NGƯỜI LEO NÚI
Thường
Chiếu - 1987
Đề tài tôi nói
hôm nay có tên hơi dài một chút Người tìm leo núi chỉ có bản đồ, không
người hướng dẫn. Trong đây tôi chia làm sáu mục:
1. Học bản đồ:
Ở đây nói
người tìm leo núi vì chưa bao giờ họ thấy núi, nên khao khát muốn thấy
ngọn núi, leo tận tới đỉnh để thỏa mãn sự mong muốn của mình. Nhưng vì ở
đồng bằng không có núi, cũng không có người hướng dẫn, chỉ có tấm bản đồ.
Nương theo bản đồ và được một người giảng cho họ biết vị trí của ngọn núi
cách thành phố bao xa, ở tỉnh nào v.v… Tuy nhiên, người giảng ấy cũng chưa
chắc đã leo tận đỉnh núi, nhiều khi họ học trong sách vở, bản đồ rồi giảng
cho người chưa học nghe. Sự thật bản thân họ cũng chưa từng leo núi lần
nào.
Tôi tạm thí dụ
cụ thể như một người ở miền Tây, nghe nói ở Vũng Tàu có hai ngọn núi, một
là núi lớn, hai là núi nhỏ. Nghe vậy, họ ước mơ làm sao ra Vũng Tàu leo
lên tận ngọn núi lớn, tận ngọn núi nhỏ để nhìn ra biển cho thỏa lòng khao
khát. Khi đó gặp người có sẵn bản đồ, họ giảng cho biết nếu ở miền Tây
muốn đi ra Vũng Tàu leo núi, thì phải đi từ miền Tây lên thành phố, rồi từ
thành phố đi ra Vũng Tàu… Giảng rõ như vậy, người kia chịu khó học, nhưng
khi đi nếu không có người hướng dẫn thì phải đem theo tấm bản đồ. Vừa đi
vừa dọ dẫm, đó là chặng thứ nhất của người leo núi.
2. Nhắm đúng hướng:
Người leo núi
tuy có sẵn bản đồ trong tay, nhưng không có người hướng dẫn, nếu biết nhắm
đúng hướng thì không sợ lạc đường. Ví dụ từ miền Tây lên thành phố, tới
cầu Bình Điền lên dốc cao nhìn về hướng Đông Nam, thấy có những ngọn núi
xanh xanh xa tí mù, họ bảo đó là núi Vũng Tàu. Khi xe xuống dốc hết thấy
núi, lại phải chạy vô thành phố, qua bao nhiêu ngã ba ngã tư, nếu không
khéo họ sẽ bị lạc. Cho nên tuy có một lần thấy núi nhưng chưa chắc đi được
tới núi.
3. Kiên nhẫn:
Khi ra khỏi
thành phố đi thẳng về Vũng Tàu mà không lạc, đó là có duyên phúc lắm. Tới
khoảng gần Bà Rịa thì thấy rõ núi Vũng Tàu, không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy
thấy rõ núi nhưng với vị trí của họ còn cách mấy chục cây số nữa mới tới,
chớ không phải thấy là tới liền. Thấy rõ mà còn phải qua mấy chục cây số
nữa mới tới núi, đó là chặng thứ ba.
4. Tới chân núi:
Xe chạy tới
chân núi rồi, khi đó họ phải xuống xe, đi bộ thẳng tới chân núi. Lúc này
tuy đã đứng dưới chân núi, nhưng vẫn chưa leo lên núi. Cho nên chuyện tới
đỉnh còn phải qua nhiều giai đoạn, đòi hỏi sự cố gắng của người leo núi.
5. Nỗ lực leo núi:
Bây giờ bước
sang giai đoạn nỗ lực leo núi. Từ dưới chân leo lên tới đỉnh núi, phải đổ
mồ hôi ướt áo mới tới được. Trên đường càng phải theo dõi sát với bản đồ
để không lạc đường. Bởi trên núi cây rừng um tùm chắn lối rất khó đi, lại
thêm nhiều đường mòn quanh co, không khéo người leo núi sẽ loanh quanh lẩn
quẩn mãi không tiến lên được. Vượt qua hết những chướng ngại ấy là leo lên
tới đỉnh núi, thấy trời biển bao la, cảnh trí tươi mát, thỏa mãn được
nguyện vọng bấy lâu nay. Đây là giai đoạn hoàn tất quá trình leo núi.
6. Tới đỉnh núi:
Tới được chót
đỉnh rồi, tận hưởng gió mát trong lành, mây nước thênh thang, cảnh vắng
lòng yên, không ồn ào náo nhiệt bụi bặm như dưới thành thị, mới thích thú
làm sao! Khi hưởng được sự an lạc như thế, chợt nghĩ đến nhiều bạn bè
người thân muốn được leo núi như mình. Vì vậy người này trở xuống núi, trở
về hướng dẫn bạn hữu cùng ra Vũng Tàu, leo núi với họ.
Đó là sáu
chặng đường tôi nói về “Người tìm leo núi chỉ có bản đồ, không người hướng
dẫn”. Bây giờ hợp pháp, học bản đồ dụ cho người tu Phật chúng ta. Ai tu
Phật cũng đều nghĩ tới mục đích cuối cùng là giải thoát sanh tử. Muốn giải
thoát sanh tử thì phải nhận ra nơi mình có pháp thân bất sanh bất diệt.
Kinh Hoa Nghiêm gọi là ngọn núi Diệu Phong. Như vậy đầu tiên chúng ta phải
học bản đồ, học về vị trí ngọn núi đó ở đâu. Đó là lúc chúng ta bắt đầu
học kinh, để biết người tu muốn tiến tới giải thoát phải thế nào? Hiểu
cho rõ biết cho rành đó là chặng thứ nhất.
Đến chặng thứ
hai học kinh rồi, đã nắm vững bản đồ, mình còn biết hướng tu, tức hướng đi
đúng. Bởi đúng nên bỗng dưng có một phút giây nào đó mình lóe sáng lên.
Khi lóe sáng dụ như người lên dốc cầu Bình Điền nhìn xa xa thấy núi Vũng
Tàu. Thấy thì thấy nhưng trên đường đi còn rất xa, có thể mình sẽ bị lạc
lối nếu không cẩn thận. Chỗ này chúng ta cần lưu ý. Nhiều người tự sáng,
rồi tưởng sáng đó là xong, nhưng không ngờ còn xa vời lắm. Bởi trên đường
có nhiều khúc quanh nhiều lối tẽ, cần phải dè dặt chớ không thể thấy như
vậy là xong việc. Thấy núi mà chưa chắc là đến núi được.
Tới chặng thứ
ba là đứng nơi chỗ trống, như ở Bà Rịa nhìn qua núi Vũng Tàu thấy núi rất
rõ. Tuy thấy rõ nhưng vẫn còn cách núi một khoảng. Cũng vậy, khi tu công
phu khá ta nhận ra nơi mình có cái chân thật không còn nghi ngờ, như người
đã thấy núi trước mắt. Trong nhà thiền gọi đây là kiến tánh, tức thấy rõ
mồn một cái mình cần thấy. Ở đây nói “thấy” là tôi tạm dùng chữ, chớ đúng
ra là nhận được không nghi ngờ gì nữa. Như người đứng xa vài chục cây số
thấy rõ chót núi, đường lên núi có những tảng đá hay cây xanh. Thấy rõ
nhưng chưa phải đến núi. Người tu kiến tánh chỉ được không còn nghi thôi,
chưa phải rồi việc.
Tới chặng thứ
tư, đến chân núi mà chưa leo lên núi. Chúng ta tu nhận ra được bản tánh
chân thật của mình không còn ngờ vực gì nữa, nhưng công phu chưa xong. Bây
giờ phải cố gắng tiến tu, hôm nào công phu tạm được, giống như người đã
đến dưới núi. Chân đạp trên những hòn đá dưới chân núi, chớ chưa phải đến
chót núi. Như vậy cũng chưa xong, còn phải leo lên tận chót núi. Cũng thế,
chúng ta tu khi thấy được nơi mình có cái chân thật không ngờ vực và sống
được với nó phần nào, gọi là người đã đạp trên đất thật, nhưng chưa phải
rồi việc, còn công phu thêm một giai đoạn khá mệt nữa mới được.
Tới chặng thứ
năm là leo đến đỉnh núi. Từ khi đạp được đất thật rồi, mình biết rõ công
phu đã tiến không lầm, nhưng không dừng ngang đó mà phải cố gắng nỗ lực
hơn. Mọi thứ phiền não vi tế đều gột sạch, tâm hoàn toàn thanh tịnh sáng
suốt, giống như người leo đến đỉnh núi. Bấy giờ sở nguyện đã mãn, trong
nhà thiền gọi là nhập Phật quốc, tức mục thứ chín trong mười mục chăn
trâu. Song nếu ta hài lòng ở đó, mặc tình ngắm mây ngắm biển, như vậy chỉ
lợi cho mình, còn bao nhiêu bạn bè thân thuộc ao ước được như mình, mà
chưa có cơ hội. Vì vậy tới đây phải tiến thêm một chặng nữa.
Chặng thứ sáu,
từ trên chót núi ta trở xuống, dẫn bạn bè cùng leo núi với mình. Giai đoạn
này chỉ cho người khi đạt đạo rồi, phiền não hết sạch thì trở lại trong
bụi trần dìu dắt hóa độ chúng sanh. Đó là mục thứ mười của mười mục chăn
trâu.
Công phu tu
tập cho đến chỗ cứu kính viên mãn phải trải qua nhiều giai đoạn như thế.
Bởi vậy chúng ta mới hiểu chư Tổ khi ngộ đạo rồi, các ngài cũng phải mấy
mươi năm ở yên một chỗ để thực hành công phu cho xong. Trên đường tu chúng
ta chớm thấy một hai cái sáng, tưởng đó là đủ thì lầm. Phải tới chặng thứ
sáu mới vuông tròn, mới xong bổn phận.
Tôi mượn hình
ảnh “người tìm leo núi, chỉ có bản đồ không người hướng dẫn” để dụ cho sự
tu hành của chúng ta. Hiểu rõ như thế mình mới không lầm lẫn, chớ nhiều
khi người có bệnh tự mãn, tu chưa đến nơi mà đã cho là xong việc. Đó là
tai hại khiến công phu mình lui sụt, do đó trên đường tu tất cả phải cẩn
thận.
Nhân tiện đây,
tôi nhắc nhở cho Tăng Ni nắm rõ tinh thần tu tập của Thiền viện. Bởi vì có
hai trường hợp thường xảy ra: Thứ nhất, những vị ở Thiền viện lâu quá thì
sanh lờn, quên mục tiêu ban đầu của mình nên tu hành giải đãi. Thứ hai,
một số vị mới tới, ít có cơ hội nghe chúng tôi giải thích kỹ, nên không
nắm vững tinh thần tu học của Thiền viện. Do đó hôm nay tôi nhắc lại cho
người cũ nhớ thêm, người mới hiểu rõ tinh thần tu học ở Thiền viện.
Trước kia bản
thân tôi đã từng học qua trường lớp của Phật giáo, cũng đã từng dạy từ
tiểu học, trung học cho tới cao học Phật giáo. Nhưng tại sao tôi lại không
chủ trương mở lớp dạy giáo lý cho Tăng Ni Phật tử hiểu đạo, mà lại chủ
trương lập Thiền viện để tu? Đó là chỗ tôi muốn nói cho tất cả Tăng Ni
hiểu rõ.
Bởi vì sau khi
qua những trường lớp, tự bản thân mình học rồi dạy người khác học, tôi
thấy rất rõ những ưu khuyết điểm của việc này. Trong nhà Phật có tam tuệ
học là Văn, Tư, Tu. Văn tuệ và Tư tuệ là hai yếu tố đầu, nếu người nào
muốn hiểu đạo Phật phải bắt đầu từ đó. Văn tức là nghe, nghe có nghĩa là
học. Cho nên ở thế gian người ta dùng từ đa văn tức là học rộng. Chữ văn
có nghĩa là học, nhưng không phải học để trả bài mà còn phải suy gẫm nữa.
Bởi lời Phật dạy không đơn giản như những môn học thế gian, chỉ cần học
thuộc lòng công thức đó mình có thể làm được những bài toán.
Ở đây, học rồi
phải suy gẫm mới hiểu. Ví dụ Phật dạy chúng ta phải quán các pháp vô
thường. Nói các pháp vô thường ai cũng hiểu, nhưng muốn thâm nhập nó, ta
phải quán như thế nào? Đầu tiên là quán thời gian. Một ngày vừa thức giấc
chúng ta thấy sáng rồi tới trưa, chiều, tối. Ngày nay chuyển biến như vậy,
ngày mai cũng chuyển biến như vậy, thời gian không dừng ở một điểm nào
hết, nên nó vô thường. Chỉ biết thời gian vô thường thôi chưa đủ, phải xét
tiếp thời gian vô thường đó có ảnh hưởng đến con người chúng ta không?
Con người sanh
ra, lớn lên, từ thiếu niên thành thanh niên rồi tới trung niên, lão niên,
cứ nối tiếp thay đổi chớ không ai ở mức thiếu niên hay trung niên hoài.
Như vậy, con người cũng bị thời gian chi phối. Thời gian là một dòng
chuyển biến vô thường, bản thân chúng ta cũng là một dòng chuyển biến vô
thường. Đến sự vật cũng thế, như ta trồng cây, lúc mới trồng là cây con,
lần lần cây lớn lên rồi tới già, tới rụi và cuối cùng cây chết. Chúng ta
nhìn tất cả sự vật đều như thế.
Quán cho thật
thấu đáo rồi, mới thấy con người đang sống trong sự xê dịch vô thường. Từ
ngoại cảnh cho tới bản thân, luôn luôn chuyển biến không dừng. Xét kỹ như
thế, mình mới thấy Phật nói lý vô thường thật hay, thật chí lý. Chớ chỉ
nói suông vô thường là thay đổi, không có sự suy tư của mình, thì chưa thể
thấu đáo được lý vô thường.
Khi đã biết
thân vô thường, cảnh vô thường, thì có gì để tham? Con người tham vì nghĩ
cái mình thích còn mãi, nay đã biết nó là vô thường, thì tham chi nữa. Do
thấy được lẽ thật ấy nên lòng tham tự nhiên giảm, đó là tu rồi. Hoặc khi
nghe ai vừa chửi mình một câu, ta nổi giận liền nhớ thân này mai mốt cũng
chết, giận mà chi? Nhớ thế thì bớt giận. Còn mình nói tôi đường đường như
vầy mà dám chửi hả, đó là ngã mạn, tức nhiên lòng sân tăng trưởng. Cho nên
Tư tuệ là thấy được chân lý từ chính sự suy gẫm của mình tức là thấy được
lẽ thật, tu mới dễ.
Người tu do
tưởng tượng sẽ không tu được lâu dài, vì tưởng tượng đâu có đúng sự thật.
Ví dụ người thế gian thấy quí thầy có vẻ thong thả, tới lui tự tại không
có ràng buộc gì hết, nên nghĩ ở trong chùa chắc sướng? Tưởng tượng như thế
liền xin vô chùa. Khi đã vô chùa, thấy sao cũng có nhiều điều phiền toái,
mất tự do, không được như ý, lại nghĩ không chừng ra ngoài sướng hơn. Đó,
cứ như vậy mà đổi chỗ hoài, nhảy vô nhảy ra lăng xăng lộn xộn cả đời không
đi tới đâu hết. Cho nên khi tu là phải suy gẫm cho thật đúng lý Phật dạy.
Hiểu tột lý rồi việc tu mới dễ tiến.
Lý vô thường
đơn giản nhất, cụ thể nhất, hiểu được cho đến nơi là chúng ta tu cũng đã
khá rồi, huống nữa là thấu triệt lý nhân duyên, lý vô ngã v.v… hay biết
chừng nào. Thế nên bước đầu của người tu, Phật dạy phải văn. Văn tức là
nghe, học, kế đó phải tư. Học không chưa đủ mà phải suy gẫm. Nên học là để
tu chớ không phải học suông. Vì vậy trong nhà Phật có vô lượng pháp môn là
tùy theo căn cơ tu tập của chúng sanh khác nhau mà có. Mỗi một pháp môn
tức là một lý thật Phật dạy cho mình thấy, thấy được lý thật đó là có được
một pháp môn tu. Quán vô thường là một pháp môn, quán nhân duyên là một
pháp môn v.v… Cho nên học để tu, đó chính là tinh thần của Thiền viện.
Tăng Ni ở các
Thiền viện học mấy năm cũng không có lên lớp. Học mười năm, hai mươi năm
cũng cứ học để hiểu, hiểu để tu, chớ không có phát bằng cấp nào cả. Chúng
ta nhớ hồi thời đức Phật, có tiểu học, trung học, đại học gì đâu? Khác
chăng là người tu chưa chứng và người đã chứng thôi. Chưa chứng gọi là
hàng hữu học, đã chứng gọi là hàng vô học. Thành ra học đạo mà còn kẹt cấp
bằng là một chuyện hết sức đáng buồn.
Chính những
năm tôi từng chấm thi, tôi rất buồn, vì thấy dường như người lớn gạt kẻ
nhỏ. Bởi học rồi tới thi, cả năm bài vở nhiều quá làm sao nhớ hết. Mà thi
thì tâm trạng Tăng Ni sinh luôn luôn sợ rớt. Rớt thì không được lên lớp
nữa, thành ra họ phải cố gắng làm sao cho đậu. Nếu không thuộc bài phải
tìm cách làm bài được, cách đó là cách gì? Là nhét tài liệu vô túi, vô
cặp, chép lên bàn để quay. Như vậy người học đạo để tu, mà bây giờ lại
thành mưu đồ gian lận, còn gì ý nghĩa của sự tu hành nữa! Chính điều này
làm tôi hết sức đau lòng. Mình dạy là để người ta tu, bây giờ vô tình mình
tạo điều kiện cho người ta gian lận, tức là hết tu rồi. Vì thế thời gian
dạy học các trường, các lớp, tôi cảm thấy rất buồn. Tôi không thích điều
đó. Tôi muốn làm sao người học đạo, thật sự thuần túy là học đạo, chớ
không kẹt danh, kẹt lợi như thế.
Do đó tôi
thành lập Thiền viện, bắt Tăng Ni học thì cứ lên lớp học. Hiểu thế nào
trình bày lại cho đại chúng nghe thế ấy, trao đổi kinh nghiệm tu tập thêm.
Mấy năm cũng như mấy năm, cứ học tới hoài, không nói năm nay vị đó đã mãn
cấp trung học, sẽ thi tuyển cấp đại học v.v… Học Phật để hiểu giáo lý cho
thâm sâu rồi tu. Mà muốn hiểu giáo lý thâm sâu thì phải Tư, không Tư thì
không hiểu sâu được. Chúng ta nhớ trong kinh Phật thường hay dạy các thầy
Tỳ-kheo thường phải tìm nơi vắng vẻ, ngồi dưới cội cây để suy tư, hay là
chánh tư duy những pháp Phật dạy. Nhờ tư duy đó mà các thầy hiểu sâu.
Tôi thấy một
số thầy ngày nay rất đáng buồn. Học xong rồi nhóm lại nói chuyện bên Đông
bên Tây, không tư duy gì hết, do đó không thấm, không thưởng thức được
pháp vị chân thật của Phật dạy. Học lối trả nợ, rảnh ngồi nói dóc với
nhau, rồi cười giỡn, không để phút giây nào yên tĩnh ngồi suy tư, bao giờ
mới thấu hiểu lời Phật dạy. Không hiểu Phật dạy thế nào nên cũng không
biết ứng dụng tu ra sao. Thử hỏi như vậy có đáng buồn không? Bây giờ ngoài
thời gian lao động ra, khi nào rảnh, thiếu gì những gốc cây, cây đào, cây
tùng, cây vú sữa… Có rất nhiều chỗ ngồi, mấy huynh đệ ngồi một mình gẫm
lại những lời Phật dạy. Gẫm như vậy gọi là suy tư, thấu hiểu thật chí lý
lời Phật dạy, mới thấy hay.
Tôi ngày xưa
lúc ở chùa Phật Quang được học kinh Lăng Nghiêm. Học rồi tôi suy gẫm thấy
quá hay. Những buổi khuya tôi thường dậy trước giờ thức chúng, ngồi học
một mình. Đọc xong đoạn kinh nào rồi, tôi xếp sách lại suy gẫm lời Phật
dạy, thấy hay quá. Mấy chục năm ở ngoài thế gian chưa từng nghe được những
lời như vậy, bây giờ mới được nghe, tự nhiên tôi xúc động rơi nước mắt.
Tôi nghĩ nếu mình không gặp Phật pháp thì chẳng biết thành cái gì, suốt
một đời sống vô nghĩa. Như chúng ta thấy con người sanh ra rồi lớn lên, lo
ăn học, kế có gia đình, có con, nuôi con. Khi con lớn khôn là mình sửa
soạn già chết. Mà chết đã yên đâu, còn sự quyến luyến vợ con, tiền bạc nên
trở lại nữa. Cứ như vậy đáo đi lộn lại trầm luân muôn kiếp.
Bây giờ chúng
ta được học giáo lý chân thật, nhận biết ngoài cuộc sống bình thường, con
người còn có một lý tưởng cao siêu vượt hơn tất cả, tự nhiên mình thấy tâm
hồn siêu thoát. Từ đó mới ý thức giá trị của sự tu là quí, nếu không hiểu
như vậy, tu một lúc sao thấy thường quá. Rồi cũng ăn, cũng mặc, cũng cười,
cũng giỡn, cũng đi chơi như ai, cuối cùng không ý thức được giá trị của sự
tu hành chút nào hết.
Vì vậy quí vị
nên có những phút giây yên tĩnh để suy gẫm về pháp. Suy gẫm thấy hay mới
ứng dụng tu. Như chúng ta ai cũng có ba độc chứa sẵn trong người. Ba độc
là tham, sân, si. Có người nghe ba độc, học hiểu ba độc và giảng được ba
độc nữa. Nhưng thiếu tu nên ai vừa chọc tới liền nổi sân đùng đùng. Như
vậy Văn, Tư chỉ là phương tiện bước một bước hai, mà kết quả thành tựu tốt
hay không là yếu tố thứ ba Tu.
Hồi xưa thời
của chúng tôi, do nhu cầu truyền bá Phật pháp đòi hỏi nhiều, nên chư tăng
học rồi phải đi giảng dạy ngay, không có thì giờ tu. Bấy giờ tôi tự an ủi
mình rằng, ráng dạy một thời gian để đền ơn Thầy Tổ. Thật tình tôi không
bằng lòng làm một cái máy phát thanh, cứ thâu vô bao nhiêu phát ra bấy
nhiêu, không đi tới đâu hết.
Trong kinh Hoa
Nghiêm có một đoạn rất hay. Khi Thiện Tài đồng tử hỏi vị thiện tri thức
nếu chỉ nghe, hiểu đạo thôi có đủ chưa? Thiện tri thức giải thích ví như
có người đi trên bãi sa mạc vào lúc trưa hè, lại không đem theo nước. Bấy
giờ khát nước cháy cổ, người kia muốn tìm chút nước uống cho đỡ khát,
nhưng không biết tìm ở đâu? Bỗng đằng xa có một người đi lại, anh này liền
hỏi: “Thưa anh, chỗ nào có giếng, có bóng mát xin chỉ dùm, tôi khát quá”.
Người kia bảo: “Anh tới ngã ba, rẽ bên phải, đi một đỗi nữa sẽ có bóng
mát, bên cạnh gốc cây ấy có một giếng nước”. Anh chàng khát nước cháy cổ
nghe nói thế mừng quá, nhưng chưa đi tới đó thì hết khát nước không? Như
vậy nghe nói, hiểu rõ còn phải đi tới nơi, vốc nước lên uống, chừng đó mới
hết khát.
Cũng thế, nếu
chúng ta chỉ học là Văn, rồi hiểu là Tư mà thiếu Tu thì không đi tới đâu,
vì khổ của phiền não vẫn chưa hết. Cho nên có nhiều vị Giảng sư giảng thao
thao bất tuyệt, mà lâu lâu đùng một cái ra đời. Hỏi tại sao thầy giảng hay
quá mà ra đời? Là vì thiếu tu, cũng như khát nước nhưng chưa uống được thì
vẫn cháy cổ như thường.
Tu giống như
nghe chỗ bóng mát, có giếng nước, mình đang đi tới đó. Trong lúc đang đi
cũng vẫn khô cổ như thường? Chừng nào đi tới đích, thưởng thức được vị mát
của nước rồi mới hết cháy cổ. Hiểu như vậy mới biết đạo lý chân thật không
cho phép chúng ta nói suông mà phải thực hành, có hành mới thấy giá trị
của sự tu.
Hồi xưa Phật
còn tại thế, nhiều thầy Tỳ-kheo khi đắc đạo rồi rất vui mừng, vì thấy cuộc
sống hết sức cao cả. Người tu đáng để cho thiên nhân cúng dường mới gọi là
Ứng cúng. Bởi có tu mới thấy đạo pháp quá cao siêu, không phải tầm thường
lẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi. Còn chúng ta bây giờ tu hơi yếu. Hồi
mới phát tâm thì mạnh, ở chùa lâu sanh lờn, kế đó yếu dần rồi thối tâm
luôn.
Cho nên học là
phương tiện đầu. Thầy giúp cho chúng ta hiểu, nhưng hiểu sâu là phải do
công phu suy tư của mình. Kế đến tu được cũng là công phu của mình, chớ
thầy không làm hai việc sau được. Đạt chân lý là mình, rồi thực hành đến
nơi đến chốn cũng do mình. Hai việc sau đòi hỏi mỗi người phải cố gắng,
chớ thầy không làm thế được.
Như vậy tinh
thần tu học của Thiền viện là tạo điều kiện cho Tăng Ni nghe, suy gẫm, còn
tu là phần của quí vị. Ở đây tôi thường hay nhắc chúng ta không chỉ tu
trong giờ tọa thiền, tụng kinh mà giờ nào cũng phải tu hết. Hoặc ta ngồi
chỗ riêng vắng, suy gẫm lại lời Phật dạy, đó gọi là chánh tư duy. Hoặc khi
ngồi chơi chỗ thanh vắng, nhìn thấy những luồng vọng tưởng dấy khởi, mình
biết rõ không thèm chạy theo nó, đó là tu. Hoặc do suy gẫm, thấy được lẽ
thật nơi mình, nhìn tất cả trò ảo hóa mình cười thôi, không có gì quan
trọng hết, đó là tu.
Quí vị nhớ
nhiều người ngồi tán dóc thì khó tu lắm. Ban đầu cũng nói chuyện tu hành
hoặc chuyện học kinh. Nhưng nói một hồi lảng qua chuyện khác lúc nào không
hay. Thế là chuyện bên Tây bên Tàu, chuyện tiếu lâm, chuyện vui cười rùm
lên. Hết nhóm này vui cười, tới nhóm khác vui cười, rồi cả liêu ồn náo,
không có chút yên tĩnh. Phật tử tới chùa nghe trong liêu quí thầy ồn náo,
họ vui không? Họ đánh giá ra sao? Quí thầy đang tu hay quí thầy đang giỡn?
Phật tử tới
chùa thấy quí thầy rảnh rang, mỗi vị ra ngồi dưới cội cây, gương mặt thanh
thản cười mỉm. Thấy quí thầy sống hết sức thanh tịnh, tự tại, người ta mới
quí kính. Chớ còn ngồi dụm ba dụm bảy cãi nhau hoặc nói chuyện tàu lau rồi
cười, thì ai mà quí kính được! Không phải mình tu làm tướng cho Phật tử
thương cúng dường, nhưng mình phải thật sự sống trong chánh tư duy, suy
gẫm về chân lý. Như vậy mới đúng ý nghĩa người tu, vừa có lợi cho mình vừa
có lợi cho tất cả mọi người. Đó là điều tôi muốn nhắc tất cả Tăng Ni nhớ,
ứng dụng tu có kết quả tốt đẹp cho bản thân và tập thể.
Những năm ở
Chân Không, tôi rất bằng lòng về việc tu học của chư tăng. Trước tiên tôi
tạo điều kiện cho chư Tăng tu học thuận lợi về mọi mặt. Sau ba năm học,
quí thầy có khả năng được nhập thất đôi ba năm rất yên tĩnh. Mọi sự lo
lắng bên ngoài đều được chu toàn. Người tu mà đa đoan bận bịu nhiều việc
quá tu khó tiến. Những lúc ta rảnh rang chỉ chuyên làm một việc thì mức
tiến thấy vượt bực rõ ràng. Như vậy Tăng Ni mới có đủ lòng tin rằng không
tu thì thôi, chớ có tu là có tiến.
Tôi tự thấy
mình có trách nhiệm là kẻ đi trước, phải làm sao hướng dẫn người đi sau
đừng lòng vòng uổng đi một đời tu. Nếu căn cứ trên lịch sử Phật giáo thì
thời nào có những vị Tăng Ni tu hành ngộ đạo, thời đó là thời thịnh hành
của Phật giáo, chớ không phải đông người tu là thịnh. Ví dụ gần nhất là
cuối thế kỷ mười tám, ở Huế chỉ có Thiền sư Liễu Quán là một vị tăng Việt
Nam tu ngộ đạo, mà đến bây giờ ở Huế cũng như trong Nam vẫn còn hệ phái
Liễu Quán. Một người ngộ đạo thôi mà đã kéo dài cả hai thế kỷ như vậy.
Do đó muốn duy
trì Phật pháp dài lâu phải có người tu thấy đạo, ngộ đạo. Chớ còn Tăng Ni
chỉ chú trọng trên lý thuyết hay cấp bằng thì đạo pháp khó giữ được bền
lâu. Do đó tôi nghĩ mỗi vị cố gắng tu, để mai kia sáng được lý đạo thì bản
thân mình xứng đáng một đời tu, mà đối với Phật pháp mình còn duy trì được
lâu dài nữa. Đó mới thật là người tu sĩ đủ tư cách đền đáp bốn ơn.
Vì vậy cái học
ở Thiền viện là học để tu. Sau thời gian học, chư tăng được nhập thất, cố
gắng tu để thấy rằng những gì Phật dạy chúng ta là sự thật. Kết quả tu học
có được chính là niềm tin vững chắc nơi quí vị. Tăng Ni tin chắc chắn rằng
nếu nỗ lực tu tập, nhất định có ngày mình sẽ thấy đạo, sống đạo và hành
đạo được như các bậc đã giác ngộ giải thoát. Đó chính là mục đích cứu kính
của người xuất gia chân chánh.
*Dưới đây là
Phật tử thưa hỏi thêm:
- Kính bạch
Thầy, mục thứ tư Thầy nói ở đây có phải là mục thứ chín của mười mục chăn
trâu?
- Không phải.
- Như vậy là
mục thứ tám?
- Cũng không
hẳn. Vì mục thứ tám là không còn trâu, không còn chăn, đó là đứng về mặt
Tiểu thừa mà nói, người tu đến đây đạt quả A-la-hán, hết sạch phiền não.
Nhưng đứng về Thiền tông mà nói, tuy không còn trâu không còn chăn tức
không còn kẹt trong đối đãi, nhưng chưa phải rồi. Còn công phu nhiều nữa
mới nhảy khỏi đầu sào trăm trượng. Tới đầu sào trăm trượng thì trâu và
chăn còn ở trên đầu sào, khi nào nhảy khỏi đầu sào mới vào được Phật quốc.
Nhảy phóc một cái qua khỏi chỗ đó là chết sống chớ không phải chuyện
thường. Cho nên nhiều khi chúng ta tu dễ lầm lắm, tới chỗ nào đó mình
tưởng đủ rồi, ngồi thảnh thơi ca hát vui chơi, đó là không đúng.
- Kính bạch
Thầy, từ lâu con có thắc mắc về trường hợp các vị tu theo Tiểu thừa, nói
rằng chứng A-la-hán thì không còn ưu buồn. Nhưng trong sử nói ngài Mục
Kiền Liên đã là A-la-hán rồi, sau khi gặp mẹ bị thọ khổ hình trong kiếp
ngạ quỉ, Ngài vẫn khóc. Như vậy Ngài vẫn còn buồn?
- Có hai
trường hợp: Thứ nhất, đứng về mặt Tiểu thừa thì như thế là không đúng, vì
còn xúc động là còn hữu lậu. Thứ hai, đứng về mặt Đại thừa thì không có
lỗi, vì Bồ-tát còn khóc kia mà. Bồ-tát khi thấy chúng sanh khổ, mình không
giúp được các Ngài xót xa có khi khóc. Đó, huống nữa ngài Mục-kiền-liên
thấy mẹ khổ mà giúp không được, Ngài khóc là lẽ đương nhiên. Thành ra
chúng ta hiểu theo cái nhìn Nguyên thủy thì như vậy Ngài có lỗi, nên các
sư Nguyên thủy nghi bản dịch Hán tạng không đúng, không biết nguyên bản
chữ Phạn thế nào? Nhưng với tinh thần Đại thừa thì nói ngài Mục-kiền-liên,
ngài Xá-lợi-phất chẳng qua chỉ mượn hình thức Thanh-văn, để thực hành hạnh
Bồ-tát. Cho nên gọi ngoại hiện Thanh-văn nội biến Bồ-tát. Hiểu thế thì nói
đúng cũng được, nói không trúng cũng được.
- Thưa Thầy
chỗ lậu tận của A-la-hán với chỗ vô tâm trong nhà thiền có giống nhau
không?
- Cũng chưa
giống nhau. Vì lậu tận của A-la-hán là các Ngài dứt sạch hết nghiệp, không
còn sanh trong tam giới nữa. Còn vô tâm của nhà thiền là không có tâm phân
biệt sanh tử, nhưng còn cái thể chân thật bất sanh bất diệt. Nên tuy không
có tâm sanh tử nhưng các Ngài vẫn lưu nguyện để đi trong sanh tử, thực
hành tự lợi lợi tha cho được viên mãn.
Hai bên khác
nhau. Một bên thì tới chỗ bặt hết mọi nghiệp chướng rồi an trú vô sanh.
Còn một bên tuy không có tâm sanh diệt nhưng còn thể chân thật. Tâm không
dấy động nữa mà vẫn khởi đại bi tâm phát nguyện đi trong sanh tử. Khởi đại
bi tâm phát nguyện tức là còn tâm, do còn tâm mới có thể đi trong sanh tử,
nếu không như thế làm sao độ chúng sanh? Cho nên chúng ta thường nghe nói
chư Bồ-tát hay lưu vi tế hoặc, trần sa hoặc để đi trong sanh tử, độ tận
chúng sanh. |