TẬP NGHIỆP
TV. Trúc
Lâm - Đà Lạt 2001
Trọng tâm bài
này tôi nói về nghiệp tập. Nghiệp tập là nói theo chữ Hán, chữ Việt gọi là
tập nghiệp, do huân tập trở thành nghiệp.
Thiền sư thứ
ba ở Trung Quốc là Tổ Tăng Xán. Lúc bị bệnh cùi, mọi người khinh chê xa
lánh nên Ngài rất buồn tủi. Nghe Tổ Huệ Khả truyền bá Phật pháp, Ngài tìm
tới. Khi gặp Tổ ngài thưa: “Bạch Hòa thượng, con nghiệp chướng nặng nề nên
mang bệnh nan y, xin Hòa thượng dạy con phương pháp sám hối”. Ngài nói rất
hiền lành, thật thà. Vì nghe người ta nói do nghiệp chướng sâu dày mới mắc
phải bệnh nan y. Do đó Ngài cầu Tổ dạy phương pháp sám hối cho tiêu tội,
hết bệnh.
Bấy giờ tổ Huệ
Khả cũng dùng thuật của tổ Đạt-ma, nhìn thẳng vào mặt Tăng Xán bảo: “Đem
tội nghiệp ra Ta sám cho”. Ngài Tăng Xán quay lại tìm, tìm mãi không thấy
tội nghiệp ở đâu nên thưa: “Bạch Hòa thượng, con tìm tội không được”. Tổ
bảo: “Ta đã sám hối cho ngươi rồi”. Nghe vậy Ngài biết được đường vào.
Tổ bảo đem tội
nghiệp ra Ngài sám cho. Ngài Tăng Xán tìm không thấy tội, làm sao đem
được, như vậy Tổ đã sám cho rồi. Biết đường vào là đường đi đâu? Khi Ngài
quay lại tìm tội nghiệp mà Ngài cho là thật thì không thấy tâm dạng nó ở
đâu. Do thấy nó thật mới sanh ra bệnh hoạn, bây giờ tìm lại không thấy nó
nữa. Như vậy tội nghiệp có hay không? Nếu không làm sao mang bệnh? Nếu có
thì ở đâu? Đó là một vấn đề thật nan giải.
Nếu chúng ta
không đi sâu, không thấy tường tận, nghe Tổ nói như chuyện bâng quơ. Ngài
bảo đem tội ra Ta sám cho, Tăng Xán thưa tìm tội không được, Tổ bảo “Ta đã
sám cho ngươi rồi”. Sám bằng cách nào? Từ cái quay lại tìm tội nghiệp
không thấy bóng dáng nó ở đâu, nên biết tội nghiệp biến thành không. Tội
nghiệp đã không thì hiện tượng quả báo đang chịu đó có thật không? Cũng
không thật. Gốc tội vốn không thì tất cả tướng tội theo đó diệt hết. Khi
ngài Tăng Xán tìm tội không được, nghe Tổ nói Ta đã sám hối cho ông rồi,
liền biết được đường vào. Từ đó bệnh hủi lành luôn.
Chúng ta ai
đang có bệnh trầm kha ráng tìm xem tội nghiệp ở chỗ nào mà sanh bệnh hoạn
như vậy. Tìm không được thì nó sẽ hết, nếu tìm ra nó thế này thế kia thì
tội nghiệp chưa hết.
Thế nên trong
bài sám hối được kết thúc bởi bốn câu:
Tội tánh bổn không, do tâm tạo,
Tâm nhược diệt thời, tội diệt vong.
Tội vong tâm diệt, lưỡng câu không,
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tội tánh bổn
không, do tâm tạo. Tội đâu tự có. Do tâm lành, tâm dữ mới tạo thành tội.
Tâm lành dữ không thật thì tội thật không? Tội không thật thì nghiệp báo
cũng không thật luôn. Chúng ta thấy có tội nào không từ tâm tạo ra? Ví dụ
mình đi đường, không thấy lỡ đạp chết con kiến, tội đó không từ tâm tạo
nên sám hối được. Còn tội từ tâm cố ý tạo thì sám hối không được. Phải
chuyển tâm tội mới hết.
Phật dạy tội
từ tâm sanh, cũng từ tâm diệt. Nếu chúng ta tưởng mình có tội thật, tưởng
tâm mình thật, tưởng quả báo nghiệp thật. Một chùm ba thứ: tâm thật, tội
thật, quả báo thật nên thọ khổ. Bây giờ quán sát thấy rõ tâm không thật,
tội không thật. Từ tâm không thật, tội không thật, quả báo làm sao có
thật? Đi từ gốc ra lần tới ngọn, biết gốc không thật thì ngọn cũng không
thật. Lành được gốc thì ngọn cũng lành luôn. Nếu gốc bên trong chưa lành,
còn nguyên bệnh mà muốn cho ngọn bên ngoài lành, làm sao lành được, làm
sao hết bệnh được?
Tội từ tâm tạo
thì sám hối phải từ tâm mà sám. Muốn sám hối hết tội nên tìm xem tâm thật
hay không? Nếu tâm thật thì tội thật, tội thật thì quả báo mới thật. Bây
giờ biết rõ tâm không thật, tội chướng không thật, thì quả báo cũng không
thật. Nên nói tánh tội vốn không, bởi tội từ tâm sanh, tâm đã không thì
tội đâu có. Tội không thật có, quả báo làm sao thật được.
Ở đây chỉ
thẳng chỗ tột cùng, chớ không đi từ tướng bên ngoài. Nói vậy không có
nghĩa là bác nhân quả, mà là đi thẳng vào gốc của tội lỗi. Gốc của tội lỗi
từ tâm mà có. Tâm tạo tội là tâm gì? Tâm sanh diệt, nghĩ thiện nghĩ ác,
nghĩ thương nghĩ ghét. Có thương có ghét nên đối với người mình ghét ta xử
xấu, đối với người thương ta xử tốt. Từ tâm phân biệt thiện ác, tội phước
đó mà đưa tới quả báo tạo nghiệp. Tạo nghiệp rồi lại tiếp tục chịu quả
báo. Cứ thế xoay chuyển mãi không cùng.
Thế nên muốn
hết tạo nghiệp trước phải hết cái thấy hai bên. Hiện tại chúng ta thấy mấy
bên? Ba bên. Hai đầu và chính giữa nữa. Nhìn ra thấy ba bên chớ không chỉ
hai bên thôi. Chính giữa là mình, bên này là người thương, bên kia là
người ghét. Nếu không còn hai bên, thì chính giữa cũng hết luôn. Như vậy
tội ngay đó tiêu hết. Như chúng ta ngồi thiền không cho nghĩ bậy tức là
dừng nghĩ hai bên. Hai bên dừng được rồi thì cái chân thật mới hiện. Thế
nên tìm tội mà biết tội không thật thì nghiệp cũng không thật. Vì vậy khi
ngài Tăng Xán biết đường vào rồi liền hết bệnh. Trị bệnh như vậy mới trị
tận gốc.
Tâm nhược diệt
thời, tội diệt vong. Nghĩa là tâm nếu diệt rồi thì tội theo đó cũng mất.
Như khi ta oán giận ai, muốn hại kẻ đó. Muốn hại là gì? Là tâm. Khi muốn
hại bằng cách này, cách nọ mà chưa kịp hại, liền thức tỉnh. Bấy giờ tâm
muốn hại không còn nữa, vậy tội còn không? Tội theo đó cũng không còn. Nên
nói tâm diệt thì tội theo đó diệt.
Vị nào cả ngày
thấy rõ tâm không thật, buông xả hết tất cả nghĩ ghét, nghĩ thương, người
đó có tội không, sống trong chúng có bị rầy rà không? Chắc không. Ngược
lại nếu tâm nghĩ thương, nghĩ ghét ngày càng sâu, trước lún chừng hai
phân, dần dần lên năm bảy phân, rồi sâu một tấc, cuối cùng lún tới tim nên
nhổ không ra. Rầy đi, rầy lại, nhắc tới, nhắc lui mãi mà nhổ cũng không
nổi, là tại lún sâu quá. Cho nên đừng có cột, đừng có trói thêm sâu thì dễ
gỡ. Gỡ được tâm đó thì tội hết liền. Thế nên gốc của sự sám hối là phải
biết tâm không thật, tội không thật, việc làm kia cũng không thật, nên
buông bỏ hết thì tội hết.
Chừng nào Tội
không, tâm diệt lưỡng câu không, không thấy tội thật, tâm thật, cả hai đều
không, mới là Thị tắc danh vi chơn sám hối, đó chính thật là sám hối. Sám
hối như thế mới chí thành, chí thiết. Còn sám hối của chúng ta chỉ là sám
hối ngoài miệng, văn sao đọc vậy mà trong tâm không gỡ không chừa. Như vậy
chừng nào mới hết tội?
Chúng ta nhìn
lại hành động của Thiền sư Tăng Xán. Khi tìm tội không ra Ngài liền biết
nó không thật, vì vậy Tổ nói “Ta đã sám hối cho ông rồi”. Ngay đó Ngài
biết đường vào, tức là biết tìm tội tánh là không. Tội tánh không nên tâm
cũng không, đó là Ngài sám hối chân thật. Nhờ thấy đạo, bệnh Ngài được
lành. Như vậy đường đi từ Tổ thứ hai sang Tổ thứ ba từ ngữ có khác, nhưng
gốc không hai. Vị nào cũng là chỉ thẳng chỗ cuối cùng đó.
Sau này Tổ
Tăng Xán có làm bài “Tín tâm minh”. Tôi chỉ đọc hai câu đầu, hai câu cuối
thôi. Hai câu đầu là:
Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
“Chí đạo” là
đại đạo, là chỗ tột của đạo, “vô nan” là không khó. Chỗ tột của đạo không
khó. Duy hiềm giản trạch, nghĩa là chỉ đáng ngại ở chỗ suy gẫm, phân biệt
giản trạch. Vì suy gẫm phân biệt là vọng tưởng. Muốn được chỗ chí đạo phải
buông bỏ suy gẫm, vọng tưởng. Như vậy khó không? Nếu bảo chúng ta đi bộ
lên mây xanh, lấy chí đạo trên đó thì khó thật. Còn đằng này chỉ bảo đừng
giản trạch thôi. Thấy là thấy, nghe là nghe, đừng phụ họa thêm bớt tốt xấu
hay dở, thì chí đạo hiện tiền.
Chí đạo tức là
chân tâm. Chỗ tột cùng là đó, không có gì hết, đơn giản vô cùng nên nói
không khó. Nhưng khó tại vì mình giản trạch. Chân tâm có sẵn, chỉ vì ta
chạy theo vọng tưởng nên không nhận ra. Bây giờ đừng chạy theo vọng tưởng
nữa thì chân tâm hiện tiền, có mất thiếu chỗ nào đâu. Thế nhưng không hiểu
sao chúng ta lại không chịu bỏ vọng tưởng? Bởi vì con người quen sống điên
đảo rồi. Bởi từ điên đảo nên không thấy được chí đạo.
Tu Thiền, tu
Tịnh cốt diệt tâm điên đảo ấy. Niệm Phật tới nhất tâm thì điên đảo đâu
còn. Tu Thiền buông sạch hết, không còn một niệm thì tâm điên đảo đâu còn.
Như vậy vô niệm tức là chí đạo, chớ không gì khác. Vì chúng ta không đi
sâu trong đó, không sống được chỗ đó, nên mất “chí đạo”. Cho nên tu không
tìm gì ở đâu xa, mà cứ trở về gốc chí đạo, chớ không chi hết.
Hai câu kết
thúc:
Tín tâm bất nhị,
Bất nhị Tín tâm.
Tin được tâm
chân thật của mình thì không còn hai. Còn hai là chưa tin được tâm chân
thật của mình. Mở đầu và kết thúc bài “Tín tâm minh”, rõ ràng Ngài chỉ
thẳng tâm chân thật rồi, nhưng kẹt là tại chúng ta suy gẫm nhiều quá. Chỉ
học bốn câu thôi, ta cũng thấy tường tận những gì các Tổ muốn dạy. Bởi
Ngài tìm tâm không được, tìm tội không có, tâm tội đã hết thì đâu còn hai.
Như vậy Ngài tin được chỗ chí đạo, thấy rõ chí đạo rồi Ngài được Tổ truyền
tâm ấn, tất cả bệnh tật cũng lành hết.
Chuyện dễ như
trở bàn tay, không biết tại sao chúng ta tu năm năm mười năm, than thở đủ
thứ khó khăn, trầy trật mãi chưa vươn lên được. Chuyện bảo bỏ cái giả đi
sẽ thấy cái thật liền, cái thật ấy lại sẵn có, mà không chịu bỏ là khôn
hay dại? Dại, không nghi ngờ gì nữa. Vậy mà ai nói dại liền nổi giận đùng
đùng, thành ra dại thêm một lớp nữa. Thật tình như vậy, hết sức giản đơn
mà chúng ta không chịu sống, không chịu thấy.
Tại sao khi
tìm không ra tội nghiệp của mình, nghe Tổ nói “Ta đã sám hối cho ngươi
rồi”, ngài Tăng Xán liền thấy lối vào? Do Ngài biết nghiệp đó không thật.
Nhưng làm sao biết nó không thật? Đây là nội dung chính của bài pháp
nghiệp tập hôm nay.
Chúng ta đi từ
nghiệp tập hiện tại trở lui về nghiệp tập quá khứ. Như người nam hồi còn
trẻ chưa biết hút thuốc, họ có thèm thuốc không? Không. Sau đó nếu mỗi
ngày họ hút hai điếu, ba điếu chừng năm bảy tháng thành nghiền. Bữa nào
không hút thuốc họ nói “tôi nghiền thuốc quá”. Bấy giờ nghiền thuốc trở
thành tôi rồi. Hồi đầu chưa hút, thuốc là thuốc, mình là mình, nó không
phải là mình. Khi hút lâu thành nghiền, thiếu thuốc nói tôi nghiền thuốc
quá làm không nổi, đi không được, gì gì đủ thứ. Như vậy cái nghiền thuốc
thành tôi, nghĩa là đắp nghiệp vô thành mình rồi. Người không nghiền thuốc
đâu có nói tôi nghiền thuốc quá. Đó là ví dụ thứ nhất.
Ví dụ thứ hai,
như người uống rượu. Nếu trước chưa từng uống rượu, thấy rượu họ có nghiền
có thèm không? Nhưng khi đã uống năm năm, ba năm, vừa tới tiệc rượu người
ta không mời, họ cũng nhào vô uống, vì thèm vì nghiền rượu quá. Tại sao
thèm? Vì cho nghiệp uống rượu đó là tôi. Nên biết rượu, thuốc ban đầu
không phải là mình, nhưng do ta tập từ một hai ba bốn cho đến trăm ngàn
lần, lâu ngày quen thành nghiệp. Thế là chấp nhận nghiệp là mình. Mình có
nghiệp nghiền thuốc, nghiền rượu nên thiếu mấy thứ đó chịu không nổi.
Như vậy khổ
đau của người nghiền thuốc, nghiền rượu khi không có thuốc rượu do ai đem
lại? Không phải trời, không phải Phật, không phải người khác, mà chính họ
tạo lấy rồi thọ khổ với nghiệp mình đã tạo. Việc này không thể đổ thừa cho
ai được, vì rõ ràng do mình tập làm từ lúc ban đầu. Đổ thừa người này dụ
tôi hút thuốc, hay người kia dụ tôi uống rượu, đó là lối đổ thừa bâng quơ.
Người ta dụ mà mình không hút thì thôi, không uống thì thôi, có gì thành
nghiệp. Nghiệp nghiền rượu, nghiền thuốc là chính mình chủ động tạo. Tạo
rồi sau đó khổ, thân sanh bệnh hoạn tâm rối loạn. Đó là tại ai? Tại trời
đất chăng?
Bây giờ muốn
bỏ nghiệp ấy phải làm sao? Người ấy biết trước kia mình đâu có nghiền
rượu, nghiền thuốc, tại tập hút tập uống lâu dần mới thành nghiền. Bây giờ
muốn hết nghiền thì tập trở lại, đừng hút đừng uống nữa. Rượu, thuốc tánh
nó là không, tập lâu thành thói quen, thành nghiệp. Biết tánh nó là không,
đừng theo nữa thì nó hết chớ gì. Thấy thuốc không thèm hút, thấy rượu
không thèm uống, lâu ngày hết nghiền. Bởi tánh nó không, đâu phải thật, nó
lại ở bên ngoài huân vô thành nghiệp, không phải có sẵn. Như vậy bỏ là dễ,
chớ đâu có khó.
Ví dụ thứ ba
là hút á phiện, xì ke, ma túy. Có người nào cha mẹ sanh ra đã nghiền á
phiện, ma túy không? Không bao giờ có. Nguyên ban đầu nó không có, nhưng
do tập hút, ban đầu hút sơ sơ, lâu thành nghiền. Ngày nào không có nó thì
ụa mửa, ngã bờ ngã bụi, rất khổ sở. Khổ đó từ đâu mà ra? Rõ ràng từ mình.
Tại mình thích, muốn nếm mùi tứ đổ tường để tỏ ra ta lịch thiệp, cái gì
cũng biết. Biết rồi thì thành bệnh, muốn bỏ bỏ không được, vì đã nghiền.
Mọi khổ đau
đều do chính mình chủ động tạo, rồi chịu nó hành phạt, làm cho đau khổ trở
lại. Như vậy nghiệp từ ta huân tập, đâu phải ai đem tới cho mình. Nên nói
“nghiệp tánh bổn không”. Câu này là chân lý. Tánh nó vốn không, nếu tánh
có thì mọi người ra đời đều nghiền giống nhau. Nhưng không phải thế, người
không tập thì không nghiền, người tập mới nghiền. Do tánh vốn không, nhưng
tại tập nên thành nghiệp, vì vậy nói tập nghiệp.
Chúng ta ở
chùa có ai dám tập mấy cái nghiệp đó không? Chắc không ai dám. Nếu trước
lỡ có, vô đây cũng bắt phải bỏ. Nhờ bắt bỏ nên nghiệp theo đó cũng hết. Bỏ
nghiệp xấu thì nó hết, còn mạnh khỏe hơn nữa, chớ chết đâu mà sợ. Vậy ba
thứ bệnh nghiền thuốc, nghiền rượu, nghiền á phiện, ma túy gốc đều do mình
tập trong hiện đời, chớ không phải ai đem tới. Đó là bệnh thứ nhất, bệnh
nghiền.
Bệnh thứ hai
là bệnh thích. Trong chúng ta, có ai chẳng thích gì không? Không thích cái
này cũng thích cái kia. Ví dụ ở nhà ta ăn uống những món quen miệng, bây
giờ ai cho món khác, mình không thích. Cụ thể như Phật tử quen ăn chay,
hôm nào đi đâu có người bắt ăn mặn, quí vị liền nói “Tôi thích ăn chay”.
Như vậy thích ăn chay là tôi. Tôi thích. Ăn mặn tôi ăn không được. Cái
thích đó do mình mới tập, chớ hồi nhỏ cha mẹ cho ăn gì ăn nấy, đâu biết
chay mặn chi. Khi đã tập quen rồi, thay đổi mình không chịu. Rõ ràng thích
này thích nọ là cái ta tập.
Trong ăn chay
cũng có cái thích, không thích nữa. Như người thích rau luộc, đem món khác
không thích. Tại sao? Tại rau luộc hợp với khẩu vị của họ. Người thích đậu
hủ, có đậu hủ ăn mới được, không đậu hủ ăn không được. Người thích xào
chiên, có xào chiên ăn mới ngon, không xào chiên ăn không ngon. Mỗi người
thích mỗi thứ. Cái thích đó tự nó có hay do mình tập? Do mình tập, lâu
ngày thành thói quen. Nói tôi thích cái này, tôi thích cái kia, thành ra
cái thích đó là tôi rồi.
Từ cái chưa có
mình huân thành có, tạo ra nghiệp, sống bằng nghiệp. Bấy giờ nghiệp thành
chủ, còn mình mất tiêu. Tất cả những gì ta nói thích, tôi thích cái này,
tôi thích cái kia, đó là thích theo nghiệp nên bị nghiệp hướng dẫn, chớ
không phải mình. Nghiền là nghiệp, thích là nghiệp, chớ không phải mình.
Như vậy đi sâu trong tâm lý mới thấy ta tạo nghiệp rồi biến nó thành mình,
thành cái tôi. Đó là bệnh thứ hai, bệnh thích.
Bệnh thứ ba là
phải quấy. Cái phải của nhóm này đối với cái phải của nhóm khác thành ra
quấy. Tại sao nói phải? Tại sao nói quấy? Chúng ta thấy phải quấy cũng do
huân tập mà ra. Như ở Việt Nam, ông bà cha mẹ dạy con cháu lớn lên có hiếu
thảo. Hiếu thảo với cha mẹ thì kính nhường cha mẹ ăn trên ngồi trước, cha
mẹ già phải nuôi nấng. Dân tộc Việt Nam đã được huân như vậy. Bây giờ qua
Mỹ, tới bữa cơm dọn lên bàn xong xuôi, mấy đứa nhỏ mười hai, mười ba tuổi
trèo lên ngồi trước, rồi ba má ông bà tới sau. Như vậy chúng có hiếu
không? Nếu ở bên này, con cháu lên bàn kiểu đó thì cha nó tát tai rồi “Đồ
vô lễ, không mời ông bà ngồi trước”. Còn bên kia người ta thấy vậy là tốt.
Thế thì cái phải ở Việt Nam với cái phải bên kia giống nhau không? Hoàn
toàn không giống. Nhưng cũng do huân tập thôi, chớ tự nó không có phải
quấy như vậy.
Cái phải của
tập thể này tuân theo qui chế của nó. Tập thể khác đặt ra qui chế ngược
lại, nhưng theo họ là đúng. Khi hai cái phải nghịch nhau đối mặt thì sanh
ra ẩu đả. Bởi vậy mới có tập thể này thắng, tập thể kia thua. Nhẹ thì chửi
nhau, nặng thì đập nhau. Như các nước Tây phương thường có nhiều đảng. Mỗi
đảng có chủ trương khác nhau, chống nhau, mới có chuyện khi tranh cử chửi
nhau. Bên này chê bên kia dở để vận động cho đảng mình thắng. Như vậy phải
quấy nằm chỗ nào? Đó là nói phải quấy của tập thể, đảng phái.
Xét rộng hơn
là tôn giáo này, tôn giáo kia. Bây giờ chúng ta thấy tôn giáo lớn trên thế
giới không tôn giáo nào giống tôn giáo nào hết. Riêng Phật giáo, tôi thấy
Phật có một câu nói thật tuyệt vời: “Chúng sanh nghiệp tập khác nhau nên
họ thích tôn giáo cũng khác nhau”. Bởi vậy trong đạo Phật có vô lượng pháp
môn, mà không nói pháp môn nào chánh hết. Lẽ ra Phật dạy một đường thôi,
tại sao lại nói vô lượng pháp môn? Bởi Phật thấy tường tận căn cơ của
chúng sanh. Kẻ khôn, người dại, kẻ tự chủ, người ỷ lại, đủ hạng. Người
thích huyền bí mà nói thực tế thì họ không nghe, nên Phật phải nói vô
lượng pháp môn.
Tôi thấy không
lẽ mình theo đạo Phật, rồi cứ khen ngợi Phật hoài. Thật tình đối với tôi,
đức Phật rất tuyệt vời. Bởi vì Ngài thường dạy, khi chúng ta suy nghĩ điều
gì, chỉ nên nói: “Đây là suy nghĩ của tôi”, không nên dùng hai chữ phải
quấy. Anh suy nghĩ thế đó là suy nghĩ của anh. Mỗi người tùy ý suy nghĩ,
không đặt phải quấy thuộc về phần ai. Thật tuyệt! Chúng ta học Phật là học
chân lý tuyệt đối, chân lý chung của nhân loại. Cho nên không thể bám chặt
vào phải quấy không thật rồi sanh ra cãi vã, hơn thua, thù oán v.v… Đó là
nghiệp tập thành ra phải quấy.
Như người tu
Thiền thích tự mình phát triển trí tuệ, tự mình dẹp hết phiền não, tự mình
giải thoát, chớ không trông cậy vào ai. Nhưng có những người không trông
cậy kẻ khác, họ làm không nổi. Do đó Phật dạy pháp môn niệm Phật để được
Phật đón về Tây phương. Đừng làm gì hết, cứ tin vào Phật, Phật sẽ đón về
bên ấy.
Hoặc đối với
những người thích sự linh ứng mầu nhiệm thì Phật dạy tụng thần chú, có chư
thiên hộ trì, đủ thứ linh nghiệm. Tụng chú tới tam mật là thân mật, khẩu
mật và ý mật thì đức Phật Đại Nhật sẽ xoa đầu thọ ký. Cũng như niệm Phật
tới nhất tâm bất loạn thì Phật Di Đà sẽ rước về Cực Lạc. Tu thiền thì phải
vô tâm, vô niệm mới thấy cái chân thật hiện tiền. Như vậy do trình độ căn
cơ bất đồng nên Phật dạy nhiều pháp môn.
Chúng ta là
người giáo hóa, đem Phật pháp truyền bá khắp nơi thì phải biết rõ như vậy.
Nếu không, người tu Tịnh độ chê người tu Thiền, người tu Thiền trách người
tu Tịnh độ, rồi tu Mật nữa, choảng nhau rối tung lên. Người niệm Phật nói
niệm Phật về Cực Lạc, có chỗ nơi đàng hoàng, còn tu Thiền không có chỗ nào
về hết, chết đi đâu? Cứ thế mà đặt câu hỏi lung tung với nhau, không hiểu
trọng tâm của Phật dạy là vì chúng sanh nhiều bệnh, nhiều nghiệp nên Phật
có nhiều phương tiện giáo hóa khác nhau.
Cho tới pháp
môn tu Thiền cũng vậy, tùy hoàn cảnh, trình độ Phật dạy khác nhau. Như
ngài A-nan đi giáo hóa gặp ông giữ nghĩa địa, xin Ngài dạy pháp tu. Ngài
dạy ông quán sổ tức, tức đếm hơi thở. Gặp ông làm lò rèn, Ngài dạy quán
bất tịnh đi. Cả hai ông, một người đếm hơi thở một người quán bất tịnh
hoài mà không thấy tiến bộ gì hết. Nghe hai ông trình bày, Ngài thắc mắc
không hiểu tại sao, nên về hỏi Phật:
- Bạch Thế
Tôn, con có dạy hai người đệ tử tu quán sổ tức và quán bất tịnh, nhưng
không người nào đạt kết quả hết. Như vậy là sao?
Phật hỏi:
- Người được
ông dạy pháp quán bất tịnh làm nghề gì?
- Thưa làm thợ
rèn.
- Người được
ông dạy pháp quán sổ tức làm nghề gì?
- Thưa giữ
nghĩa địa.
Phật nói:
- Tại ông dạy
sai, chớ không phải họ tu không có kết quả. Người giữ nghĩa địa thấy thây
ma tới hoài thì phải dạy quán bất tịnh, vì họ chứng kiến những cảnh đó nên
quán mới sâu, mới thành công. Còn người thợ rèn cứ thổi ra thổi vô khì
khịt khì khịt, nên dạy quán sổ tức. Đếm hơi thở hít vô thở ra đều đặn, như
chính công việc của họ thì tu dễ thành công hơn.
Nghe Phật nói
thế, Ngài tìm tới hai người đệ tử dạy lại cách tu. Thời gian sau hai vị
vui mừng báo tin vui với Ngài là chúng con tu có kết quả rồi.
Chúng ta mới
thấy pháp tu phải nhịp nhàng theo công việc, theo tập quán của mình thì dễ
thành công hơn. Không thể bất kể căn cơ, tập quán của mỗi người, tu sao
cũng được. Do Phật biết trình độ, căn cơ, hoàn cảnh của mỗi người nên Ngài
dạy không lầm. Vì vậy mười người tu thì mười người ngộ. Còn chúng ta bây
giờ cứ nhắm chừng mà dạy, không trúng bệnh nên người ta tu hoài không ngộ
gì hết. Lỗi tại mình không biết tùy duyên, tùy căn cơ mà có các phương
tiện khác nhau.
Phật biết
trình độ chúng sanh sai biệt nên lập nhiều pháp môn sai biệt. Tất cả sự
sai biệt đó đều vì đối cơ mà trị bệnh, chớ không phải chân lý tuyệt đối.
Người thời nay có tật, tu pháp nào thì cho pháp đó là tuyệt đối. Người tu
pháp khác tuy cũng Phật dạy, nhưng mình cho đó chưa phải tuyệt đối, nên
sanh bực bội chống đối lung tung. Đó là do trình độ hiểu Phật của chúng ta
quá cạn cợt.
Chúng ta tu
thiền phải biết đây là pháp trị tất cả tâm bệnh. Tại sao? Như tâm có tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đủ thứ phiền não thì có đủ pháp môn để đối
trị. Nhưng bây giờ chúng ta thử hỏi phiền não từ đâu mà ra? Từ tâm vọng
tưởng mà ra. Tâm vọng tưởng từ đâu mà ra? Do đối duyên xúc cảnh phân biệt
mà ra. Như vậy dừng ngay tâm vọng tưởng, tức là trị tận gốc rồi. Các bệnh
sẽ theo đó mà hết. Chỉ tận gốc rất khó, còn chỉ từng pháp đối cơ dễ hơn.
Khi biết được tận gốc rồi chúng ta nhìn ra ngoài thấy rõ lắm, không nghi
ngờ gì nữa.
Chỉ tận gốc
là, vừa có hai niệm liền thành bệnh. Không có hai niệm thì đâu từng bệnh.
Nếu không từng bệnh đâu cần nhiều pháp môn? Hiểu tường tận như thế chúng
ta mới thấy cái hay của người tu từ gốc. Không nhận ra như thế, chúng ta
chỉ tu ngọn ngành, không tột cùng được cội gốc. Học Phật mà không tìm tới
tận gốc thì không bao giờ thấy được lẽ thật.
Thứ tư là bệnh
thương ghét. Phải quấy đã làm khổ thiên hạ biết bao nhiêu rồi, bây giờ lại
còn thương ghét nữa. Chúng ta thử tìm xem tại sao mình thương, tại sao
mình ghét? Có hai lý do. Lý do thứ nhất là do thấy, nghe. Thấy mặt người
đó dễ thương nên vừa ý, nghe tiếng người đó dễ nghe nên vừa ý. Thấy vừa ý,
nghe vừa ý là thương. Nói vừa ý nhưng lại không biết ý mình làm sao?
Trên đời này
không ý ai giống ý ai. Nếu người ta thấy, nghe giống nhau thì chắc có một
số người có đôi bạn, còn một số người ở giá luôn. Phải vậy không? Nhờ thấy
nghe không giống nhau nên người nào cũng có kẻ vừa ý hết. Người này chê,
người khác không chê. Vì vậy trong thế gian ai cũng có đôi bạn được, chớ
không bị lẻ loi. Rõ ràng như vậy. Người này khen đẹp vừa ý, nhưng người
khác lại chê không vừa ý. Như vậy mỗi người có cái thấy, cái nghe không
giống nhau. Bởi thấy nghe không giống nhau nên sự huân tập cũng khác nhau,
do đó cái thương ghét cũng khác nhau. Đó là lẽ thường.
Nếu thương,
ghét không giống nhau thì mọi người trên đời này, không ai được thương
hoàn toàn, cũng không ai bị ghét hoàn toàn. Nếu được đa số thương là tốt
lắm, ưu lắm rồi, thiểu số ghét cũng được. Còn người bị đa số ghét, chỉ một
vài kẻ thương là dở lắm. Nhưng chúng ta có bệnh nghe ai phê phán liền nổi
tức lên. Một trăm người có một người thứ chín mươi chín phản đối, tất cả
còn lại đều đồng tình, mình cũng không chịu nữa. Nghĩa là ta đòi phải 100%
khen ngợi hết mới được, như vậy là tham quá. Phật nói không có lẽ đó. Sống
kiểu đó không bao giờ thấy yên lòng.
Đức Phật ngày
xưa còn bị thiên hạ chửi kia mà, làm sao ta được mọi người thương hết? Chỉ
một số người bằng lòng là quí rồi. Khi ta biết có một số người không thích
mình là chuyện bình thường, thì họ nói gì mình cũng cười thôi, giận làm
chi. Giận là ngu, bởi vì mình tham quá. Hiểu như vậy rồi chúng ta sống mới
yên ổn nhẹ nhàng, không tham lam quá đáng, nên không khổ.
Nên biết
thương ghét cũng là tập nghiệp thôi. Người tập nghiệp nào thì hợp với
những người cùng có tập nghiệp ấy. Người ta hay nói bạn đồng nghiệp thường
bênh vực nhau, đùm bọc nhau. Vì đồng nghiệp nên dễ thông cảm, dễ thương
mến nên họ đùm bọc bênh vực nhau cũng là chuyện hợp lý. Thế nên ai cũng có
chỗ sống, có nguồn an ủi hết. Đó là vì nghiệp tập giống nhau nên thương
yêu nhau, bảo bọc nhau.
Như cùng làm
thầy thuốc, người thầy nào lương thiện thấy những thầy thuốc lương thiện
khác liền xem như anh em. Còn kẻ trộm cướp gặp mấy tên trộm cướp cũng vui
vẻ thân thiện với nhau. Rõ ràng thương ghét đều từ nghiệp tập mà ra, không
phải bỗng dưng có. Còn như hai phái nam nữ thương nhau là do nghiệp tập
gì? Do nghiệp tập ái dục nối tiếp dòng giống trên thế gian, chớ không có
gì hạnh phúc cả. Song con người vì muốn dòng giống đông, xứ sở nhiều nên
tán thán đó là hạnh phúc, để gạt nhau. Trên thực tế vùi đầu vô đó rồi khổ,
chớ có hạnh phúc gì đâu.
Người đời do
ái mà có chồng vợ, rồi sanh con cái. Có con cái thì thương con cái. Con
cái lớn lên lập gia đình sanh con, thì lại thương cháu, cứ thương hoài.
Thương cái này chưa rồi, tới thương cái kia, thương cái kia chưa rồi tới
thương cái nọ. Cứ thế nối tiếp không cắt được dòng ái. Cho nên người tu
cắt gỡ nghiệp tập đó, nên nói tu là thoát ra biển ái, dứt mầm sanh tử. Vì
nghiệp tập ấy to lớn như biển vậy.
Mỗi người ra
đời đều mang theo một số nghiệp của quá khứ hoặc thuận hoặc nghịch. Nên
khi gặp lại nhau, có những thương ghét khác nhau. Lâu nay trong luân lý
Việt Nam có nói: “Cha mẹ nào mà không thương con”. Nhưng có những trường
hợp ngược lại. Tôi đã nghe một người mẹ kể như thế này. Bà có hai đứa con,
đứa thứ nhất đi khỏi thì thôi, nhưng vừa về thấy mặt là bà giận lắm, chẳng
việc gì cũng cảm thấy tức giận, bực bội. Chính bà cũng không hiểu tại sao
như vậy? Còn đứa thứ hai đi đâu vắng thì bà nhớ, bà trông. Nó về liền mừng
rỡ. Bà hỏi tôi tại sao như vậy?
Điều đó thật
khó giải thích, nhưng tôi biết rõ ấy là do nghiệp. Bởi vì trong kinh Phật
có dạy, người ôm ấp lòng thương hay tâm oán thù ai, khi nhắm mắt sẽ đem
theo hai hình ảnh ấy. Vì vậy đời sau gặp lại tiếp tục theo cái thương ghét
trước mà đền trả. Người mình thương nhiều là người thân, người mình ghét
nhiều là người oán.
Thêm một
trường hợp nữa. Vừa rồi có hai vợ chồng nọ tìm gặp tôi, người chồng hỏi:
“Thưa thầy có cha mẹ nào không thương con không?” Tôi nói “Cha mẹ nào mà
không thương con”. Người chồng mới kể lại chuyện của vợ ông. Cha mẹ vợ ở
tại Sài Gòn rất giàu, nhưng không biết lý do gì sanh con ra đem bỏ ngoài
đường. Người khác thấy tội nghiệp đem về nuôi, sau họ trả lại. Trả lại,
cha mẹ vợ cũng đem cho người khác, chớ không nuôi. Lớn lên vợ ông phải ra
đường ăn xin, mà cha mẹ cũng không thèm nhìn. Về sau cô bé có chồng, theo
chồng qua Mỹ… nghe chồng kể tới đó, cô vợ khóc lu bù. Họ hỏi thế là sao?
Tôi trả lời không ra.
Nhưng tôi đoán
có lẽ một phần do gia đình vợ ông mê tín, nghe lời mấy gã thầy bói nói cô
ta sanh nhằm ngày tháng kỵ với cha mẹ gì đó, nên họ mới đem bỏ. Bởi vậy sự
mê tín nguy hiểm vô cùng. Đó là giải thích theo nhân gian, nhưng nhà Phật
bảo như vậy âu cũng là do tập nghiệp của cô với gia đình. Đời trước gieo
rắc oán thù sao đó, bây giờ vừa gặp lại là phải đền trả quả khổ liền. Đã
là tập nghiệp của quá khứ thì hiện tại giải không ra, vì chúng ta không
thấy được quá khứ. Đó là nói cha mẹ với con cái có những trường hợp như
vậy, nếu tập nghiệp thuận thì gặp lại vui vẻ thương mến, nếu tập nghiệp
nghịch gặp lại chỉ khổ thôi.
Tới anh chị em
sanh ra, sống chung trong một gia đình cũng vậy. Người thương kẻ này,
người ghét kẻ kia, không giống nhau. Mà mức độ thương ghét cũng khác nữa.
Đó là máu mủ chung, sống trong một sự giáo dục chung, mà đã khác nhau từ
tư tưởng cho đến tình cảm. Thế nên đối với người ngoài chuyện thương ghét
không đồng là điều dĩ nhiên thôi, đều do tập nghiệp quá khứ mà ra.
Tập nghiệp quá
khứ có những việc không thể hiểu, không thể lường nổi. Thế nên tôi thường
nhắc Tăng Ni nuôi con nít phải khéo, nếu không sẽ biến lòng từ bi thành
nghiệp tập thương ghét, cột trói mãi từ đời này sang đời khác. Ta xuất
gia là từ giã gia đình, cắt ái từ thân, vô lý bây giờ cột lại? Cho nên
quí vị phải thận trọng, liệu mình không thể vượt qua được tập nghiệp thì
thôi tránh, đừng làm.
Thêm tập
nghiệp của mang thân nữa. Chúng ta có đủ phước duyên sanh làm người, hiểu
biết rõ ràng, đi đứng tự do v.v… nhưng nếu sanh ra bị những bệnh nan y như
bại liệt thì ta có còn muốn sống không? Chỉ mới tưởng tượng thế thôi, mình
đã không muốn sống, chết phứt cho rồi. Song ngược lại nếu ta hỏi những
người bị bệnh tật ấy, họ muốn sống không thì họ sẽ đáp: Muốn sống. Rõ ràng
nghiệp phải trả thì phải chịu để trả. Hồi xưa có nhiều người bị bệnh hủi,
lẽ ra không muốn sống nhưng họ vẫn sống như thường. Như vậy lỡ mang thân
do nghiệp tạo ra, mình phải chịu theo nó, chớ không cưỡng lại được. Đó là
nghiệp tập làm người.
Đến nghiệp tập
làm các thân khác như bò, heo, chó… Có con nào muốn chết đâu. Hễ có thân
thì phải chịu, hài lòng với thân đó để sống, để trả. Chúng ta thấy có
những con ngựa phải kéo xe, bị đánh đập đủ thứ hết mà nó có muốn chết đâu,
nó cũng muốn sống. Nếu ai muốn hành hình cho nó chết, nó cự lại liền, làm
dữ chớ không vừa. Như vậy mới thấy nghiệp tập của chúng sanh khi mang thân
rồi, luôn luôn phải đền trả, phải chịu đựng, chớ không muốn bỏ tìm thân
khác.
Đến tập nghiệp
về nết na tánh tình. Tăng Ni ở trong chúng dễ thấy điều này lắm. Một trăm
người là một trăm nết na, một trăm tánh tình, không ai giống ai hết. Cái
không giống đó tại cha mẹ dạy hay tại sao? Như trên tôi đã nói anh em sống
chung một gia đình, chịu sự giáo dục như nhau còn không thể giống nhau;
huống nữa trong chùa cả trăm giòng họ khác nhau. Bây giờ có huấn luyện tới
già cũng không giống như thường. Mỗi người mang một tâm tư, một tánh nết
khác nhau. Kẻ thông minh, người khờ dại, giáo dục mấy họ cũng mang những
nét cơ bản của riêng mỗi người. Như vậy mới thấy tập nghiệp luôn có những
sai biệt giữa người này với người khác. Gương mặt khác, hành động khác, tư
tưởng khác. Tất cả đều từ tập nghiệp mà ra, chớ không ai huấn luyện được
hết.
Khi chúng ta
thọ thân là được kết tụ bao nhiêu thứ nghiệp tập cũ và mới. Bởi vậy phăng
tìm tội nghiệp không có, tại huân tập mà thành. Tất cả huân tập thành thân
đều từ tập nghiệp, mà tập nghiệp không thật nên tất cả thân này cũng không
thật. Thấy tột cùng như thế, ta qui tụ muôn ngàn sai biệt về một tánh
Không thì không còn hai. Được tới chỗ không hai rồi, giả sử một trăm người
có hình dáng, tâm tư, tình cảm khác nhau nhưng đều chung trong cái không
hai ấy, đây gọi là đồng một Phật đạo.
Đạo Phật không
có hai, vị Phật nào cũng như vị Phật nào. Nhiều người thắc mắc không biết
chừng nào đức Phật Di Lặc ra đời? Như trong kinh nói chừng nào giáo pháp
của đức Phật Thích Ca không còn ai biết tới, danh từ Tam bảo không còn ai
biết tới, chừng đó đức Phật Di Lặc ra đời. Tại sao vậy? Vì Phật đạo đồng.
Đồng nên vị này còn, vị kia ra nữa dư. Tại sao đồng? Bởi vì tu tới chỗ
không còn hai niệm khác nhau, đó là tâm thể như như. Tâm thể như như thì
mọi người đều như, ai cũng như ai, có gì khác. Nên biết đạo của chư Phật
không khác, chỉ phương tiện truyền bá mới khác. Vì vậy nên nói Phật Phật
đạo đồng.
Như trên đã
nói thân này đã do tập nghiệp thành, mà tập nghiệp không thật nên rõ ràng
thân cũng không thật. Thấy thế là giác ngộ, là thấu suốt. Căn bản tu chính
là sự giác ngộ, thấu suốt ấy.
Để kết thúc
bài này, tôi dẫn câu chuyện của Tổ Đạo Tín. Lúc mới mười bốn tuổi, ngài
Đạo Tín tới gặp Tổ Tăng Xán đảnh lễ thưa: “Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa
thượng dạy con pháp môn giải thoát”. Tổ nhìn thẳng vào mặt Đạo Tín hỏi:
“Ai trói buộc ngươi?” Thưa: “Không ai trói buộc con”. Tổ bảo: “Không ai
trói buộc, cầu giải thoát làm gì?”. Ngay đó ngài Đạo Tín liền biết đường
vào.
Lâu nay chúng
ta học kinh, nghe nói nghiệp dẫn mình đi trong sanh tử, như vậy nghiệp là
cái trói buộc mình. Nhưng ta thử hỏi lại nghiệp có thật hay không? Nghiệp
không thật, nên tìm không thấy, thành ra đâu thể nói nghiệp trói buộc
mình. Như vậy cầu giải thoát làm gì? Do trước kia ta hiểu lầm nghiệp là
gốc trói buộc mình, bây giờ tìm không ra tức biết nghiệp không thật.
Nghiệp không thật nên hết trói buộc, là giải thoát. Đơn giản làm sao!
Như trên đã
nói, tất cả đều do nghiệp tập mà thành, nghiệp tập có thật đâu. Nó là cái
tạm bợ giả dối do mình tập thành, như vậy ta làm chủ nó chớ không phải nó
làm chủ ta. Bây giờ chỉ cần buông hết nghiệp tập là giải thoát sanh tử.
Muốn buông hết nghiệp tập thì phải buông cái gốc của nó là suy nghĩ phân
biệt, đối đãi. Cho nên hỏi ai trói buộc ngươi, mình tìm đáo để vẫn không
thấy. Không có ai trói buộc thì cầu giải thoát làm gì, như vậy là giải
thoát rồi. Có trói buộc mới mở, còn không ai trói buộc thì mở cái gì, tự
nhiên giải thoát rồi. Vì thế nghe Tổ nói, ngài Đạo Tín thấy được lối vào.
Chư Tổ từ
trước đến sau chung một hệ thống hết sức rõ ràng, không có hai đường. Tổ
Trúc Lâm Đại Đầu Đà trong bài “Sơn phòng mạn hứng”, đã nói bốn câu hay đáo
để:
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mích thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y
cựu vân trang nhất tháp thiền.
Thùy phược
cánh tương cầu giải thoát là ai trói lại mong cầu được giải thoát? Ở đây,
Ngài lấy ngay ý của Tổ Đạo Tín hỏi Tổ Tăng Xán, ai trói lại đi cầu giải
thoát. Tìm cho kỹ thì gốc trói mình là từ nghiệp tập, mà nghiệp tập không
thật. Như vậy ai trói buộc mình mà cầu giải thoát?
Bất phàm hà
tất mích thần tiên là ta chẳng phải phàm đâu cần cầu thần tiên, cầu thánh,
cầu Phật làm gì? Như vậy chúng ta tu cầu thành gì? Chính mình đã Phật, đã
có tánh giác là đã thành Phật, nhưng Phật nhân chớ không phải Phật quả.
Hiện tại vì nghiệp tập nhiều quá nên tuy đã có tánh Phật nhưng chưa thành
Phật. Bản tánh mình là Phật rồi thì còn cầu làm Phật chi nữa cho mất công.
Hai câu này nói rõ rằng tất cả chúng ta không bị gì trói buộc cả, chẳng
qua nghiệp tập hư ảo không thật tạm che khuất tánh Phật. Như vậy tu không
phải cầu bên ngoài mà soi lại mình, trở về mình. Thế thôi.
Viên nhàn mã
quyện nhân ưng lão là con khỉ nhàn, con ngựa mỏi, còn người thì già. Câu
này nói rõ tất cả mọi loài trên thế gian này, đều từ sanh lần lần tới lão
tử, không loài nào thoát khỏi.
Y cựu vân
trang nhất tháp thiền là chỉ còn y nguyên ở vân trang một tòa thiền. Mấy
thứ kia già hết, chỉ một tòa ngồi thiền không già. Để nói lên mọi sự mọi
vật trên thế gian đều bị biến chuyển, vô thường, chỉ cái chân thật nguyên
vẹn của chính mình không bao giờ đổi dời, thì làm gì có sanh tử, có sanh
già bệnh chết.
Chỉ bốn câu
này thôi, chúng ta thấy Ngài đã thấu triệt được lý nghiệp duyên do mình
tạo, rồi tự mình khổ. Bây giờ muốn hết khổ, chỉ cần quay lại nhìn tường
tận nghiệp không thật, tâm niệm phân biệt không thật thì mọi trói buộc
không còn. Chính mình đã có Phật sẵn còn cầu thành tiên thành Phật làm gì
nữa. Làm thân người hay thân loài vật đều sống trong cảnh vô thường sanh
diệt, chỉ có vô niệm của nhà Thiền xưa nay không hai, không đổi.
Như vậy từ Tổ
Đạt-ma đến các Tổ Trung Hoa, sang Tổ Việt Nam cái nhìn không khác nhau.
Chúng ta thấy rõ tinh thần của người xưa dù ở mỗi hoàn cảnh khác nhau
nhưng chỗ ngộ không hai. Vì vậy chúng ta tu, muốn không còn nghiệp tập nữa
thì phải trở về được chỗ tột cùng không hai đó, mới chấm dứt luân hồi sanh
tử, mới tự tại thoát khỏi mọi buộc ràng. |