GIÁO LÝ TỐI THƯỢNG
Giảng tại chùa
Linh phong - Thụy Sĩ 1994
Trước tiên
chúng tôi có lời thăm hỏi tất cả quí Phật tử. Tôi thật sự rất mừng khi
được biết Phật tử Việt Nam sống ở xứ người mà vẫn không quên cội nguồn gốc
gác của dân mình, nhất là vẫn còn để tâm đến Phật pháp. Nhiều người cứ
nghĩ Phật tử sống tại hải ngoại vật chất sung túc có lẽ sẽ quên tu, nhưng
không ngờ ngược lại Phật tử xa xứ còn ham tu hơn lúc ở nhà.
Tuy nhiên nói
về sự tu hành, tôi cũng chưa biết quí Phật tử tiến như thế nào, lợi ích
nhiều hay ít. Vì vậy hôm nay gặp gỡ lại quí vị, tôi cũng có vài lời nhắc
nhở trên bước đường tu hành. Quí Phật tử hiểu tu là làm sao? Ăn chay, đi
chùa, lễ Phật, tụng kinh phải tu chưa? Phải mà chưa phải. Có Phật tử bảo
tu là sửa tâm. Như tâm mình bị vọng tưởng dẫn dắt làm các việc tham sân
si, gây nghiệp không tốt. Bây giờ mình biết tu, sửa tâm lại cho hiền
thiện, sống đúng với Phật pháp. Như vậy là tu. Thật ra nói sửa tâm là mới
nói có một phần thôi.
Bây giờ tôi bổ
túc thêm. Tu là chuyển hóa những gì xấu dở trở thành hay tốt. Nói chuyển
hóa xác thật hơn nói sửa, vì tâm ra sao mà sửa. Chiếc xe hư sửa được, cái
nhà hư sửa được, còn tâm làm sao sửa. Cho nên chúng ta có thể dùng từ
chuyển hóa, nghĩa là chuyển từ xấu thành tốt. Nên nói tới tu là nói tới
chuyển hóa. Chuyển hóa từ lời nói, hành động, ý nghĩ của mình. Ngày xưa
chưa biết tu ta làm những điều dở, bây giờ biết tu rồi cái gì dở bỏ đi,
cái gì hay thì làm. Ngày xưa chưa biết tu khi vui mình nói lời thanh nhã,
khi buồn nói lời cọc cằn khó nghe. Bây giờ biết tu rồi hiểu lời nói khiến
cho người bực bội không tốt, nên mình chuyển, dù buồn bực cũng gắng kềm
lòng, nói lời nhẹ nhàng tao nhã, khiến mọi người mến thương. Ngày xưa chưa
biết tu, tâm niệm mình có khi nghĩ tốt, cũng có khi nghĩ xấu về người này
người nọ, bây giờ biết tu rồi ta chỉ nên nghĩ tốt cho người, những gì xấu
thì bỏ đi, không nghĩ ngợi lung tung.
Như vậy quí
Phật tử kiểm lại về thân, ta không làm gì cho người phiền. Về miệng ta
không nói gì cho người buồn. Về ý ta không nghĩ xấu cho ai. Người đó có dễ
thương không? Rất là dễ thương. Trong gia đình, người con biết tu như vậy
thì cha mẹ đâu có buồn giận, em út đâu có ghét. Tất cả mọi gia đình đều
biết tu hết thì thế gian biến thành thiên đường ngay. Cho nên việc tu có
lợi ích thiết thực cho cuộc sống của chúng ta, chớ không phải nói đi chùa,
tụng kinh lạy Phật là tu, như thế chưa đủ. Làm sao mình tu mà bản thân và
gia đình có hạnh phúc mới được. Có thế việc tu của chúng ta sẽ gây ảnh
hưởng tốt cho những người chung quanh.
Phật tử Việt
Nam xa xứ mà không biết thương yêu đùm bọc nhau, giúp đỡ khuyên nhắc nhau
tu hành, mà còn cự cãi này nọ đó là cái nhục của dân tộc. Còn nếu biết tu
chúng ta sẽ đem lại tiếng thơm cho dân mình cho xứ sở, khiến mọi người
phải kính nể, không dám xem thường. Rõ ràng tu là một điều kiện rất thiết
yếu dù chúng ta ở bất cứ nơi đâu.
Người biết đạo
tu theo Phật có hai trách nhiệm phải nhớ. Thứ nhất nhớ mình là người Phật
tử phải xứng đáng với danh hiệu con của Phật. Thứ hai nhớ mình là người
Phật tử Việt Nam không được làm xấu tổ tiên dân tộc mình. Ta không đem
tiếng tốt về cho quê hương xứ sở mà khiến cho người khinh chê, đó là một
lỗi rất lớn. Do đó quí Phật tử ở nước ngoài ráng tu sao cho có lợi ích cụ
thể trong đời sống của mình và mọi người. Chúng ta phải thể hiện cho người
nước ngoài thấy tinh thần dân tộc Việt Nam là biết đùm bọc, thương yêu
nhau và biết tôn trọng giá trị của tổ tiên mình.
Hồi xưa ở
Trung Hoa có một Thiền sư tên Ô Sào. Ô là con quạ, Sào là cái ổ. Vì Ngài
thường ngồi thiền trên chảng ba cây cổ thụ, xung quanh lót cỏ giống như ổ
quạ. Ngài tu đắc lực nên người trong nước đều mến phục. Hôm đó nhà thơ
Bạch Cư Dị nổi tiếng đời Đường tìm tới hỏi cương yếu của đạo Phật. Ngài
ngồi trên ấy đọc bài kệ:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự
tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Chớ làm các điều ác,
Vâng giữ các việc lành,
Tự
thanh tịnh ý mình,
Đó
lời chư Phật dạy.
Nghe bài kệ
ấy, Bạch Cư Dị cười nói:
- Bài kệ này
đứa con nít tám tuổi cũng thuộc.
Thiền sư nói:
- Tuy nhiên,
con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi làm chưa xong.
Nghe thế, nhà
thơ sực tỉnh lễ tạ Thiền sư.
Chư ác mạc
tác, chúng thiện phụng hành, tức là thân miệng của chúng ta không làm
không nói những điều ác, luôn luôn làm những điều thiện. Tự tịnh kỳ ý là
phải giữ ý trong sạch, thị chư Phật giáo, đây là lời dạy của chư Phật, chớ
không riêng đức Thích Ca. Nên biết những điều này là cương yếu của Phật
giáo. Song nghe thuộc thì con nít cũng làm được, mà hành thì ông già tám
mươi tuổi cũng chưa chắc đã rồi.
Người xưa muốn
nhắc chúng ta phải nhớ chuyển hóa thân miệng ý trở thành thiện tốt, đó là
gốc của sự tu. Chớ không phải ăn chay, tụng kinh niệm Phật là gốc. Nói vậy
không có nghĩa là phủ nhận ăn chay, tụng kinh, niệm Phật nhưng đó là công
phu khi ta rảnh rỗi mới thực hiện được. Còn căn bản của sự tu là phải
chuyển hóa nơi mình, làm sao cho ba nghiệp được thanh tịnh. Nếu quí Phật
tử ứng dụng trọn vẹn ba điều thân miệng ý đều trong sạch thì chẳng những
ngay nơi cuộc sống hiện tại được an vui hạnh phúc, mà lúc nhắm mắt cũng
thế. Trong kinh có câu “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây
phương”, nghĩa là ba nghiệp thường trong sạch, đồng với Phật về cõi Phật.
Như vậy tu có
lợi cả hai đời, hiện tại và cả vị lai. Chúng ta tu không có thiệt thòi cho
mình mà còn có lợi ích ngày nay và cả mai sau. Thế mà không chịu tu thì
uổng biết mấy. Tôi thường nói người tu là người biết lo xa. Thế gian
thường nói người khôn thì thấy xa hiểu rộng. Nếu chỉ thấy chuyện trước
mắt, không thấy xa hiểu rộng thì không gọi là người khôn. Thế thì có thể
nói người tu là kẻ dại được không? Chúng ta tu bản thân được tốt, gia đình
hạnh phúc và mai kia cũng được đi con đường lành. Lợi ích quá rõ ràng,
không nghi ngờ gì nữa.
Đến đây tôi
muốn nói sơ qua về giáo lý tối thượng trong đạo Phật, để quí Phật tử hiểu
rõ mục đích chúng ta tu để làm gì và tu như thế nào mới đúng. Trước tiên
tôi kể câu chuyện “Giáo lý Thượng thừa” trong cuốn Góp Nhặt Cát Đá của
người Nhật. Chuyện kể về một gã mù đi thăm người bạn thân. Gặp bạn anh nói
chuyện say sưa tới khuya mới về. Thấy trời tối, người bạn thân thắp cho
anh một cây đèn cầm đi, nhưng anh cười nói: “Với tôi đêm như ngày, ngày
như đêm anh thắp đèn làm gì mất công”. Anh bạn giải thích: “Anh không cần
đèn nhưng ban đêm trời tối có cây đèn, người khác thấy không đụng anh”.
Nghe có lý, anh liền cầm lồng đèn đi. Giữa đường có một người đụng vào anh
rất mạnh, giựt mình anh la:
- Anh không
thấy tôi sao?
Người kia bảo:
- Thưa bạn tôi
không thấy.
- Tôi cầm cây
đèn sao anh không thấy?
Người kia nói:
- Thưa bạn,
cây đèn của bạn đã tắt từ bao giờ.
Câu chuyện
dừng lại ngang đó. Chúng ta thử thử tìm hiểu xem nó muốn nói gì mà có tên
là “Giáo lý Thượng thừa”. Để giải thích ý nghĩa câu chuyện trên, tôi xin
kể thêm vài câu chuyện nữa, có thể nhân đó quí vị nhận ra ý chỉ của nó.
Câu chuyện
tiếp theo xuất phát từ Trung Hoa. Có một vị Thiền sư trước kia rất thông
hiểu kinh luật. Khi nghe ở phương Nam các Thiền sư nói “tức tâm tức Phật”,
Ngài không bằng lòng vì cho rằng theo kinh dạy người tu phải tinh tấn
trong vô số kiếp dẹp bỏ phiền não mới đạt được đạo quả. Nay nói “tức tâm
tức Phật” vô lý quá, ông không tin nên muốn đi về phương Nam dẹp hết bọn
ma nói “tức tâm tức Phật”.
Ngài bèn quảy
một gánh kinh Kim Cang đi về phương Nam tìm các Thiền sư để phá dẹp. Sáng
nọ đói bụng, gặp một bà già bán bánh, Ngài kêu bà già dọn cho ít món điểm
tâm. Bà già hỏi:
- Thầy đi đâu?
- Tôi tìm các
Thiền sư.
- Chi vậy?
- Để phá dẹp
vì họ dám nói “tức tâm tức Phật”, trái với đạo lý quá.
Nghe vậy, bà
già hỏi:
- Thầy quảy
gánh gì đó?
- Kinh Kim
Cang sớ sao.
Bà già nói:
- Bây giờ tôi
xin hỏi Thầy một câu, Thầy trả lời được thì tôi xin cúng dường bánh điểm
tâm, bằng không trả lời được thì xin Thầy quảy gánh đi chỗ khác.
Thiền sư đồng
ý. Bà già dẫn trong kinh Kim Cang hỏi:
- Phật dạy:
“Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả
đắc”, chẳng hay Thầy muốn điểm cái tâm nào?
Ngài nghe câu
hỏi đó thất kinh, không trả lời được, bèn hỏi lại bà già:
- Gần đây có
Thiền sư không?
Nhân đây bà
già mới giới thiệu Thiền sư Long Đàm Sùng Tín ở trên núi gần đó. Ngài trả
lời không trôi nên quảy gánh kinh đi thẳng. Vừa tới Long Đàm, Ngài để gánh
kinh xuống thì thấy ngài Sùng Tín ở trong đi ra, Ngài liền nói: “Ở xa nghe
danh Long Đàm, khi tới gần Long không hiện mà Đàm cũng chẳng thấy”. Long
là rồng, Đàm là đầm, ý muốn nói đến đây đầm chẳng thấy mà rồng cũng không
hiện.
Ngài Long Đàm
Sùng Tín trả lời:
- Như vậy thì
ông gần Long Đàm rồi.
Chỉ một câu
nhẹ xìu thế ấy mà Ngài giật mình xin ở lại học đạo. Một hôm tới phiên Ngài
hầu Thiền sư Sùng Tín. Thấy khuya quá, ngài Sùng Tín Ngài bảo:
- Đêm khuya,
sao không đi xuống?
Ngài liền vén
rèm bước ra ngoài thấy trời tối đen, nên trở vô thưa:
- Bạch Thầy,
ngoài kia tối đen.
Ngài Sùng Tín
đốt cây đèn đưa, Ngài mới vừa cầm Thiền sư liền thổi tắt. Ngay đó Ngài ngộ
đạo, sụp xuống lạy tổ Sùng Tín. Ngài Sùng Tín hỏi:
- Ông thấy đạo
lý gì mà đảnh lễ?
Ngài trả lời:
- Từ đây về
sau con không còn lầm đầu lưỡi của các Hòa thượng nữa.
Từ đó về sau
Ngài nổi danh là một trong các bậc long tượng đương thời. Ngài chính là
Thiền sư Đức Sơn.
Qua hai câu
chuyện trên chúng ta hiểu thế nào về giáo lý tối thượng? Trở lại câu
chuyện đầu, anh bạn thắp cây đèn cho người bạn mù đi khỏi bị người khác
đụng, nhưng khi bị đụng anh mù la: “không thấy tôi cầm cây đèn sao? Người
kia trả lời: “Thưa bạn, cây đèn của bạn đã tắt từ bao giờ”. Bao nhiêu đó
đủ để nói lên ý nghĩa sâu xa rồi. Khi chúng ta không ngộ được bản tâm,
không sáng được bản tánh của mình, người khác thương giúp cho chúng ta,
như kẻ mù được bạn cho cây đèn sáng mà trong tâm tối mò. Trong tâm đã tối
thì dù có phương tiện gì đi nữa, chúng ta cũng không giải quyết được cho
mình. Như kẻ mù kia tuy tay cầm đèn, tưởng lúc nào cũng cháy mà không ngờ
nó tắt tự bao giờ. Vì mù nên gã không thấy, nếu sáng thì không như vậy.
Cũng thế,
chính mình tối dù người khác có thương mình trao đèn cho, ta cũng không
dùng được. Người tu cốt phải sáng được tâm mình, chớ người ngoài giúp bao
nhiêu mà ta không sáng cũng khó đạt được lợi ích. Đó là ý nghĩa thứ nhất
của giáo lý thượng thừa, phải làm sao sáng tâm, cốt ngộ được bản tâm, chớ
không thể vin vào phương tiện bên ngoài cho là cứu kính.
Câu chuyện thứ
hai, ngài Chu Kim Cang đến với Thiền sư Sùng Tín. Vừa đến cổng nói tới đây
Long không thấy mà Đàm cũng không hiện, nghĩa là có ý chê. Nhưng ngài Long
Đàm chỉ nói một câu nhẹ thôi, “ông đã gần Long Đàm rồi”, tức là gần ta
rồi. Gần chỗ nào? Chúng ta tìm xem cái thâm trầm của nhà thiền ở chỗ nào?
Rồng là nói con vật, đầm để nói cảnh. Người thế gian do chấp ngã là mình
là người, chấp pháp là cảnh, hai thứ chấp đó là gốc của mê lầm. Một khi
thấy hai cái đó không thật thì đã thành Bồ-tát mất rồi. Cho nên nghe vị
tăng nói không thấy rồng, không thấy đầm, như vậy đồng nghĩa với không
thấy ngã, không thấy pháp chớ gì. Không thấy ngã, không thấy pháp tức đã
gần Thiền sư rồi.
Nghe thế, ngài
Chu Kim Cang mới giựt mình thì ra Thiền sư không phải là những người nói
rỗng. Lời của các Ngài ẩn chứa giá trị thâm trầm của sự tu, chớ không phải
lời rỗng, vì vậy Ngài mới xin ở lại làm đệ tử. Trước kia theo trong kinh
nói tu ba vô số kiếp mới thành Phật, nhưng nghe các Thiền sư nói “tức tâm
tức Phật”, Ngài bực quá, quyết tình phá dẹp. Đó là nhiệt tâm đối với Phật
pháp của Ngài. Nhưng khi được Thiền sư Long Đàm chiết phục, Ngài mới hiểu
lúc trước mình nghĩ sai, vì vậy bây giờ rất kính phục, mới ngộ lời dạy của
chư Tổ.
Đến giai đoạn
hai, một hôm Ngài đứng hầu Tổ thâu đêm, Tổ bảo xuống. Ngài bước ra ngoài
thấy trời tối đen, nên vào thưa “ngoài kia tối đen”. Đó cũng là tâm trạng
của Ngài còn tối đen, muốn cầu xin thầy chỉ dạy cho sáng lên. Tổ Sùng Tín
bèn cầm cây đèn trao cho. Ngài vừa cầm lấy, Thiền sư liền thổi tắt. Ngay
đó Ngài ngộ đạo. Trong nhà thiền dạy cho chúng ta biết, người thầy không
làm cho đệ tử sáng được, mà phải chính mình cố gắng nghiền ngẫm thấu đáo,
bỗng dưng phát sáng, chớ không do người khác mà được. Bởi những gì người
ta cho không phải là của mình thì ta không thể dùng được. Hiểu thế rồi,
chúng ta thấy các Thiền sư nói những câu lạ lùng nhưng rất thấu đáo, rất
thâm trầm, chớ không phải lời nói rỗng. Đó là điểm kỳ đặc của nhà thiền.
Ở Việt Nam,
Phật tử tụng kinh Pháp Hoa nhiều lắm. Trong kinh Pháp Hoa có phẩm Tùng địa
dũng xuất, đức Phật Thích Ca nói rằng: “Chư Bồ-tát hay các vị A-la-hán
phải cố duy trì kinh Pháp Hoa này trên thế gian, đừng để hoại diệt”. Có
một số Bồ-tát ở tha phương đến nghe thế rồi, đi nhiễu Phật ba vòng, quì
xuống chấp tay bạch:
- Bạch Thế
Tôn, chúng con xin nguyện bảo hộ những người trì kinh Pháp Hoa ở cõi này.
Đức Phật nói:
- Thôi đi, ta
không cần các ngươi.
Đức Thế Tôn
vừa dứt lời, bỗng dưng thấy quả đất rúng động, có vô số Bồ-tát từ dưới đất
vọt lên, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi quì xuống thưa:
- Chúng con
xin bảo hộ những người trì kinh Pháp Hoa ở cõi này.
Khi ấy, đức
Phật gật đầu:
- Được! Các
ngươi nên bảo hộ những người trì kinh Pháp Hoa.
Như vậy đức
Phật có kỳ thị Bồ-tát ở xứ khác không? Các Ngài đến xin bảo hộ người trì
kinh Pháp Hoa, Phật không hứa khả. Còn Bồ-tát ở dưới lòng đất vọt lên xin
bảo hộ thì Ngài chịu. Nhiều khi chúng ta tụng kinh Pháp Hoa mà thật ra
không hiểu gì về kinh Pháp Hoa.
Bồ-tát là hữu
tình giác, một chúng hữu tình đã giác ngộ. Trong nhà Phật có chia ra hai
thứ trí: hữu sư trí và vô sư trí. Hữu sư trí là trí do học mà được. Còn
tâm mình an định phát sinh trí tuệ đó gọi là vô sư trí. Hai trí này hết
sức quan trọng đối với người tu. Trong nhà Phật, người mới vào đạo Phật
dạy ba tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ. Ba tuệ này do học mà được nên là
trí tuệ hữu sư. Lúc đầu chúng ta không biết, phải nhờ thầy hướng dẫn. Sau
khi được thầy hướng dẫn rồi, ta bắt đầu tu theo ba môn giải thoát, tức là
giới, định, tuệ. Từ giới có đạo đức sanh thiền định. Do định tâm lóng lặng
trong sáng nên phát sanh trí tuệ. Trí tuệ đó từ sự tu của mình mà có nên
nó là trí vô sư. Đây mới thật là trí tuệ giải thoát.
Trí tuệ hữu sư
do thâu lượm từ ngoài được nên không phải thật của mình. Nói theo người
thế gian, chúng ta học môn này, môn nọ được bằng cử nhân tiến sĩ v.v... có
kiến thức rộng rãi. Nhưng với nhà Phật người tu phải bỏ hết các thứ kiến
thức ấy mới phát sinh được trí tuệ vô sư.
Có một Thiền
sư Nhật Bản nổi danh nọ được nhiều người đến hỏi đạo. Hôm đó một tiến sĩ
tới học thiền. Thiền sư rót nước mời khách, trong khi nhà học giả kia
huyên thuyên giới thiệu mình hết học vị tiến sĩ này tới học vị tiến sĩ nọ.
Thiền sư cứ bình thản rót nước, mặc dù chung nước đã tràn cả ra ngoài. Học
giả nọ vội ra dấu nhắc: “Thưa Thầy, nước đã đầy tràn, xin đừng rót nữa”.
Thiền sư nói: “Phải, đầy rồi mà thêm nữa là tràn. Cũng thế cái đầu của
Ngài hiện giờ đã đầy rồi, nếu học thêm nữa nó sẽ tràn”. Bởi vì ông ta giới
thiệu hai ba bằng tiến sĩ nghĩa là sở đắc quá nhiều rồi, như vậy học thêm
thiền nữa là tràn.
Học thiền hay
là học đạo giải thoát, không phải cái học do dồn chứa nhiều. Bởi người ta
thường tưởng tất cả những thứ họ dồn chứa là kiến thức của mình, thực sự
nó là của vay mượn, không phải của mình. Trí vay mượn nên thuộc tướng sinh
diệt. Hồi học thì nhớ, bỏ lâu liền quên, muốn nhớ phải ôn tới ôn lui hoài,
vì nó không phải thứ thiệt của mình. Đó gọi là trí hữu sư. Trí này không
có khả năng bảo vệ tri kiến Phật của kinh Pháp Hoa nói. Bồ-tát từ phương
xa đến, dụ cho trí từ bên ngoài lại, nó thuộc về tướng sanh diệt nên không
đủ tư cách bảo vệ tri kiến Phật. Còn Bồ-tát từ dưới đất vọt lên dụ từ thân
tứ đại này hiện ra tánh giác thực của mình. Đó là trí vô sư, trí này mới
đủ khả năng bảo vệ tri kiến Phật.
Trở lại đức
Phật Thích Ca, khi Ngài tìm học với các vị tiên nhân, Ngài thấy chưa đúng
sở nguyện của mình nên bỏ hết, tự tu khổ hạnh. Cuối cùng, khổ hạnh cũng
không có kết quả, Ngài bỏ luôn khổ hạnh, dùng sữa trở lại. Khi sức khỏe
phục hồi, Ngài tới cội Bồ-đề thiền định thâm sâu bỗng dưng trí tuệ sáng
ra, Ngài giác ngộ thành Phật, đầy đủ tam minh lục thông.
Khi chứng đạo
rồi Ngài nhìn trên không trung, thấy vô số hành tinh. Đó là những quả địa
cầu hoặc lớn hoặc nhỏ, như quả địa cầu chúng ta hiện đang sinh sống đây.
Nên trong kinh có những câu nói Phật thấy hằng hà sa số thế giới, nghĩa là
Phật thấy thế giới nhiều như cát ở sông Hằng bên Ấn Độ vậy.
Như vậy trí
tuệ của Phật siêu việt tất cả, tới bây giờ khoa học cũng chưa biết hết
những hành tinh chung quanh mình nữa, mà Phật đã thấy từ hơn hai mươi lăm
thế kỷ trước. Ngài còn có thể nhìn thấy vô số vi trùng trong một bát nước.
Cho nên Phật dạy các thầy Tỳ-kheo hồi xưa khi uống nước phải lấy đãy lọc
nước và tụng kệ “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”. Nghĩa
là Phật nhìn trong bát nước có bốn muôn tám ngàn vi trùng v.v…
Qua đó đủ thấy
vô sư trí vượt hơn tất cả những kiến thức do kinh nghiệm người trước trao
cho người sau. Trí vô sư là vô cùng vô tận có sẵn nơi chính mình, mà chúng
ta không biết, không quan tâm khai thác, lại lo tìm cầu những thứ sanh
diệt bên ngoài.
Chúng ta
thường nghe các vị tôn đức nói kinh Pháp Hoa là cao cả, là tối thượng
v.v... vì kinh này chỉ cho chúng ta tri kiến Phật sẵn có đó. Phàm phu ai
cũng có đầy đủ, chớ không phải chỉ riêng Phật Bồ-tát mới có. Nên trong
kinh Pháp Hoa có đoạn, nếu người nào chỉ chắp tay xá hay niệm Nam-mô Phật,
người đó cũng sẽ thành Phật. Bởi có tri kiến Phật sẵn, nên hướng về là
thành Phật ngay.
Như vậy chúng
ta đã hiểu tại sao tu Phật phải ngồi thiền. Điều này nếu không học, không
bao giờ chúng ta hiểu tầm quan trọng của nó. Bởi vì sáu căn ta thường
phóng chạy theo sáu trần: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chạy theo sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì thế ít khi nào ta thấy được mình, hiểu
được mình. Cứ hiểu cái bên ngoài, còn chính mình lại không biết gì. Như
quí Phật tử hiện diện ai cũng vỗ ngực xưng “tôi”, nhưng thử hỏi “tôi là
cái gì” thì không biết. Đó là điều rất đáng buồn.
Học đạo tức là
học Phật, học Phật tức là học mình. Thế thì ta phải tìm cho ra mình là cái
gì? Nhà Phật gọi phản quan tự kỷ, phải soi sáng lại chính mình. Biết được
mình rồi thì biết tất cả ở ngoài, còn không biết mình thì dù có biết ở
ngoài bao nhiêu đi nữa cũng là biết rỗng thôi, chớ chưa thực biết. Vì sao?
Vì trong nhà Phật nói con người là chánh báo, muôn vật bên ngoài là y báo.
Y báo là chỗ nương tựa, chánh báo mới là chủ. Cũng như chủ nhà quan trọng
hơn cái nhà vậy. Nhà xây dựng được, đập phá được, quan trọng nơi người
chủ.
Ngồi thiền là
cốt nhìn lại, tức soi sáng lại xem mình là cái gì, tìm cho ra con người
thật của chính mình, lắng hết tâm tư để thấy được con người thật ấy. Chừng
nào cái thật hiện ra chừng đó mới xong việc. Chúng ta cứ phóng ra ngoài
nên không biết mình. Bây giờ muốn biết mình phải làm sao? Phải nhìn lại,
soi sáng lại. Muốn soi sáng lại phải ngồi im lặng suy gẫm. Ngồi thiền có
nghĩa là phản quan, soi chiếu lại chính mình tìm ra con người thật, chớ
không phải ngồi chơi, hay ngồi để được khỏe mạnh.
Con người lăn
lộn trong sinh hoạt hằng ngày, hao tổn tinh thần, bây giờ ngồi lại cho
tinh thần sáng suốt, thì mới thấy biết được mọi thứ chính xác. Đức Phật
nhờ ngồi thiền mà được giác ngộ. Sau khi giác ngộ rồi, Ngài mới thấy tất
cả những thứ bên ngoài, từ đó dạy cho chúng ta tu. Cho nên ngồi thiền có
một ý nghĩa rất quan trọng. Người tu Phật mà không biết thiền định thì khó
mong phát sanh trí tuệ. Trí tuệ đã không sanh thì làm sao giác ngộ giải
thoát được?
Người tu Phật
không bao giờ hài lòng hay thỏa mãn với chút ít công đức hữu vi. Bởi vì
tất cả những thứ đó đều là tướng sinh diệt, chưa phải là cái bất sanh bất
diệt, chưa phải trí vô sư sẵn có của mình. Cái thấy biết Phật sẵn nơi
mình, tự ta phát ra chớ không phải ở đâu đến được. Chúng ta tu cốt khai
thác trí tuệ sẵn có đó. Trong kinh Pháp Hoa Phật thường nói chúng ta có
hạt minh châu sẵn trong chéo áo nhưng vì say rượu nên quên mất, thành ra
có châu mà không dùng được, phải chịu làm kẻ ăn mày lang thang khổ sở. Chỉ
chừng nào nhận ra hạt minh châu trong chéo áo, cầm trong tay rồi, sử dụng
được hạt minh châu chừng đó mới thành người giàu sang sung sướng.
Chúng sanh khổ
gốc tại mê, như có hạt châu mà quên, quên tức là mê. Từ cái mê đó mà chạy
đuổi bên ngoài, bỏ đi của báu nhà mình. Giờ được nhắc thì ta phải nhớ lấy
hòn ngọc báu ta dùng, chớ được nhắc mà không chịu lấy ra dùng thì có cũng
như không, được lợi ích gì. Thiện tri thức là người có bổn phận nhắc cho
chúng ta nhớ, chớ không phải làm cho mình. Mỗi người phải tự nhận tự dùng,
không ai thế cho ai được cả.
Hình ảnh
Bồ-tát Thường Bất Khinh suốt đời đi đâu, gặp ai Ngài cũng bái nói: “Tôi
không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật”, đó là nhắc cho
chúng ta nhớ mình có tánh Phật sẵn. Xoay trở lại nhận ra tánh giác ấy thì
thành Phật tức thì, chớ có gì lạ. Nên biết kinh Pháp Hoa cốt giúp cho
chúng ta thấy biết được mình có khả năng thành Phật, có sẵn tri kiến Phật
chớ không ai thiếu hết.
Trì kinh Pháp
Hoa là sống lại với Tri kiến Phật của mình chớ không phải trì chữ, trì
nghĩa. Nhưng đa số Phật tử bây giờ cứ tụng trì trên chữ nghĩa thôi. Tụng
kinh tính bộ, vì vậy muốn được nhiều bộ phải ráng gõ mõ tụng cho mau để
tính sổ với Phật. Thật đáng buồn cười! Người thâm nhập, hiểu thấu rồi
không bao giờ trì tụng kinh như vậy. Bao nhiêu kinh điển Phật dạy cốt khai
thác cái thật nơi mỗi con người, làm sao cho chúng ta khơi dậy được trí vô
sư của mình. Khai dậy được trí đó mới giác ngộ. Ý nghĩa kinh Phật thâm
trầm như vậy, mà chúng ta lại làm lệch lạc quá nhiều, thật là có lỗi với
chư Phật, Bồ-tát.
Một điều quan
trọng nữa là Phật tử đến với đạo Phật chỉ có lòng tin. Tin Phật, tin quí
thầy mà chính mình chưa nhận ra được cái chân thật thì niềm tin ấy không
khéo sẽ trở thành mù quáng. Cho nên việc tu là quan trọng hơn cả, càng tu
chừng nào thì càng sáng chừng ấy. Chúng ta tu tới lúc nào nhận ra cái chân
thật nơi mình thì niềm tin mới kiên cố. Tin như vậy gọi là tự tín, còn chỉ
tin ở Phật ở thầy thôi, chưa phải là niềm tin chắc thật.
Làm sao để tin
nơi mình có cái chân thật? Tôi tạm mượn các câu chuyện trong nhà thiền để
nói về điều này. Có một cư sĩ hỏi Thiền sư Nam Tuyền:
- Bạch Hòa
thượng, có người nuôi con ngỗng trong một cái bình. Con ngỗng lớn dần đầy
hết cả bình, bây giờ làm sao đem con ngỗng ra mà đừng đập bể cái bình. Xin
Hòa thượng đem ra giùm.
Ngài Nam Tuyền
bèn gọi:
- Đại phu!
- Dạ.
Thiền sư nói:
- Ra rồi.
Cư sĩ liền lễ
tạ. Dễ như trở bàn tay vậy. Đó là câu chuyện thứ nhất.
Câu chuyện thứ
hai trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật kể lại chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt
Đa. Một buổi sáng anh cầm gương soi mặt, thấy mặt mũi mình đàng hoàng.
Xong anh úp gương xuống thấy mặt mũi đâu mất, anh hoảng ôm đầu vừa chạy
vừa la: “Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi”.
Trong nhà Phật
thường chỉ cho chúng ta cái chân thật ấy nhưng không nói thẳng. Người
không có căn khí nhạy bén ít khi nhận ra được. Như câu chuyện con ngỗng
nuôi trong bình. Bình là dụ cho thân tứ đại, con ngỗng dụ cho tâm của
mình. Hai cái này không tách rời nhau, nên nói con ngỗng lớn bằng cái
bình. Cái bình vô tri, con ngỗng có tánh biết, nhưng làm sao đem nó ra?
Ngay nơi cái vô tri này, chúng ta nhận ra được cái tri giác, tức tâm thể
sáng suốt của mình, nên Thiền sư Nam Tuyền chỉ gọi tên, cư sĩ dạ, Ngài nói
ra rồi. Nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chúng ta đều có sẵn tri kiến
Phật, nhưng ta không bao giờ sống với nó. Khi gọi liền dạ, tức chỉ cần
chạm đến liền ứng, đâu từng vắng thiếu bao giờ. Vì vậy phải ngay nơi mắt,
tai, mũi, lưỡi… mà nhận lấy cái chân thật nằm sẵn nơi cái sanh diệt. Đó là
tất cả những gì chư Phật và Tổ sư muốn chỉ bày cho chúng ta.
Trong kinh
Lăng Nghiêm, Phật chia ra hai thứ: chân tâm và vọng tâm. Vọng tâm là tâm
lăng xăng phân biệt chợt có chợt không, còn chân tâm là tâm hằng hữu của
chính mình không bao giờ vắng thiếu, đó là cái biết luôn nằm sẵn nơi sáu
căn của chúng ta. Nhưng vì mê lầm chúng sanh chỉ nhận những nghĩ suy là
tâm, thành ra quên mất tâm chân thật. Thấy biết phân biệt theo tâm suy
nghĩ nên sanh khen chê tốt xấu, đủ chuyện thị phi, theo đó mà tạo nghiệp
không cùng. Giống như anh chàng Diễn Nhã đạt đa chấp bóng trong gương mà
quên cái đầu thật. Vì vậy ôm đầu thật chạy kêu mất đầu. Phật nói chúng
sanh quên mình theo vật cũng như vậy.
Chúng ta luôn
luôn quên mình, cứ chạy theo cảnh vật bên ngoài, thành ra điêu đứng khổ
sở. Cả thế gian đều như vậy, chỉ biết cái bên ngoài mà không nhớ lại mình.
Chúng sanh mê lầm thật không thể tưởng tượng nổi. Bởi vậy đức Phật bắt
mình ngồi lại, quên cái bên ngoài để nhận ra cái thực của mình, đó là việc
làm hết sức quan trọng. Cho nên mục đích của người tu Phật là phải nhận
cho ra bản tâm chân thật bất sanh bất diệt của mình, ngoài ra không có
việc gì quan trọng hơn nữa. Giáo lý tối thượng của chư Phật cũng không gì
hơn một bản tâm ấy. Hiểu như thế chúng ta mới vạch cho mình một phương
hướng tu hành đúng đắn.
Giáo lý nhà
Phật quá thâm sâu, nên người thường nghe không hiểu cho rằng đạo Phật có
màu sắc huyền bí. Thật ra đạo Phật hết sức thực tế. Chúng ta là những kẻ
vô lý với bao nhiêu là suy nghĩ tính toán. Nghĩ, tính là tôi, tôi đang
nghĩ tôi đang tính, bất thần không nghĩ không tính liền la hoảng “tôi đâu
mất rồi”. Không ngờ chính cái không suy nghĩ tính toán mà thường thấy nghe
hiểu biết rõ ràng ấy là cái chân thật của mình. Bởi vậy chúng ta cứ theo
bóng dáng, bám vào bóng dáng cho là tâm mình, thành ra mất mình.
Ta đang sống
với tâm hiện hữu không vắng lúc nào mà lại chạy đi tìm nó trong cái hư giả
bên ngoài. Vì thế cả đời lăng xăng lộn xộn, tạo không biết bao nhiêu thứ
nghiệp trầm luân trong sanh tử. Phật dạy chỉ cần lặng tâm vọng xuống thì
tâm chân thật hiện tiền, không đợi ở đâu tới. Chính khi đang lăng xăng nó
cũng hiện hữu, chớ không vắng mặt nhưng vì ta chạy theo cái lăng xăng nên
không nhận ra được.
Chỗ này tôi
tạm dùng một ví dụ, như tôi đang ngồi trong thất. Lúc có các Phật tử tới
đông đảo, tôi biết lúc này đang có khách. Khi quí Phật tử đi về, trước mắt
tôi chỉ có khoảng không trống vắng thì tôi sẽ nói lúc này không có khách.
Thấy có khách, thấy không khách là chủ nhà thấy. Chủ nhà lúc nào cũng có,
chỉ khách mới khi có khi không. Cũng vậy, khi suy nghĩ ta biết mình đang
suy nghĩ, khi không suy nghĩ ta cũng biết mình không suy nghĩ. Biết có
nghĩ, biết không nghĩ là mình biết chớ ai. Còn suy nghĩ là đối tượng bị
biết, thì nó đâu phải là mình. Như vậy nhận khách làm chủ là quên mất ông
chủ thật rồi.
Cho nên hiểu
đạo mới thấy giá trị của kinh Phật, giá trị của người tu. Nếu không chúng
ta cứ tưởng tu là tìm chút ít công đức để dành đời sau hưởng, không nghĩ
tới cái cao siêu hơn mà thế gian đang quên mất. Nên Phật nói tất cả chúng
sinh đều đáng thương là vậy. Dù người giàu mấy, học giỏi mấy mà không nhận
ra được mình cũng đều đáng thương cả.
Mong tất cả
Phật tử nhận hiểu mục đích tu Phật của mình. Từ đó thấy được giáo lý nhà
Phật là tối thượng, giải quyết vấn đề then chốt của con người là giải
thoát sanh tử. Có vậy việc tu của chúng ta mới có ý nghĩa và giá trị thiết
thực. |