CỘI GỐC SANH TỬ VÀ NIẾT-BÀN
Chùa Hồng
Pha Toronto - 1994
Hôm nay thể
theo lời yêu cầu của chư Tăng Ni tại đây, chúng tôi sẽ thuyết một thời
pháp cho tất cả Tăng Ni Phật tử nghe, với đề tài Cội gốc sanh tử và cội
gốc Niết-bàn.
Thật ra người
tu không phải ham tu là tu được, mà đòi hỏi phải thâm nhập Phật pháp cho
sâu, sau đó ứng dụng tu mới đạt kết quả tốt. Nếu chỉ biết tu mà không hiểu
Phật pháp, đó là một thiếu sót lớn, có thể dẫn đến nguy hại. Bởi người
không hiểu Phật pháp dễ đi lệch lạc, rơi vào tà đạo lúc nào không hay. Vì
vậy đối với Tăng Ni cũng như Phật tử, hiểu Phật pháp là mấu chốt trọng yếu
trên đường tu.
Chúng ta tu ai
cũng muốn giải thoát sanh tử, thế nên trước hết cần phải biết nguyên do
nào chúng ta phải trầm luân trong sanh tử. Biết gốc trầm luân sanh tử rồi
mới biết nhân giải thoát. Vì thế ở đây tôi nêu lên hai vấn đề gốc sanh tử
và gốc giải thoát, để chúng ta biết cái nào hiểm nguy thì tránh, cái nào
cao siêu lợi ích thì hành. Trong kinh Phật dạy đầy đủ tất cả đường lối tu
trì, nhưng vì chúng ta không đủ duyên nên không nghe, không nhận được.
Trước tiên nói
về có và không hay khen và chê, tôi xin dẫn kinh Trường A-hàm. Một hôm đức
Phật trên đường về Tinh xá Trúc Lâm, có hai thầy trò ngoại đạo theo sau.
Ông thầy tìm đủ cách chỉ trích chê bai đức Phật, ngược lại người trò dùng
mọi lời lẽ tốt đẹp tán thán khen ngợi Như Lai. Vì thế chư Tỳ-kheo bực bội
không vui, về tới Tịnh xá các thầy liền bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, tại sao đối với đức Phật mà ông thầy thì chê, người trò lại khen, như
vậy ai đúng?
Đức Phật trả
lời:
- Các ngươi
đừng nói ai đúng, nếu nghĩ khen là đúng, chê là đúng thì các ngươi sẽ bị
phiền não. Nếu nói khen đúng thì người được khen sinh tâm ngạo mạn. Nếu
nói chê đúng thì người bị chê sẽ sanh ra bực bội. Như vậy đừng để khen chê
làm cho tâm mình sanh phiền não.
Phật tử đối
với việc khen và chê thế nào? Chúng ta được khen có vui không, bị chê có
buồn không? Ta nên nhớ chắc gì người khen là thực khen, nhiều khi họ khen
xã giao cho được lòng mình. Hoặc nhiều khi người ta ghét nên chê cho mình
bực bội, như vậy chê cũng không đúng. Thành ra khen chê không có lẽ thật.
Như vậy nghe khen vui, nghe chê buồn là mình sáng suốt hay không sáng
suốt? Chắc chắn là không sáng suốt rồi.
Bây giờ làm
sao người ta khen mình đừng vội mừng, người ta chê mình đừng vội giận mà
phải xét lại mình? Điều này hết sức nhỏ nhưng chúng ta phải cẩn thận đừng
bị lầm. Phật nói có những điều người ta khen Thế Tôn nhưng cái khen đó chỉ
là hình thức bề ngoài, không có gì quan trọng. Còn một điều quan trọng
hơn, đáng để khen hơn của một vị Tỳ-kheo là khi mắt đối với sắc, tâm không
dính, không nhiễm, biết rõ ràng mà không bị nó cột trói. Đây là điều đáng
khen mà thế gian không biết, chỉ có những đệ tử chứng A-la-hán mới khen
những điều đó.
Khi tai ta
nghe tiếng, biết rõ ràng tiếng khen tiếng chê mà tâm không dính, không bị
cột trói. Khi mũi ngửi mùi biết rõ thơm hôi nhưng cũng không dính mắc… cho
đến lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý đối với pháp trần không dính không mắc
một thứ nào hết mới đáng được khen ngợi, nhưng người đời lại không biết.
Chỉ có những vị A-la-hán mới biết khen ngợi như thế thôi.
Người thế gian
thường khen những hình thức giả tạm bên ngoài, còn cái thực là đối với sáu
trần biết rõ ràng mà không dính không nhiễm thì không khen. Ví dụ quí Phật
tử thấy chư Tăng Ni tu, người nào ra đường nghiêm trang tề chỉnh, đi ngó
dưới đất, không ngó qua ngó lại, hoặc thấy thầy cô nào ăn mặc rách rưới sơ
sài… quí vị khen thầy cô đó tu rất nghiêm chỉnh đạm bạc. Còn những thầy cô
được người đem biếu tặng vật gì đẹp mắt nhưng không ham, không nhận, quí
vị làm sao biết mà khen? Như vậy chúng ta chỉ thấy hình thức bên ngoài,
còn tâm niệm trong sáng không dính không mắc bên trong người đời ít ai
thấy được.
Người tu hình
thức tuy rất nghiêm trang nhưng nội tâm còn dính mắc thì vẫn không thể
giải thoát như thường. Còn người tuy hình thức tầm thường nhưng mọi dính
mắc đều không cột trói được, người đó tự nhiên được giải thoát. Cho nên
chúng ta phải biết rõ trọng tâm khen chê không phải ở hình thức mà ở tâm
niệm của mỗi người. Ai đã thoát được, đã tháo gỡ được những cột trói của
dục lạc thế gian, đó là người đáng khen. Còn hình thức bên ngoài nghiêm
trang nhưng đụng đâu dính đó thì chưa đáng khen.
Bây giờ tôi
dẫn trong kinh Tạp A-hàm, có một bài kinh kể lại câu chuyện thế này. Hồi
Phật còn tại thế, ngài Phú-lâu-na đến bạch với Phật rằng:
- Bạch Thế
Tôn, con muốn tìm nơi vắng vẻ chuyên tu cho chóng được Niết-bàn. Cúi xin
Thế Tôn vì con giảng nói chỗ tâm yếu, để con chóng vào Niết-bàn.
Đức Phật dạy:
- Muốn đạt
được chỗ tâm yếu đó không gì hơn là mắt thấy sắc đừng bị sắc trói cột,
đừng dính với sắc. Tai nghe tiếng đừng để tiếng lôi cuốn, đừng dính nhiễm
với tiếng. Mũi ngửi mùi đừng bị mùi cột trói, đừng dính mắc với mùi. Lưỡi
nếm đừng bị vị trói buộc, đừng dính mắc với vị. Thân xúc chạm dù cho êm ái
nhẹ nhàng vui thích hay thô nhám khó chịu cũng không bị dính cột trói,
đừng dính mắc với xúc. Ý duyên với pháp trần không bị pháp trần lôi dẫn,
không dính mắc với pháp trần. Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không dính
mắc với sáu trần, đó là nhân đến Niết-bàn.
Nghe Phật dạy
như vậy rồi, ngài Phú-lâu-na đảnh lễ từ giã Thế Tôn, xin tìm một chỗ vắng
vẻ tu. Đức Phật hỏi Ngài định đi đâu, Ngài thưa định sang một nước ở
phương Tây để tu. Đức Phật nói:
- Ta nghe dân
xứ ấy hung dữ lắm, ông qua đó họ làm khó, làm sao tu được?
Ngài
Phú-lâu-na bạch:
- Bạch Thế
Tôn, nếu người ta khó dễ với con, con vẫn can đảm tinh tấn tu.
Phật hỏi:
- Giả sử như
họ chửi mắng ông thì ông nghĩ sao?
- Bạch Thế
Tôn, nếu họ chửi mắng con là vẫn còn hiền vì chưa đánh đập con.
- Giả sử họ
dùng tay chân thoi đánh ông thì ông nghĩ sao?
- Bạch Thế
Tôn, nếu họ dùng tay chân thoi đánh con là vẫn còn hiền vì chưa dùng dao
gậy đánh con.
- Giả sử họ
dùng tới dao gậy đánh ông thì ông nghĩ sao?
- Bạch Thế
Tôn, nếu họ dùng dao gậy đánh con là vẫn còn hiền vì chưa giết con.
- Giả sử họ
giết ông thì ông nghĩ sao?
- Bạch Thế
Tôn, nếu họ giết con thì càng tốt vì họ giải quyết sớm dùm con thân ô uế
này. Con cám ơn họ nhiều hơn.
Bấy giờ Phật
bảo:
- Nếu ông được
như vậy thì nên qua đó tu.
Ngài
Phú-lâu-na với pháp Phật dạy và ý chí sắt đá đã qua xứ ấy tu, chỉ ba tháng
thôi liền chứng quả A-la-hán.
Chúng ta thấy
muốn được quả A-la-hán dễ hay khó? Tu ba tháng mà chứng A-la-hán thì quá
dễ phải không? Nhưng muốn như vậy, phải làm được hai việc. Thứ nhất bị
người ta đánh đập chửi mắng, nhẫn đến giết mình cũng không giận. Chưa được
như vậy e khó vào Niết-bàn. Vì còn giận là còn phiền não, còn phiền não
làm sao được Niết-bàn? Nên điều thứ nhất là trước mọi thử thách như chửi
mắng, đánh đập cho tới bị giết mình cũng không buồn không giận, tâm không
thối chuyển mới có thể vào Niết-bàn một cách mau chóng. Thứ hai là mắt,
tai, mũi, lưỡi đối với sáu trần không dính không mắc.
Chúng ta còn
dính mắc nhiều quá, thấy cái gì đẹp trố mắt nhìn hoài không chán. Nghe ai
nói gì đụng chạm tới mình thì quạu lên liền, không tha được. Như vậy mắt
thấy sắc dính sắc, tai nghe tiếng dính tiếng, mũi ngửi mùi dính mùi, lưỡi
nếm vị dính vị… dính đủ hết. Bởi dính nên tu không đến được Niết-bàn, nếu
đừng dính thì được Niết-bàn dễ chớ đâu có khó. Ta thử nghĩ đối trước tất
cả hoàn cảnh khó khăn, bị đánh đập hay chèn ép mà mình không phiền không
giận, như vậy tâm an lành biết mấy, sự tu có gì phiền não đâu.
Sở dĩ chúng ta
hay phiền não là tại sao? Vì bị chê một chút liền nổi giận, giận hai ba
ngày chớ không phải giận một buổi. Giận hai ba ngày tức là hai ba ngày hết
tu. Đó là duyên nghịch. Còn gặp duyên thuận như thấy người đẹp vật đẹp tâm
sanh ưa thích, hướng theo đó mãi cũng hết tu. Vì thế cả ngày tâm cứ chạy
theo những trần cảnh bên ngoài, không chút yên ổn. Tới giờ tụng kinh niệm
Phật cũng không yên. Tay cầm quyển kinh miệng đọc mà lát nhớ chuyện này
chuyện nọ, chớ không chịu nhớ kinh. Đó là thói quen luôn đuổi theo và dính
mắc với sáu trần của chúng ta, vì vậy bị trói buộc mãi không có ngày thoát
ra.
Qua hai câu
chuyện trên, chúng ta thấy thật ra đạo không xa, nhưng vì mình đắm nhiễm
quá thành ra cách xa. Giả sử bây giờ có ai mắng chửi mình, ta vẫn lặng
thinh không buồn không giận, đó là dở hay là hay? Chắc không phải dở rồi.
Ngược lại, nếu người ta chửi mình một, mình chửi lại hai ba thì hay hay
dở? Mới nhìn thấy như hơn, nhưng hơn cái hung dữ của thế gian, còn thua về
mặt đạo đức. Vì đứng trên đạo đức càng tranh hơn tranh thua thì càng mất
đạo đức. Đã là người tu chúng ta phải chú trọng đạo đức sao cho mỗi ngày
mỗi tăng tiến hơn, tập khí thế gian mỗi ngày mỗi giảm bớt đi. Như vậy mới
xứng gọi là Phật tử chứ.
Chúng sanh
luôn bị ba thứ độc tham sân si sai sử. Nghe người ta nói câu gì trái tai
thì chú độc sân nổi lên, thúc mình phải ăn thua với người ta. Ta làm dữ
với thiên hạ, thắng được thiên hạ tức là đã thua và đầu hàng chú sân rồi.
Ngược lại khi nghe một câu nói trái tai, chú sân vừa muốn thúc mình làm
dữ, ta liền dẹp chú, không nghe chú, bắt chú nép phục mình, đó là ta đã
thắng được chú độc sân rồi. Phật dạy người tu là người tự thắng mình.
Thắng một vạn quân không bằng thắng mình, thắng mình là chiến công oanh
liệt nhất.
Phật tử vào
chùa thường thấy tấm biển to ghi bốn chữ “Đại hùng bảo điện”, đó là lời
tán thán đức Phật là đấng đại hùng đại lực. Ngài đại hùng chỗ nào, đại lực
chỗ nào? Đại hùng vì Ngài thắng được Ngài, đại lực vì Ngài thắng được tất
cả ma quân. Còn chúng ta bây giờ hùng với người ngoài mà thua với chính
mình nên không thể gọi là đại hùng đại lực. Người tu phải tự chiến thắng
được mình, mới thật là đại hùng đại lực, mới có thể thành tựu Phật quả.
Vì thế nhà
Phật dạy chúng ta tu là phải nhìn cho kỹ, thấy cho rõ mình như thế nào đối
với sáu trần, có dính có nhiễm không? Nếu dính nhiễm thì phải gỡ bỏ. Chừng
nào không còn dính, không còn nhiễm nữa mới thật là người biết đi trên con
đường giải thoát.
Trở lại vấn đề
cái gì là gốc dẫn chúng ta đi trong trầm luân sanh tử và cái gì là gốc dẫn
chúng ta tới Niết-bàn giải thoát? Kinh Lăng Nghiêm nói rất rõ về việc này.
Một hôm ngài A-nan bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, cái gì là cội gốc của
sanh tử, cái gì là cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn?”. Ngay lúc đó đức Phật
không trả lời. Lát sau bỗng dưng nghe trên hư không mười phương chư Phật
đều đồng thinh trả lời rằng: “Này A-nan, cội gốc của sanh tử là sáu căn
của ông, cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông”.
Sáu căn là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đó là cội gốc của trầm luân sanh tử và
cũng là cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn. Tại sao? Chúng ta sử dụng sáu căn thế
nào để được thoát ly sanh tử, hoặc chìm trong trầm luân sanh tử. Như tôi
đã kể, mắt đuổi theo sắc dính với sắc nên bị nó dẫn dắt, lôi kéo. Tai nghe
tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị cũng như thế. Ví dụ lưỡi nếm những thức
ăn ngon ta thấy thích, thức ăn không ngon ta thấy bực. Do đó thay vì ăn để
sống, chúng ta lại ăn để phiền não. Bởi đâu có bữa cơm nào cũng vừa với
lưỡi hết. Nếu vừa ý thích thì ta thèm ăn thêm tức là tham. Nếu không vừa ý
thích ta bực dọc tức là sân, đó là phiền não. Mà phiền não là cội gốc dẫn
đi trong trầm luân sanh tử.
Nếu xét kỹ
trọng tâm ngon dở ở tại chỗ nào? Tại bao tử. Bao tử trống thiếu thì đem vô
cái gì cũng ngon hết, còn bao tử đầy thì của quí cũng thành không ngon.
Như vậy cái ngon dở đâu có giá trị thật, nhưng vì ta quên chỉ nhớ sự đòi
hỏi của cái lưỡi thôi, thành ra chạy theo nó mãi. Lỗ mũi, con mắt, lỗ tai…
cũng như vậy. Rồi thỏa mãn thân nữa, cả đời làm không dư xu nào hết cũng
vì những sự đòi hỏi này. Nhiều người than khổ quá, đi làm hoài không được
nghỉ. Ai đày đọa mình mà khổ như vậy? Có phải mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nó
hành không?
Thế nên người
biết tu sống vừa phải, đừng lệ thuộc vào những thứ ấy tự nhiên được an
nhàn. Ăn để mà sống thì ăn cái gì cũng được, miễn no bụng thôi. Mặc để che
thân thì mặc gì cũng được, miễn lành lặn là tốt rồi. Thân này dù xấu đẹp
gì vài mươi năm cũng phải chết, như vậy chẳng lẽ ta thỏa mãn để rồi chết
sao? Muốn mà không được thì đau khổ, chớ có lợi ích chi. Thân này không
thật, hạnh phúc cũng không thật, chúng ta lầm mê tưởng là thật nên phải
chịu trôi lăn trong trầm luân sanh tử mãi.
Đối với người
biết tu thì sáu căn đối với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
không dính không nhiễm, đó là cội gốc Bồ-đề Niết-bàn. Sắc là hình sắc đẹp
xấu, thanh là những âm thanh hay dở, hương là mùi thơm hôi, vị là những vị
ngon dở, xúc là những cảm giác xúc chạm của cơ thể, pháp là những bóng
dáng trong nội tâm hiện ra. Khi sáu căn đối với sáu trần có dính có nhiễm
thì đi trong sanh tử. Khi sáu căn đối với sáu trần không dính không nhiễm
là Bồ-đề Niết-bàn.
Ví như có
người thích uống rượu. Ban đầu uống một cốc chơi, lần lần uống hai cốc ba
cốc, thời gian năm tháng bảy tháng sanh ghiền. Hồi đầu uống chơi nên còn
tự do, muốn uống thì uống, không muốn thì thôi. Nhưng khi ghiền rồi, không
có rượu phải chạy ra quán mua rượu về uống. Cái gì dẫn họ chạy? Cái ghiền
rượu. Mà ghiền là tập nhiều lần thành thói quen nên ghiền. Đã ghiền thì
phải lệ thuộc vào nó, do đó bị nó dẫn đi, mất hết tự do. Chính mình tạo
rồi mình mất tự do, nếu không tạo thì đâu có mất.
Tự do tức là
nhân của giải thoát, còn bị các trần dẫn đi là gốc của trầm luân, chớ có
gì lạ đâu. Chúng ta tự kiểm lại mình xem ta đang chuẩn bị đi lên hay bị
lôi xuống. Bị lôi xuống là khổ, còn giải thoát đi lên thì an nhàn. Nếu bị
những sở thích lôi kéo, không làm chủ được là biết mình bị lôi xuống. Nếu
những gì thế gian thích mà mình vẫn không bị dính không bị mắc, đó là đi
lên. Cho nên sự tu của mình không phải đi hỏi người này người kia. Tôi
thường bị nhiều Phật tử hỏi: “Thưa Thầy, Thầy xem giùm con có căn tu
không?”. Tôi trả lời: “Ai cũng có căn tu hết, chỉ muốn tu hoặc không muốn
tu thôi”. Tại sao ai cũng có căn tu? Bởi Phật nói ai cũng có tánh Phật,
tức là có căn tu. Người chịu tu thì tu được, người không chịu tu thì tu
không được, chớ đừng hỏi có hay không có.
Quí Phật tử
thử xét trong tâm mình có bao giờ hoàn toàn nghĩ xấu hay hoàn toàn nghĩ
tốt không? Có khi nghĩ tốt, có khi nghĩ xấu. Như vậy nơi tâm chúng ta có
đủ thiện ác. Bây giờ tu là làm sao? Bỏ ác, giữ thiện, chỉ vậy thôi. Có
thiện sẵn là có căn rồi, còn hỏi ai chi nữa? Cho nên chúng ta tu là loại
trừ điều dữ, nuôi dưỡng điều lành cho tăng trưởng. Như vậy ai cũng có căn
hết. Có lắm vị đi coi ngày coi tháng coi tuổi thử xem mình tu được hay
không? Nhiều vị xuất gia hay vào chùa cũng phải lựa ngày lành tháng tốt
mới đi, tôi cho như vậy là quá kỹ. Với tôi ngày nào đi tu cũng là ngày
tốt, còn ngày nào đi ăn trộm cũng là ngày xấu hết.
Như vậy ai
cũng có đủ sáu căn tức là có đủ cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn và cội gốc của
trầm luân sanh tử. Chỉ đừng để sáu căn nhiễm dính với sáu trần là giải
thoát, ngược lại là trầm luân, chớ không gì lạ. Chúng ta xét thật kỹ mới
thấy sự tu của mình không phải ở trên mây xanh, mà nó ngay nơi con người
chân thật của chính mình. Bây giờ có người nào không ăn chay, không tụng
kinh nhưng thấy sắc đẹp không tham, nghe tiếng hay không nhiễm, khen không
mừng, chê không giận là người đó có tu. Còn người ăn chay trường, tụng
kinh giỏi mà thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi… cái gì cũng dính cũng nhiễm
là chưa biết tu. Nên tu là khéo gỡ đừng cột trói đừng dính mắc.
Người tu là
người gỡ bớt sự dính nhiễm của sáu căn, người không biết tu chẳng những
không gỡ mà còn tập thêm, đã nhiễm càng nhiễm thêm. Vì vậy khổ hoài từ đời
này sang đời khác. Đó là tôi giải thích rõ vì sao sáu căn là cội gốc của
Bồ-đề Niết-bàn, sáu căn cũng là gốc của trầm luân sanh tử.
Trong kinh Kim
Cang, ngài Tu-bồ-đề xin Phật dạy làm thế nào hàng phục tâm và an trụ tâm
để tiến lên quả vị Bồ-đề? Ở đây, tôi chỉ nói phần an trụ. Phật dạy: “Bất
ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm,
ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa là không nên dính mắc nơi sắc sanh
tâm Bồ-đề, không nên dính mắc nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm
Bồ-đề, nên không dính mắc mà sanh tâm Bồ-đề. Nghe câu này Lục Tổ Huệ Năng
đại ngộ, còn chúng ta không ngộ gì hết. Tại sao? Vì muốn tâm an trụ để
được giác ngộ thì đối với sáu trần tâm đừng dính mắc. Chúng ta còn dính
mắc nên tâm không an, không an làm sao giác ngộ giải thoát được.
Ví dụ tay tôi
nắm cái ly thì dính mắc ở cái ly nên không thể nắm được cái khác. Vì vậy
còn bám vào một vật gì là mắc kẹt vào vật đó. Nếu trên bàn có năm ba thứ
nhưng tay tôi không nắm thứ nào hết nên rảnh rang không dính mắc. Nhờ
không dính hẳn vào một vật nên tôi có thể cầm vật nào cũng được. Không bám
nên không dính mắc, đó là vô sở trụ. Chỗ không dính mắc ấy là tâm Bồ-đề.
Tôi thường ví
dụ như người vác cục đá to leo núi, việc này rất khó. Vì đá nặng mà trèo
dốc cao nữa nên rất khó đi. Bây giờ có người khuyên kẻ đó bỏ cục đá xuống,
như vậy khó hay dễ? Bỏ xuống khỏe ru phải không? Cũng thế, chúng ta đang
dính đang nhiễm, Phật bảo mình buông đi, đừng dính nhiễm nữa, như vậy dễ
hay khó? Thế mà chúng ta lại than khó! Tại sao buông xuống nhẹ mà lại khó?
Nghe khen, nghe chê buông bỏ hết cho khỏe, dễ quá, tại sao mình không chịu
buông? Thật lạ lùng.
Ví dụ như
người ghiền rượu, mỗi ngày phải tốn tiền đi quán bao nhiêu lần, khổ hay
sướng? Khổ. Bây giờ biểu bỏ rượu đi, đừng uống nữa khỏi tốn tiền, hết khổ
nhưng họ nói bỏ rượu khó quá. Tại sao khó? Tại vì đeo mang quen rồi, buông
ra thấy khó. Nếu chúng ta can đảm buông một cái thì dễ thôi, lỗi là tại
mình không gan. Bởi vậy người tu đòi hỏi phải có ý chí, phải gan dạ.
Tất cả các
nghiệp thiện cũng như nghiệp ác đều do chính mình là chủ nhân tạo nên. Ta
đã tạo cho mình khổ thì cũng chính ta làm cho mình hết khổ, chớ đâu có ai
thế được. Gan một chút bỏ hết đi thì hết khổ; không chịu gan rồi cứ kêu
khổ hoài. Rõ ràng ta không đủ can đảm làm những việc lợi ích cho bản thân
mình, thì mong gì giúp ích cho ai? Vì thế không nói tu từ đâu, mà chính
nơi sáu căn của mình biết gỡ bỏ, tự nhiên chúng ta yên lành tự tại.
Sở dĩ ta niệm
Phật, tụng kinh, tọa thiền mà tâm vẫn bất an là tại vì nhớ sắc, nhớ thanh.
Như buổi chiều có ai nói một câu nặng, mình trả lời chưa vừa ý; lát sau
ngồi thiền hay niệm Phật không yên. Cứ tìm câu đối đáp cho xứng với câu
nói hồi chiều. Rõ ràng tâm mình không an là tại vì dính sắc trần, thanh
trần bên ngoài. Bây giờ đến giờ tu thì gác qua một bên, không nhớ nghĩ chi
hết, tự nhiên tâm an. Cho nên Phật dạy chỉ tâm không dính mắc với sáu trần
là an trụ. An trụ được tâm đó mới tiến tới Bồ-đề, giải thoát.
Phật tử cứ sợ
không biết sau khi chết mình đi đâu nên tìm hết thầy này đến thầy khác để
hỏi. Sao không tự hỏi mình? Bình thường thương người này giận người kia,
trong tâm hiện lên hình ảnh những kẻ ấy hoài thì khi chết sẽ bị chúng dẫn
đi thôi. Nếu tâm còn oán thù hờn giận thì oán thù hờn giận sẽ dẫn mình đi
gặp nhau để trả thù. Chúng ta có mâu thuẫn mà không biết. Mình ghét ai
không muốn gặp thì lẽ ra buông luôn đừng nhớ người đó, đằng này không muốn
gặp mà cứ nhớ hoài. Nhớ gương mặt sao dễ ghét, giọng nói cũng khó ưa… ôm
ấp trong lòng hoài. Như vậy khi gần nhắm mắt những hình ảnh đó sống trở
lại khiến cho gặp nhau ở đời sau nữa. Đó là mâu thuẫn.
Chúng ta tu mà
chất chứa buồn phiền thù hận hoài thì khi nhắm mắt sẽ bất an. Đó là đi
theo đường khổ. Cho nên chỉ cần nhìn lại lòng mình trong hiện tại là biết
chết sẽ về đâu, gặp ai, khỏi cần hỏi thầy cô nào hết. Chúng ta biết tu rồi
gỡ bỏ bớt, đừng thèm giận nhau chi. Buồn giận nhiều có đi tới đâu? Phút
cuối cùng ai rồi cũng phải chết, mang giận hờn theo chi cho khổ. Vì vậy
Phật dạy người tu phải hỷ xả, vui vẻ bỏ hết để được an vui khi sống cũng
như lúc chết. Nên nhớ ngày mai chúng ta tiến lên hay lùi xuống đều tùy tâm
niệm trong hiện tại.
Nhiều người
nói quí thầy tu xả được, chớ chúng tôi đâu có xả nổi. Trong sách nhà Phật
có nói câu này: “Tăng hận bất cách túc”, nghĩa là tăng giận không được quá
một đêm. Phật thông cảm cho quí thầy còn phàm tăng cũng giận, nhưng không
quá một đêm. Vậy quí Phật tử giận chừng bao lâu? Năm mười năm chưa quên.
Đối với người tu đạo lực còn yếu, gặp cảnh trái nghịch cũng bực bội, nhưng
một chút thôi rồi bỏ đi, không được ôm ấp lâu. Người không biết tu khi gặp
cảnh trái nghịch giận hoài không quên.
Như vậy chỉ
cần nhìn lại mình, ta biết sự tu tiến nhiều ít. Hồi chưa biết tu ai làm gì
trái ý, mình giận mười năm. Bây giờ biết tu, ai làm trái ý, mình giận
chừng ba năm là đã có tiến bộ. Đến khi khá hơn chút nữa, ai làm gì trái ý,
mình giận chừng ba bốn ngày thôi. Bao giờ giận chỉ một đêm thôi là làm
tăng được rồi đó. Cuối cùng gặp thuận nghịch chi mình cũng cười, không
giận ai hết, đó là chúng ta bắt đầu tiến lên bước giải thoát.
Lục Tổ Huệ
Năng khi nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, chẳng những Ngài không
dính mắc sáu trần mà còn thấy ngay nơi thân này có tâm thể thanh tịnh, nên
Ngài liền thốt lên: Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh, đâu ngờ tâm mình
vốn tự đầy đủ, đâu ngờ tâm mình trùm khắp tất cả v.v... Chúng ta do ý niệm
dấy động chạy theo sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nên dính mắc
sáu trần. Thế mà ta lại còn cho ý niệm đó là tâm mình nữa. Tâm tôi nhớ
hình sắc, tâm tôi nhớ âm thanh v.v... Cứ thế liên miên hết niệm này khởi
tới niệm kia đuổi theo bóng dáng sáu trần nên bất an. Nhưng hỏi lại tâm đó
có thật không? Nhớ cái này nhớ cái nọ, lát sau mất hết, như vậy nó đâu có
thật. Bây giờ nếu chúng ta dừng lại, không đuổi theo sáu trần nữa thì được
an ngay.
Khi nhận tâm
niệm dính với sáu trần là tâm mình, ta thấy tâm ấy sanh diệt liên tục. Còn
nếu những tâm niệm đó lặng xuống hết, không còn dính bóng dáng nào nữa,
lúc đó tâm mình ra sao? Thênh thang trùm khắp, nên không sanh diệt từng
chập từng chập như trước. Hiểu thấu và ứng dụng được như thế là ta giải
thoát rồi. Học kinh nhiều mà không ứng dụng được thì có lợi ích gì? Chúng
ta học kinh Phật để tu, chớ không phải để tụng cho Phật nghe. Mình không
chịu ứng dụng tu, cứ tối tụng lại cho Phật nghe, thử hỏi có phụ lòng Phật
không? Ví như cô giáo dạy học trò khi ra đường gặp các cụ già phải giở nón
chào, chấp tay cúi đầu, thưa dạ đàng hoàng. Con bé đó thuộc lòng lời dạy
trên, nhưng khi ra đường gặp các cụ nó không thèm giở nón chào, không chấp
tay cúi đầu. Tới lúc vô trường nó lại đọc thuộc lòng cho cô giáo nghe. Thử
hỏi nếu cô giáo biết được chuyện này có khen không?
Chúng ta cũng
vậy, như trong kinh Bát-nhã Phật dạy “Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã
Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”.
Nghĩa là Bồ-tát Quán tự tại khi thực hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, Ngài
soi thấy năm uẩn không thật liền qua tất cả khổ nạn. Quí thầy cô của mình
cứ đọc thuộc làu cho Phật nghe như thế mà không chịu hành thâm, nên rồi
khổ nạn tới liên miên phải không. Phật biết chắc Ngài cũng buồn lắm. Bởi
Phật dạy là muốn chúng ta thực hành để hết khổ, chớ không phải đem lời
Phật dạy ra đọc hoài mà không chịu tu. Cho nên người học đạo thực hành một
câu Phật dạy quí bằng hòn ngọc vô giá ở thế gian. Vì vậy tôi thường nhắc
nhở chư Tăng Ni cũng như quí Phật tử, chúng ta đọc kinh nhưng phải ứng
dụng tu, chớ không nên đọc suông.
Chúng ta tu
phải ráng làm sao đừng để dính với sáu trần là được giải thoát, ngược lại
cứ dính mắc sáu trần hoài thì trầm luân không có ngày ra khỏi. Như vậy sáu
căn là nhân giải thoát nếu chúng ta không dính với sáu trần, hoặc sáu căn
là nhân trầm luân sanh tử nếu dính với sáu trần. Nên biết tu ngay nơi sáu
căn, chớ không ở đâu khác. Quyền định đoạt được giải thoát hay trầm luân
là của chúng ta. Chính mình can đảm, chủ động để được giải thoát, cũng
chính mình chủ động để trầm luân trong sanh tử, không thể trách móc kêu
than ai hết. Như vậy đạo Phật tôn trọng quyền tự do tuyệt đối, không ai
bắt ta trầm luân, cũng không ai nâng ta lên giải thoát. Hiểu như thế rồi,
chúng ta không được quyền đổ thừa tại trời hay tại ai làm cho mình khổ, mà
phải biết rõ là tại mình.
Đó là ý nghĩa
thâm trầm và sâu xa của đạo Phật về cội gốc sanh tử và cội gốc Niết-bàn.
Mong tất cả nghe hiểu và ứng dụng tu đạt được kết quả viên mãn. |