Tiểu thừa?  
      Ngày xưa gọi 
      thiền Tiểu thừa, thiền Đại thừa; nhưng ngày nay gọi là thiền Nguyên thủy, 
      thiền Phát triển hay là thiền Nam tông, thiền Bắc tông. Tu thiền Nguyên 
      thủy là tu theo hệ thống bốn bộ kinh A-hàm do Phật dạy. Nói theo hệ Pali 
      đó là các bộ Nikàya. Thiền Nguyên thủy có những pháp tu như là Tứ niệm xứ, 
      Ngũ đình tâm quán, gần đây gọi là thiền Minh sát tuệ.  
      Lối tu thiền 
      Nguyên thủy là lối tu đối trị. Như thiền Tứ niệm xứ, quán thân bất tịnh để 
      đối trị bệnh ái dục. Người nào nặng về bệnh ái dục thì quán thân nhơ nhớp. 
      Nhờ thấy thân nhơ nhớp nên nhàm chán, không bị dính mắc với nó. Kế nữa là 
      quán Thọ thị khổ. Chữ thọ là những cảm giác, tất cả các cảm giác của chúng 
      ta đều là khổ. Tại sao? Ta thấy có khi mình khổ cũng có khi mình vui, 
      nhưng vì sao Phật nói tất cả cảm thọ đều là khổ? Ví dụ lưỡi chúng ta nếm 
      những món ăn ngon mình cảm thấy thích, đó là thọ lạc. Nếm những món đắng, 
      cay, khó chịu mình không ưa, đó là thọ khổ. Nhưng Phật nó tất cả cảm giác 
      đều là khổ. Chữ khổ ở đây có nghĩa là vô thường. Tất cả các cảm giác dù ta 
      ưa thích hay không ưa thích đều là tướng bại hoại vô thường, có rồi mất, 
      không bền, không thật nên gọi là khổ. Chúng ta sống luôn luôn bị các cảm 
      giác lôi chạy theo nó. Dùng quán thọ là khổ để trị bệnh ưa thích thọ lạc. 
      Quán tâm vô 
      thường để trị bệnh chấp tâm mình là thường. Quán pháp vô ngã để trị bệnh 
      chấp thân này là ta thật. Như vậy dùng bốn pháp quán này để trị bốn thứ 
      bệnh như đã nói ở trên. Đây là dùng trí tuệ chiếu soi đúng sự thật. 
       
      Rõ ràng thân 
      của chúng ta nguyên là không sạch, ta tìm cách xông ướp phủ lên nó các 
      chất thơm tho rồi lầm tưởng là sạch, sanh ra bệnh luyến ái. Bây giờ biết 
      rõ nó không sạch nên không bị dính, bị kẹt với nó nữa. Đó là người thấy 
      đúng như thật, do thấy như thế nên không đắm luyến thân này, do không đắm 
      luyến nên không tạo nghiệp, không thọ khổ.  
      Kế đó là thiền 
      Ngũ đình tâm. Ngũ đình tâm tức là năm phương pháp tu thiền để dừng năm thứ 
      tâm tạo tội lỗi. Thứ nhất là tâm ái dục. Phật dạy chúng ta quán bất tịnh 
      để dừng tâm ái dục. Hai là tâm sân nhuế. Phật dạy chúng ta quán từ bi để 
      trị tâm sân nhuế. Ba là tâm ngu si. Phật dạy quán duyên khởi để trị tâm 
      ngu si. Bốn là tâm chấp ngã. Phật dạy quán giới phân biệt để trị bệnh chấp 
      ngã. Năm là tâm tán loạn. Phật dạy quán sổ tức, tức đếm hơi thở để trị 
      bệnh tâm tán loạn.  
      Như vậy Ngũ 
      đình tâm quán là năm pháp quán cốt dừng tâm loạn động không thật của mình. 
      Các phương pháp Phật dạy chúng ta tu đều cốt để trị bệnh. Hệ tu thiền dùng 
      trí quán sát đúng với lẽ thật, để thoát khỏi các dính mắc gọi là thiền 
      Nguyên thủy.  
      
      
      4. Thế nào là thiền Đại thừa hay Bắc tông?  
      Ở đây tôi đơn 
      cử lối tu thiền theo tông Thiên Thai ở Trung Hoa ứng dụng. Trước đời Tùy 
      có Thiền sư Tuệ Tư ở núi Thiên Thai, khi Ngài nghiên cứu bộ Trung Quán 
      luận của tổ Long Thọ, Ngài phát minh ra lối tu Nhất tâm tam quán, căn cứ 
      vào bài kệ:  
                  
      Nhân duyên sở sanh pháp,  
                  
      Ngã thuyết tức thị không,  
                  
      Diệc danh vi giả danh,  
                  
      Diệc danh trung đạo nghĩa.  
      Dịch: 
                  
      Các pháp do duyên sanh, 
                  Ta 
      nói tức là không, 
                  
      Cũng gọi là giả danh, 
                  
      Cũng gọi nghĩa trung đạo.  
      “Nhân duyên sở 
      sanh pháp” tức là quán các pháp do nhân duyên sanh ra, không pháp nào tự 
      nó thành. Đã do nhân duyên sanh ra nên Phật gọi là không “Ngã thuyết tức 
      thị không”. Chữ Ngã đây là Phật, Phật nói tức là không, không có thực thể 
      hay không có tự tánh. Dùng trí tuệ nhìn thấy tất cả sự vật từ con người 
      cho tới muôn vật đều do nhân duyên sanh nên không có thực thể, gọi là 
      không.  
      “Diệc danh vi 
      giả danh”, từ quán không qua quán giả. Quán giả tức là không có thực thể, 
      nhưng khi duyên hợp thì tạm có một giả tướng, đặt cho một giả tên, nên gọi 
      là giả danh. Chỗ này tôi thường dùng ví dụ như bàn tay của tôi năm ngón. 
      Khi tôi co năm ngón lại gọi là nắm tay. Nắm tay này không có thực thể, 
      phải đợi co năm ngón lại mới có nắm tay. Năm ngón co lại gọi là nhân duyên 
      sanh. Trước đâu có nắm tay, hiện giờ năm ngón co lại chúng ta tạm gọi là 
      nắm tay. Như vậy nắm tay là một giả danh, chớ không phải một thực thể. Giả 
      danh nên cũng giả tướng, tức tướng hư giả. Nếu chúng ta tách rời ra từng 
      ngón thì đâu có nắm tay. Do nắm tay không có thực thể nên nói nó không tự 
      tánh, là không. Nắm tay chỉ là tướng giả nên tên cũng giả. Vì vậy quán thứ 
      hai là “Diệc danh vi giả danh”. 
      Nếu chúng ta 
      quán được như vậy gọi là “Diệc danh trung đạo nghĩa”, tức là thấy được 
      nghĩa trung đạo của các pháp. Trung đạo là sao? Thường thế gian nhìn sự 
      vật hoặc là chấp có, hoặc là chấp không. Bây giờ chúng ta nói nó không có 
      thực thể, chỉ có giả tướng, giả danh. Như vậy chúng ta không mắc kẹt hai 
      bên “có” và “không”. Đó là lý trung đạo. Lý trung đạo là không mắc kẹt có 
      và không, chớ không phải lý trung đạo là chặng giữa của có và không. Quán 
      như vậy gọi là quán Đại thừa, hay pháp quán của hệ Bắc tông.  
      
      
      5. Thế nào là Tối thượng thừa thiền?  
      Tối thượng 
      thừa thiền còn gọi là Thiền tông. Nói tới Thiền tông, tự nhiên chúng ta 
      nhớ tới tổ Bồ-đề-đạt-ma. Ngài là vị tổ thứ hai mươi tám ở Ấn Độ, sang 
      Trung Hoa truyền Thiền tông, nên trở thành Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa. 
      Người được Ngài truyền thiền đầu tiên ở Trung Hoa là tổ Huệ Khả, còn gọi 
      là Nhị tổ.  
      Thiền tông này 
      dùng bốn câu kệ làm châm ngôn:  
                  
      Bất lập văn tự,  
                  
      Giáo ngoại biệt truyền,  
                  
      Trực chỉ nhân tâm,  
                  
      Kiến tánh thành Phật. 
      Dịch: 
                  
      Chẳng lập văn tự, 
                  
      Truyền ngoài giáo lý, 
                  
      Trực chỉ nhân tâm,  
                  
      Thấy tánh thành Phật.  
      “Bất lập văn 
      tự” là không dùng chữ nghĩa. “Giáo ngoại biệt truyền” là truyền ngoài giáo 
      lý hay ngay trong giáo lý, mà chỉ truyền riêng cho người nào thâm nhập, 
      thấu hiểu được ý nghĩa sâu bên trong, vượt ngoài chữ nghĩa. “Trực chỉ nhân 
      tâm” là chỉ thẳng tâm người. “Kiến tánh thành Phật” là thấy được bản tánh 
      mình liền thành Phật đạo. Do vậy thiền này có một sức mạnh đi thẳng, không 
      phải quanh co, không phải quán chiếu, xem xét như các lối tu thiền ở trên. 
      Vì đi thẳng nơi nội tâm, không mượn phương tiện nên gọi là trực chỉ nhân 
      tâm.  
      Chỗ này, tôi 
      xin đi rộng một chút để quí vị hiểu rõ tinh thần đạo Phật. Tất cả pháp tu 
      của đạo Phật đều đi từ định sang trí tuệ rồi mới giác ngộ, không thể khác 
      được.  
      Như pháp tu 
      Tịnh độ mượn câu niệm Phật “Nam-mô A Di Đà Phật”, chúng ta không cần biết 
      nghĩa, cứ tha thiết niệm, miệng niệm tay lần chuỗi, lỗ tai lắng nghe câu 
      niệm Phật. Đều đều như vậy khiến cho tâm mình không duyên theo các cảnh 
      tạp loạn bên ngoài. Chỉ nhớ câu niệm Phật thôi, lần lần tâm yên đi tới 
      nhất tâm bất loạn. Bấy giờ chỉ còn có câu niệm Phật, không còn loạn tưởng.
       
      Khi niệm đượïc 
      tới nhất tâm bất loạn rồi thì niệm đó còn hay không còn? Trong nhà Phật 
      thường hay nói niệm đến chỗ vô niệm. Niệm cho tới chỗ không còn gì để 
      niệm, tâm hoàn toàn thanh tịnh tức niệm đến vô niệm. Như vậy niệm tới đó 
      không còn niệm nữa, chỉ còn một tâm thể thanh tịnh, chừng đó mới thấy Phật 
      Di Đà.  
      Trong kinh Di 
      Đà có nói, người nào niệm Phật nhất tâm bất loạn từ một ngày, hai ngày cho 
      tới bảy ngày, khi lâm chung thấy Phật và thánh chúng hiện tại ở trước. 
      Phật là giác, khi chúng ta niệm nhất tâm, không còn một niệm nào khác, 
      được an định hoàn toàn liền thấy Phật ở trước, tức là giác ngộ chớ gì. Như 
      vậy nhờ niệm Phật, tâm định rồi phát tuệ được giác ngộ.  
      Đến Mật tông 
      tu thần chú. Như câu “Án-ma-ni-bát-di-hồng” chẳng hạn, cứ niệm hoài dù 
      không biết nghĩa gì hết. Nhưng vì trọng sự linh nghiệm, của câu chú nên 
      được chư thần gia hộ, ráng niệm sẽ có kết quả. Cứ chú tâm niệm hoài câu 
      chú đó đến bao giờ tâm không còn duyên vào chuyện gì khác, bất thần hôm 
      nào được giác ngộ. Như vậy, Mật tông cũng chủ trương từ định rồi phát tuệ, 
      chớ không có pháp nào khác. Dùng câu thần chú cuối cùng cũng phải bỏ câu 
      thần chú, vì đó là phương tiện để đi tới định tâm. Cho nên niệm Phật hay 
      niệm chú đều là phương tiện.  
      Thiền tông chỉ 
      thẳng tâm người chớ không dùng phương tiện. Tu thiền khó ở chỗ đó. Như tổ 
      Bồ-đề-đạt-ma khi nhận Thần Quang làm đồ đệ rồi, ngài Thần Quang thưa:
       
      - Bạch Hòa 
      thượng, tâm con không an, nhờ Thầy dạy con pháp an tâm.  
      Tổ Đạt-ma bảo:
       
      - Đem tâm ra 
      ta an cho.  
      Ngài sửng sốt, 
      quay lại tìm tâm thì tìm không được. Ngài bạch:  
      - Bạch Hòa 
      thượng, con tìm tâm không được.  
      Tổ bảo: 
       
      - Ta an tâm 
      cho ngươi rồi.  
      Ngay đó Ngài 
      liền ngộ, giản đơn làm sao! Chúng ta thấy có pháp gì không? Tâm bất an là 
      tâm nào? Là tâm nghĩ chuyện này, chuyện kia, lăng xăng lộn xộn đó. Như 
      ngồi tụng kinh hay niệm Phật mà nhớ chuyện nhà, chuyện láng giềng, nhớ bà 
      con chỗ này chỗ kia tứ tung hết, đó là tâm bất an.  
      Bây giờ Tổ 
      bảo: Đem tâm bất an ra ta an cho. Ngài Thần Quang đâu dám xem thường Tổ 
      sư, nên ráng tìm. Tìm hoài không thấy đâu hết, mới thú thật con tìm tâm 
      không được. Tổ bảo: Ta đã an cho ngươi rồi. Khi quay lại tìm không được, 
      lúc đó an chưa? Tâm bất an nó đã an mất rồi, an mà không có pháp gì cả. 
      Chỉ quay nhìn lại xem nó thật hay không, thấy nó không thật, nó liền mất 
      là an rồi. Như vậy có phải trực chỉ chưa? Không dùng phương tiện tức là 
      trực chỉ tâm rồi. Đây gọi là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. 
      Đơn giản như vậy. 
      
      
      Thiền tông dạy tu có hai lối:  
      Một là dùng 
      câu thoại đầu hay công án, thuật này các Thiền sư đời Tống thường dùng. Ví 
      dụ nói: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, ta là gì?” Khi có một nghi vấn trong 
      đầu, chúng ta sẽ nhớ mãi. Nghi vấn càng mạnh, ta càng dồn sức nhớ vào đó, 
      nên quên tất cả những việc bên ngoài. Đặt nghi vấn tự hỏi “Trước khi cha 
      mẹ chưa sanh, ta là gì?” Cứ theo dõi câu đó để tìm cách giải quyết. Theo 
      dõi mãi cho tới quên hết tất cả sự vật bên ngoài. Một lúc nào đó, khối 
      nghi thành tựu, tức là chỉ còn một nghi vấn, không còn niệm nào khác chen 
      vô. Đó là gần thành công. Đến khi khối nghi bùng vỡ thì mình được giác 
      ngộ. Nhà thiền hay nói đại nghi, đại ngộ là thế.  
      Tu thiền dùng 
      công án, thoại đầu là tu theo lối thiền thoại đầu Tông Lâm Tế. Phương pháp 
      này rất hay, nhưng ở vào thời đại chúng ta nhiều việc bận rộn, lo lắng 
      nghĩ suy, nhất là ở Tây phương hiện giờ đầu óc người ta rối nùi, vì nhu 
      cầu khoa học đòi hỏi ngày càng phức tạp, cấp bách. Một kỹ sư ra trường, 
      phải tìm cho ra một phát minh mới có bằng cấp tốt, người ta mới trưng 
      dụng. Do vậy con người phải nặn đầu nặn cổ tìm hoài. Trong hoàn cảnh ấy mà 
      tu thoại đầu là rối ngay. Một thứ tìm đã mệt, bây giờ đề khởi nghi tình 
      nữa, chắc là lên huyết áp, loạn thần kinh phải phiền chở đi cấp cứu nữa. 
      Chúng tôi thấy được mối nguy hiểm đó nên không hướng dẫn lối tu thoại đầu 
      vào thời đại này. 
      Chúng ta thử 
      so sánh phương pháp tu của Thiền tông xem có giống các nhà khoa học không? 
      Các nhà khoa học đối trước một vấn đề đang nghiên cứu, dồn hết tâm lực 
      tìm, có khi quên tất cả mọi chuyện chung quanh, chỉ nhớ vấn đề của mình 
      thôi. Do chú tâm vào một việc, không tán loạn tới phút giây nào đó, sáng 
      được vấn đề, lúc đó gọi là phát minh. Cái đó ai dạy mình? Chính vì ta dồn 
      hết tâm lực vào một vấn đề nên mọi thứ lăng xăng không còn, tâm lắng đọng 
      tự nhiên trí sáng, bừng ra được cách giải quyết vấn đề. Đó là cái giác của 
      tự tâm phát, chớ không đâu xa hết.  
      Thứ hai là 
      đường lối tu của tổ Huệ Khả. Khi tâm bất an, Ngài tìm lại không thấy nó 
      liền được an tâm. Hằng ngày chúng ta cho những vọng tưởng, lăng xăng là 
      tâm mình. Bây giờ quay lại tìm thì tự nó tan mất, nên biết nó không thật. 
      Đây gọi là phản quan, tức soi sáng lại mình. Lối tu này nhẹ, thấy rồi 
      buông không có gì phải đề khởi trong đầu. Không đề khởi trong đầu thì máu 
      không lên, tránh được bệnh đau đầu, áp huyết cao. Nên lối tu này thích hợp 
      với hoàn cảnh hiện tại ngày nay. Cho nên chúng tôi chủ trương tu thiền 
      theo lối phản quan.  
      Hiện giờ tất 
      cả chúng ta đang bị trói buộc hay đang được giải thoát? Trăm người như một 
      đều nói mình đang bị trói buộc, phải không? Đặt tiếp câu hỏi thứ hai: Ai 
      trói buộc mình? Như mấy chú thanh niên mười tám hai mươi tuổi, khi nhìn 
      thấy người nữ có sắc đẹp liền bị trói buộc. Đó là tại sắc đẹp kia trói 
      buộc hay tại mình trói sắc đẹp kia? Ai trói ai? Rõ ràng mình chạy theo để 
      trói, để cột mình với người ta, chớ người ta đâu có trói mình. Người ta 
      đẹp thì mặc người ta, có dính gì đến mình đâu, tại sao lại trói. Mình đã 
      tự trói còn đổ thừa cho tài, sắc, danh, vọng trói buộc mình. Có bất công 
      không?  
      Đó là điều mà 
      mình cần phải nhìn cho thật rõ. Bởi chúng ta sống bằng tưởng tượng nhiều 
      hơn là sự thật. Cứ nghĩ cái này hại mình, cái kia trói buộc mình, cái nọ 
      làm khổ mình. Nhưng sự thật, chính mình là chủ nhân trói buộc mình, là chủ 
      nhân làm khổ mình, mà không biết cứ đổ thừa ở bên ngoài. Thế nên dính mắc 
      đủ thứ, nào là quyền thế, chức tước, tiến tài, danh vọng… Ta tự cột mình 
      vô đó rồi giãy giụa, kêu khổ.  
      Nên biết tất 
      cả sự trói buộc gốc từ mình mà ra, nên bỏ cũng từ mình chớ không phải ở 
      bên ngoài. Cho nên Phật bảo “buông” là buông cảnh, đừng dính với nó. Ta cứ 
      đổ thừa cảnh dính mình, không ngờ mình dính cảnh. Muôn sự muôn vật ở thế 
      gian này không có cái gì cố tình hại mình hết, tại vì ta lao vào đó, nắm 
      bắt nó không được thì khổ. Khổ rồi đổ thừa nó hại mình.  
      Chúng ta nói ở 
      cõi đời này phiền não quá, tu không được, câu này đúng chưa? Cõi đời phiền 
      não hay là mình phiền não cõi đời? Như người ta đâu có bảo mình thương 
      người ta. Bây giờ mình thương, người ta không thương lại thành ra khổ, đó 
      là đời phiền não hay ta phiền não? Người ta làm khổ mình hay tại mình đeo 
      đuổi người ta không được thành khổ. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy mọi thứ 
      gốc từ mình mà ra. Bây giờ chịu khó buông bỏ theo đuổi, buông bỏ các thứ 
      dính mắc đi thì hết khổ. Như vậy là giác ngộ an nhiên tự tại, chớ có gì 
      đâu. Chỉ cần buông là hết khổ.  
      Tôi thường nói 
      các Phật tử tu muốn được về Cực Lạc, bây giờ phải chuẩn bị: một là đừng 
      còn si mê, hai là đừng còn tham lam, ba là đừng còn sân hận. Không si, 
      không tham, không sân thì chết được Phật đón về Cực Lạc. Nếu còn si, còn 
      tham, còn sân, dù quí vị cầu mấy Phật cũng không dám đón về bên đó đâu. 
      Tại sao? Vì cõi Cực Lạc vui tột, không có các thứ ô nhiễm lẫn trong đó, 
      nếu còn tham còn sân, về bên đó thấy người ta hơn mình một chút liền nổi 
      sân lên làm ô nhiễm đất Phật. Như thế mất công Phật phải đưa về, đón đi 
      rồi lại đưa về, cực quá. Thôi không đón tốt hơn.  
      Gốc của lối tu 
      thiền thứ hai này từ tổ Đạt-ma truyền xuống cho tổ Huệ Khả. Tổ Huệ Khả 
      truyền cho tổ Tăng Xán. Tổ Tăng Xán truyền cho hai vị: Một là Tổ Đạo Tín ở 
      Trung Hoa, hai là Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi người Ấn Độ. Sau này tổ 
      Tỳ-ni-đa-lưu-chi truyền sang Việt Nam. Như vậy hệ Thiền tông Việt Nam phát 
      xuất từ tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi, là đệ tử của tổ Tăng Xán thứ ba ở Trung Hoa.
       
      Thiền tông 
      truyền sang Việt Nam, từ tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi lần lần tới Thiền sư Vô Ngôn 
      Thông, truyền mãi cho đến đời Trần. Như vậy Thiền tông truyền sang Việt 
      Nam có căn bản, có hệ thống hẳn hoi chớ không phải là chuyện vô căn cứ. 
      Các Thiền sư theo hệ tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi như Thiền sư Vạn Hạnh v.v… Ngoài 
      ra còn có các vị theo hệ ngài Vô Ngôn Thông cũng khá nhiều. Hai hệ này 
      truyền tới mười mấy hai chục đời.  
      Hiện nay có 
      một số người nghĩ rằng mình còn ở thế gian bận rộn, rất khó tu thiền. Tôi 
      xin dẫn một đoạn trong bài Cư Trần Lạc Đạo Phú bằng chữ Nôm của vua Trần 
      Nhân Tông, khi Ngài còn làm Thái thượng hoàng. Bài này có cả mười hội, ở 
      đây tôi chỉ lược dẫn mấy câu của hội thứ nhất: 
                  
      Mình ngồi thành thị, nết dùng sơn lâm. 
                  
      Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh, nửa ngày rồi tự tại thân tâm. 
       
                  
      Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí,  
                  
      Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. 
      “Mình ngồi 
      thành thị, nết dùng sơn lâm”, là thân đang sống giữa thành thị mà tư cách, 
      nếp sống giống như ở rừng núi. Tại sao? Vì ở giữa thành thị mà không dính, 
      không kẹt, không đuổi theo thì giống như ở núi rừng. Còn nếu người lên 
      rừng lên núi mà nhớ thành thị hoài, thì có gọi là ở núi rừng chưa? 
       
      “Muôn nghiệp 
      lặng an nhàn thể tánh, nửa ngày rồi tự tại thân tâm”. Nếu tất cả nghiệp 
      của mình lặng hết, không còn xao xuyến dính mắc nữa thì thể tánh được an 
      nhàn. “Nửa ngày rồi”, chữ rồi ở đây có nghĩa là rảnh rang. Nếu nửa ngày 
      rảnh rang là thân được tự tại. Bởi làm Thái thượng hoàng cũng còn làm việc 
      nửa thời gian, nửa ngày hướng dẫn con trị nước, an dân. Chỉ được nửa ngày 
      rảnh rang thôi. 
      “Tham ái nguồn 
      dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí”. Nếu dừng lòng tham rồi thì châu 
      yêu ngọc quí còn có giá trị gì? Châu ngọc có giá trị khi con người còn 
      lòng tham, nếu lòng tham hết rồi thì châu là châu, ngọc là ngọc, không có 
      gì quan trọng đối với mình.  
      “Thị phi tiếng 
      lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm”. Hai câu này nói Ngài ở trong cung 
      có bao nhiêu bà phi, bao nhiêu người hầu thị phi với nhau, mách thót đủ 
      thứ. Đối với tâm Ngài, đã dứt thị phi thì oanh ngâm hay là yến hót không 
      còn dính dáng gì để mà chỉ trích, khen chê cả. Như vậy ở giữa cảnh nào là 
      châu, là ngọc, nào là yến là oanh mà không dính dáng. Đó mới thật là Cư 
      trần lạc đạo. 
      Chúng ta ở 
      trong bụi trần mà vẫn vui với đạo, mới đúng tinh thần của người tu. Chớ 
      nói tu theo Phật phải cạo tóc vô chùa không hẳn là đúng. Chúng ta hiểu 
      Phật, ứng dụng tu ngay trong cuộc sống này mới là quí tốt. Đó là ý nghĩa 
      tôi muốn nêu ở đây.  
      Cuối bài Cư 
      trần lạc đạo phú, ngài Trần Nhân Tông kết thúc bằng bốn câu thơ chữ Hán: 
                  Cư 
      trần lạc đạo thả tùy duyên, 
                  Cơ 
      tắc xan hề khốn tắc miên. 
                  
      Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch, 
                  
      Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. 
      Ngài nói ở 
      giữa chốn bụi trần mà vui với đạo là hãy khéo tùy duyên. Tùy duyên bằng 
      cách nào? Đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ. Ai không đói thì ăn, mệt thì 
      ngủ. Nhưng tùy duyên có nghĩa là đói đến thì ăn, đừng đòi ngon đừng chê 
      dở. Mệt thì ngủ, đừng nghĩ chuyện hôm qua hôm kia. Chúng ta đi làm về đói 
      bụng, thấy mâm cơm không vừa ý thì chưa chịu ăn. Cho tới cơm vừa ăn rồi mà 
      thiếu một hai món phụ thuộc như chanh, ớt cũng chưa chịu ăn nữa. Đó là 
      không tùy duyên. Bởi vì chúng ta nhiêu khê quá thành ra không tùy duyên 
      được. Hai câu này chỉ cho chúng ta cách sống ngay trong cõi trần mà không 
      bận rộn, không khổ đau.  
      “Gia trung hữu 
      bảo hưu tầm mịch”, là trong nhà mình có của báu sẵn, tức chỉ cho tánh 
      giác. “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”, nghĩa là đối với cảnh không có tâm 
      dính mắc, chớ hỏi chi thiền.  
      Vậy ở đây Ngài 
      nói thiền là gì? Là khi đối với sáu trần tâm ta không dính, không mắc, 
      không đuổi theo. Không phải ngồi thiền mới tu, mà tất cả mọi sinh hoạt đều 
      tu hết. Chúng ta sinh hoạt mà vẫn khéo tu, đừng dính đừng nhiễm với sáu 
      trần, đó là hằng tu thiền. Vì vậy khi đi tu rồi, ở núi Ngài có làm bài kệ 
      Sơn phòng mạn hứng thế này: 
                  
      Thùy phược cánh tương cầu giải thoát, 
                  
      Bất phàm hà tất mịch thần tiên. 
                  
      Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão, 
                  Y 
      cựu vân trang nhất tháp thiền. 
      Dịch: 
                  Ai 
      trói lại mong cầu giải thoát, 
                  
      Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên. 
                  
      Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão, 
                  
      Như cũ vân trang một chõng thiền. 
      Ai trói buộc 
      mà tìm cầu sự giải thoát. Đúng với câu tổ Đạo Tín được tổ Tăng Xán chỉ 
      dạy. Chúng ta tu hầu hết để cầu giải thoát. Tại sao cầu giải thoát? Bởi vì 
      cho rằng mình bị trói buộc. nhưng khi hỏi cái gì trói buộc thì không biết. 
      Bây giờ ta nhìn thật kỹ, rõ ràng không có gì trói buộc mình, chính ta tự 
      tạo duyên để rồi tự trói buộc. Đã không ai trói buộc, thì cầu giải thoát 
      làm gì?  
      “Bất phàm hà 
      tất mịch thần tiên”, ta không phải là phàm thì cầu thần tiên làm gì. Nói 
      câu này nghe lạ quá, chẳng lẽ chúng ta là Thánh sao? Thật ra cái phàm của 
      chúng ta hiện giờ là cái phàm giả tạo, chớ thánh mới là tánh thật. Vì tánh 
      giác không đổi thay, còn phàm tình là mới huân tập. Nếu chúng ta bỏ phàm 
      tình này thì tánh giác hiện ra. Tánh giác hiện ra tức là Thánh rồi. Chúng 
      ta không phải là phàm, muốn cầu thành thần tiên để làm gì. Chỉ cần bỏ hết 
      những cái phàm đó đi là trở về gốc Thánh ngay.  
      “Viên nhàn mã 
      quyện nhân ưng lão”, là con vượn đã nhàn, ngựa đã mệt mỏi, người cũng già 
      nua. Tóm lại câu này ý nói rằng tất cả muôn vật đều luôn chuyển biến, vô 
      thường, không dừng ở một nơi. Nhưng “Y cựu vân trang nhất tháp thiền”, vẫn 
      như xưa ở vân trang còn một chõng thiền. Dù tất cả biến thiên hư hoại 
      nhưng vẫn còn một cái vẫn như xưa, không thay đổi. Tại sao chúng ta không 
      trở lại sống với cái không thay đổi đó?  
      Chúng ta tu 
      thiền cốt yếu là sống trở về với cái chân thật bất sanh bất diệt của mình. 
      Muốn trở về thì theo các cách thức như trên đã trình bày sơ lược. Tuy 
      nhiên, chúng tôi từng hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử tu tập thiền là theo chủ 
      trương của tổ Huệ Khả. Thế nên “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha 
      đắc” là phương châm, là kim chỉ nam của chúng tôi. Thường quay trở lại soi 
      xét mình là việc chính, không từ ngoài mà được. Đó chính là việc thiết yếu 
      nhất của hành giả tu thiền muốn được giác ngộ giải thoát vậy. |