BẢN CHẤT ĐẠO PHẬT BI QUAN HAY LẠC QUAN ?
Chùa Phổ Đà
Ottawa - 1994
Hôm nay đủ
duyên chúng tôi về đây thăm chư Tăng Ni cùng tất cả quí Phật tử. Tuy ở xa
nhưng quí vị vẫn còn mến đạo ham tu, là điều rất đáng mừng. Vì thế để nhắc
nhở thêm trên đường tu, chúng tôi sẽ nói về bản chất của đạo Phật là lạc
quan hay bi quan cho Tăng Ni cũng như Phật tử hiểu thật rõ.
Nhiều người
hiểu lầm đạo Phật là bi quan. Tại sao như vậy? Điều này không phải không
có lý do. Bởi họ thường nghe kinh Phật nói “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn
nước biển cả”. Nghe có vẻ bi quan quá. Trong kinh A-hàm, Phật kể không chỉ
một đời này chúng ta khóc, mà trong vô số kiếp luân hồi sanh đi tử lại,
chúng ta đã từng khóc, cho nên nước mắt gom lại nhiều hơn nước biển cả.
Mỗi một đời có thể tạm nói, chúng ta khóc chừng một lít nước mắt thôi, thì
trăm ức muôn đời gom lại mới thành nhiều. Đức Phật vì muốn cảnh tỉnh con
người đừng hiểu sai lầm rằng cuộc đời toàn là vui, mà còn có bao nhiêu đau
khổ. Đã khổ ở đời này rồi khổ ở đời kế, nghĩa là không biết bao nhiêu đời
khổ nhiều hơn vui. Qua câu nói này người ta cho đạo Phật là bi quan. Đó là
lý do thứ nhất.
Lý do thứ hai,
trong bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật ở vườn Lộc Uyển, bài Tứ diệu
đế. Đế đầu tiên là Khổ đế. Như vậy mở đầu thời kỳ giáo hóa, đức Phật đã
đưa cái khổ ra trước hết, nên người ta cho rằng đạo Phật bi quan. Đó là lý
do thứ hai.
Lý do thứ ba,
theo giáo lý Nguyên thủy đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo quán pháp Tứ niệm
xứ. Trong đó, đầu tiên là quán thân bất tịnh, kế quán thọ là khổ, quán tâm
vô thường và quán pháp vô ngã. Khi quán thân thấy nhớp nhúa, chúng ta còn
quí thân nữa không? Nếu không quí thân là chán đời rồi.
Kế đó quán thọ
là khổ. Thọ tức cảm thọ của sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tất cả
các cảm thọ đó Phật nói đều là khổ. Tại sao? Chúng ta nghe mắng chửi khổ
đã đành, nghe âm nhạc du dương đâu có khổ, tại sao Phật nói thọ nào cũng
khổ. Như mắt thấy những sắc xấu, không vừa ý ta buồn tức, bực bội nên khổ
đành, còn thấy những sắc đẹp, vừa ý sao gọi là khổ. Lưỡi nếm những vị đắng
cay không vừa ý thì khổ, nếm những vị ngon ngọt sao cũng khổ. Thế nhưng
Phật nói tất cả thọ đều là khổ. Nếu không hiểu sâu chúng ta cũng sẽ đồng ý
đạo Phật là bi quan.
Nhà Phật chia
có ba thứ thọ: một là thọ khổ, hai là thọ lạc, ba là thọ không khổ không
lạc. Tại sao Phật dạy quán tất cả thọ là khổ? Sở dĩ Phật nói thế vì Ngài
căn cứ trên lý vô thường. Có cảm thọ nào không bị vô thường chi phối đâu.
Ví dụ cái lưỡi được ăn ngon, thì trong thời gian món ăn còn ở lưỡi ta cảm
thọ lạc. Chưa tới năm phút món ăn qua khỏi lưỡi, cảm thọ lạc cũng mất đi.
Như vậy tất cả cảm thọ dù khổ, dù lạc cũng đều hiện tướng của vô thường.
Đã là vô thường thì không cái vô thường nào vui hết, tất cả đều đi tới bại
hoại, không có cái vui thực, chỉ là hiện tướng của đau khổ thôi.
Ví dụ như bây
giờ ta xách một giỏ nặng thấy khổ, nếu có ai tới xách giùm lúc đó mình
thấy vui. Như vậy vui từ đâu mà có? Qua hết khổ tạm gọi là vui, chớ không
có cái vui thật. Thế gian chỉ vui trong cái khổ thôi, chớ không có vui
thật. Nỗi buồn kéo dài người ta chịu không nổi, nên tìm thú vui trong chốc
lát để tạm quên sự đau buồn, chớ không có niềm vui chân thật. Vì vậy Phật
nói tất cả cảm thọ đều vô thường, đều đau khổ. Như chúng ta thấy người
già, người bệnh, người chết là khổ hay vui? Là khổ. Già đi lụm cụm nhức
mỏi đủ thứ nên nói là khổ, rồi bệnh đau rên rỉ khổ, đến chết thì càng khổ
hơn. Như vậy ba tướng già, bệnh, chết là tướng khổ. Thế thì tướng trẻ, còn
sung sức là vui chăng? Người trẻ cũng khóc dài dài, chớ không phải trẻ mà
hoàn toàn vui. Bởi vậy cho nên tất cả chúng ta đều bị vô thường thúc đẩy
đi tới khổ. Vì vậy Phật nói tất cả cảm thọ là khổ.
Kế đến Phật
dạy quán tâm vô thường. Tâm chúng ta cứ biến đổi không dừng. Người thế
gian khi thương nhau hay thề thốt nghe oai lắm: “Dầu cho biển cạn, núi
mòn, lòng này cũng không thay đổi”. Nói thế nhưng chẳng bao lâu đổi mất
hết. Như vậy để thấy rằng người ta chỉ đùa gạt nhau thôi, chớ không có
thật. Đạo Phật nói tâm con người luôn thay đổi theo hai chiều, chiều tốt
và chiều xấu. Có khi thay đổi từ dở xấu thành hay tốt. Đó là thay đổi theo
chiều tốt. Có khi thay đổi từ tốt hoặc bình thường tuột xuống dở xấu. Đó
là thay đổi theo chiều xấu. Bởi vậy đức Phật dạy tất cả tâm niệm con người
đều vô thường. Đây là lẽ thực.
Kế đến Phật
dạy quán các pháp vô ngã hay gần hơn quán thân vô ngã. Vô ngã là sao? Chữ
vô ngã này nhiều Phật tử hiểu lầm lắm. Ngã là chủ thể, vô ngã là không có
chủ thể. Ngay nơi thân này thấy không có cái gì là chủ thể hết, chẳng qua
do duyên tứ đại chung hợp thành thân. Khi tứ đại tan rã thì nó mất, chớ
không có chủ thể. Vì vậy nói vô ngã. Nhưng người ta nghe nói không có mình
thật thì buồn, cho đó là bi quan.
Tiến hơn nữa
Phật dạy quán thân duyên hợp không thật, như huyễn như hóa. Nếu thấy thân
này không thật, như huyễn như hóa chúng ta có chán đời không? Kể sơ qua
những điều như thế, đủ để ta thấy nhiều người kết luận đạo Phật bi quan
cũng có lý chứ. Vì vậy ai mới tìm hiểu đạo Phật chút chút, nghe người ta
nói đạo Phật bi quan cũng dễ chấp nhận theo. Từ đó cho rằng tu theo đạo
Phật buồn quá, khổ quá. Tự nhiên Phật tử đâm ra bi quan, chán đời không
muốn tu nữa. Đó là căn bệnh làm cho chúng ta thối tâm.
Như vậy đạo
Phật dạy cho con người bi quan sao? Đây là vấn đề chúng ta cần phải hiểu
rõ. Nếu không Phật tử sẽ lúng túng vì thấy đạo Phật dường như mâu thuẫn.
Bởi vì một đằng đức Phật phân tích cho chúng ta thấy cuộc đời là khổ, thân
này không thật, nhưng đồng thời Phật cũng dạy thân người khó được. Đã được
thân người, chúng ta phải nên trân quí nương tựa nó để tu tập, vượt qua
khổ trầm luân sanh tử. Tại sao Phật chê nó nhớp nhúa, không có chủ thể, vô
thường v.v... mà bây giờ Ngài lại nói “nhân thân nan đắc, Phật pháp nan
văn”, tức là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Như vậy có mâu thuẫn
không?
Trong kinh Tạp
A-hàm Phật nói thế này: Người thế gian khi mất thân này rồi, muốn tìm lại
thân sau, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển. Ngoài biển cả có một
bọng cây nổi, theo sóng trôi dạt khắp nơi, dưới đáy biển có con rùa mù một
trăm năm mới trồi đầu lên một lần để tìm bọng cây chun vào. Chúng ta thử
tưởng xem chừng nào con rùa mù tìm được bọng cây? Khó mà tưởng tượng nổi.
Phật nói chúng ta mất thân này, được trở lại làm người cũng khó như thế.
Như vậy được thân người là rất quí, phải không?
Thế nên người
Phật tử chân chính gặp chuyện buồn, có gì chán đời liền nghĩ tới tự tử, đó
là Phật tử chưa hiểu đạo. Bởi vì tự tử, mất thân này rồi muốn trở lại làm
người không phải là chuyện dễ. Đã được thân này rất là quí báu, chúng ta
lại bỏ nó đi một cách vô nghĩa, đó là tự hủy hoại cái quí của chính mình.
Thế nên đức Phật nói tuy thân này nhớp nhúa, không thật nhưng một khi đã
được thân người, chúng ta phải tôn trọng tuyệt đối. Có hai câu thơ chữ Hán
thế này:
Thiên niên thiết thọ khai hoa dị,
Nhất thất nhân thân vạn kiếp nan.
Nghĩa là:
Ngàn năm cây sắt nó trổ hoa dễ.
Một phen mất thân được lại khó.
Nói cây sắt
chúng ta thấy xa quá, bây giờ nói như cây thiết mộc lan chẳng hạn, một
ngàn năm mới trổ hoa một lần, như vậy mà còn dễ. Chớ một phen mất thân này
rồi, muôn kiếp khó tìm lại được.
Phật dạy hai
điều dường như trái nhau: một là chê thân này, hai là quí trọng thân này.
Tại sao lạ vậy? Ở đây tôi dùng một ví dụ để giải thích cho quí vị hiểu.
Như có người đi biển bị chìm thuyền, kẻ ấy bơi ra ngoài vớ được một gốc
cây mục. Nếu thông minh anh ta phải bám chặt gốc cây mục đó để bơi vào bờ
hoặc chờ người cứu. Như vậy gốc cây mục lúc đó đối với anh ta là quí hay
tiện? Rất quí, vì nhờ có nó anh mới được sống. Tuy nhiên, lên được bờ rồi
anh ta có nên tiếc gốc cây mục kia và quảy theo không? Chắc là không. Đó
là trường hợp người thông minh. Trường hợp thứ hai nếu người vớ được gốc
cây mục rồi, thấy mình không bị chết chìm nên hài lòng, cứ nằm đó chơi
hoài, quí vị nghĩ sao? Chắc chắn phải chết thôi. Đó là trường hợp của kẻ
khờ.
Qua thí dụ
trên tôi muốn nói đạo Phật thấy thân này không quí, không đẹp, không thật,
bởi vậy Phật mới dạy quán bất tịnh. Quán bất tịnh để chúng ta thấy được sự
thật về thân như huyễn này. Nói thân này nhơ nhớp là nói sự thật, chớ
không phải tưởng tượng. Nói sự thật nhưng người ta lại buồn, vì không chấp
nhận sự thật ấy. Quí vị thấy những hãng nước hoa, hãng xà bông thơm ra đời
là để làm gì? Để che đậy sự thật xấu xí kia. Nếu thân này thơm sạch như
mùi hoa sen thì những thứ đó đâu cần. Người ta chế những thứ đó là vì thân
thể hôi quá, phải dùng mùi thơm bên ngoài phủ lên cho giảm bớt mùi hôi.
Vậy mà khi có chút ít nước hoa vào thì hãnh diện, tưởng như mình sạch vậy.
Đó chỉ là sự tưởng tượng thôi, bản chất của nó là không sạch.
Ngày xưa khi
Phật sắp thành đạo, ngồi dưới cội Bồ-đề, lúc đó ma quân kéo tới quấy phá.
Chúng hiện thành mỹ nữ kiều diễm để dụ dỗ Ngài. Phật liền nói: “Đãy da hôi
thối hãy đi, ta không dùng các ngươi”. Nghe thế chúng xấu hổ bỏ đi hết.
Với con mắt của đức Phật, thân này như đãy đựng đồ nhơ, chớ không có gì
quí hết. Đó là do đức Phật thấy đúng như thật, chớ không phải tưởng tượng.
Ngài quán thọ
là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã cũng vậy, đều là những lẽ
thật. Nhưng ở đời ít ai dám nhìn sự thật. Thiên hạ vẫn bảo mình đi tìm
chân lý, nhưng nói sự thật thì họ sợ. Đó là chuyện lạ lùng. Như có ai tới
nhà mình đầu năm chúc anh hay chị mạng sống trong hơi thở, mình vui không?
Không vui. Tại sao nói mạng sống trong hơi thở là nói thực mà mình không
vui? Còn nếu họ chúc sống tới trăm tuổi, ta lại chịu mặc dù biết đó chỉ là
lời chúc hảo thôi. Rõ ràng con người chỉ chuộng những cái không thật. Nghe
nói thật thì sợ, thì buồn. Cho nên tôi nói ít ai dám nhìn thẳng lẽ thật,
cứ bịa chuyện mà tán dốc với nhau thôi.
Cuộc sống trên
thế gian không có lẽ thật, mà ai cũng tuyên bố mình nói thật. Đạo Phật
thấy thế nào nói như thế ấy, chớ không lừa bịp chúng sanh. Ví dụ thấy
người xấu mình nói xấu, nếu họ biết nghe lẽ thật thì không làm điều bậy
xấu nữa. Còn nếu họ xấu mà ta cứ khen tốt, họ tưởng những việc xấu của họ
không ai thấy nên cứ làm xấu mãi. Như vậy nói thật với nói gạt nhau, cái
nào tốt? Nói thẳng sự thật người ta nghe sợ, nhưng tránh được những điều
xấu dở, đó là cứu người. Còn không dám nói lẽ thật, mà nói để được lòng,
vô tình ta dung dưỡng những tội lỗi xấu xa của người, như vậy là hại nhau.
Ai cũng than ở đời khó quá! Tại sao khó? Tại ai cũng sợ sự thật hết. Sở dĩ
người ta kết tội đạo Phật bi quan cũng vì đạo Phật nói lẽ thật. Đó là do
con người điên đảo, chớ Phật không có lỗi.
Trở lại vấn đề
thân này. Như tôi đã nói Phật dạy thân nhơ nhớp, nhưng cũng bảo thân người
khó được. Giống như ví dụ đã nêu, chúng ta được thân tựa như được khúc gỗ
mục trôi giữa biển. Nếu cứ đeo nó ở ngoài biển hoài, không chịu bơi vào
bờ, đến ngày nó rã mình cũng chết chìm luôn. Người khôn ngoan là biết lợi
dụng khúc gỗ mục bơi vào bờ. Lên bờ rồi nó có rã, mình cũng không ngại.
Như vậy đức Phật chỉ rõ thân này nhớp nhúa, vô thường, không lâu bền giống
như ta ôm khúc gỗ mục vậy. Thấy rõ thế rồi chúng ta phải nương thân này,
nỗ lực tu hành để được đến bờ giải thoát an vui. Không nên ôm chấp thân
tạm bợ nhơ nhớp này để rồi tan rã theo nó. Vì vậy đang lúc còn mạnh khỏe,
chúng ta tranh thủ tu tập làm sao tiến lên chỗ cao đẹp hơn. Đó mới là
người khôn ngoan.
Quí Phật tử
kiểm lại xem mình có khôn ngoan không? Hay cứ ghì khúc gỗ mục ở ngoài biển
hoài? Đó là điều tôi muốn nhắc cho tất cả nhớ, chúng ta có thân là phương
tiện tốt để tiến lên, đi tới chỗ an lành. Tuy không quí nhưng vì nó giúp
chúng ta giải thoát sanh tử được nên ta trân trọng giữ gìn nó. Nếu mất
thân rồi làm sao ta tu tiến được, vì vậy mỗi người phải làm sao cho mình,
cho người được vui, được lợi ích. Đó là sáng suốt.
Ngược lại được
thân rồi cứ lo cưng dưỡng nó, hôm nào ngã đùng ra chết, giống như người ôm
ghì khúc gỗ mục ở ngoài biển mà không chịu bơi vào bờ, một ngày kia nó rã
người ấy chết chìm theo, có phải vô ích không? Hoặc có trường hợp khác,
nếu chưa tới bờ mà ta hủy hoại khúc gỗ mục là khôn hay dại? Rất dại. Cũng
vậy, tu hành chưa được gì hết mà giận ai đi tự tử, đó là khờ dại, hủy hoại
một cái rất quí. Thế nên để nhắc nhở cho chúng ta biết lợi dụng thân này
tu hành, Phật mới nói thân người khó được, vì một khi đã mất nó rồi tìm
lại rất khó. Không tìm được thân, làm sao tu hành giải thoát sanh tử đây?
Phật dạy chúng
ta phải siêng tu giống như là người cứu lửa cháy đầu. Quí vị tưởng tượng
đầu tóc mình có một tàn lửa rớt lên, lúc đó ta làm sao? Từ từ dập tắt hay
phải dập liền? Không dám để trễ một phút một giây nào, phải dập ngay. Cũng
vậy, hiểu được thân này vô thường, nhớp nhúa, chúng ta phải gắng sức tu.
Nhờ tu có phước đức, nếu mất thân này ta sẽ được thân sau tốt hơn, chớ
không bị tuột xuống. Tuột xuống tìm lại thân người không được, như con rùa
mù tìm gặp bọng cây rất khó.
Bây giờ tu là
làm sao? Là qui y Tam bảo gìn giữ năm giới. Đạo Phật dạy Ngũ thừa Phật
giáo tức là năm thừa để cho người tu theo. Thừa thấp nhất là Nhân thừa
Phật giáo, tức giáo lý Phật dạy tu để đời này làm người xứng đáng, đời sau
trở lại làm người tốt hơn. Nhân thừa Phật giáo căn cứ trên năm giới làm
gốc. Quí Phật tử kiểm lại xem mình giữ đủ năm giới chưa? Nếu chưa là lui
sụt rồi, cẩn thận đừng để tuột xuống kéo lên không nổi.
Người giữ giới
không sát sanh đời sau sanh ra sống lâu. Giữ giới không trộm cướp đời sau
sanh ra giàu sang, tiền của không bị hao mất. Giữ giới không tà dâm đời
sau sanh ra được thân thể đẹp đẽ trang nghiêm. Giữ giới không nói dối đời
sau sanh ra lời nói lưu loát, ai nghe cũng tin cũng quí. Giữ giới không
uống rượu đời sau sanh ra có trí tuệ thông minh. Năm giới như thế nếu giữ
trọn đời này đã là người tốt, đời sau sanh ra lại còn tốt hơn.
Quí vị kiểm
lại mình tự biết thiếu giới nào thì ráng tu cho đủ. Tối thiểu phải giữ năm
điều đó mới không bị tuột xuống. Người không giữ giới dù có niệm Phật mấy,
Phật kéo cũng không nổi nữa. Cho nên giữ năm giới là gốc của kiếp sau được
trở lại làm người. Đó là tu, chớ không phải vô chùa cạo đầu mới gọi là tu.
Người nào tiến
hơn tùy theo sức của mình tu pháp Thập thiện, đời sau sanh lên cõi trời
sung sướng hơn. Người tu các pháp như Tứ đế, Mười hai nhân duyên thì đời
sau chứng quả A-la-hán, Duyên giác v.v... Nhưng nhớ thấp nhất là trở lại
làm người, đừng để tuột xuống.
Chư Tăng Ni
thương Phật tử là dạy họ tu như vậy, chớ không phải thương là nay mời tới
chùa ăn cơm chay, mốt đi tụng cầu an cho Phật tử, bữa kia đi thăm bệnh bổn
đạo, làm thế không phải là thương. Nhắc Phật tử biết tu để đời này làm
người tương đối tốt, đời sau càng tốt hơn, đừng để tuột xuống. Đó là
thương, là cứu chúng sanh. Cứu cái gì? Cứu cái nhân chớ không phải cứu
quả.
Ở đời, thường
người ta mang ơn kẻ cứu quả hơn người cứu nhân. Ví dụ như có hai người
đang cãi vã sắp đánh nhau, mình tới khuyên can: Thôi, anh hay chị nhịn
nhau chút cho qua, đánh lộn càng khổ thêm, có lợi ích gì? Khuyên như vậy,
họ không thấy quan trọng đâu, nhiều khi còn bực bội nữa là khác. Chừng
đánh nhau lỗ đầu rồi, ai đem đi cứu thương băng bó giùm, họ cám ơn rối
rít. Nhưng lúc đó đã bị thương tích rồi. Người thương mình để trọn vẹn
không bị thương tích lại không cám ơn, có đáng buồn không?
Nếu người
thông minh được bạn hữu nhắc nhở tránh ngay từ cái nhân ban đầu, ta nên
trân quí mang ơn người đó chứ. Còn đợi đến chuốt quả khổ mới cứu thì quá
muộn, dù cứu cũng đỡ phần nào thôi, chớ đâu trọn vẹn như buổi đầu. Hiểu
như thế rồi Phật tử mới biết tại sao quí thầy quí cô xuất gia, ít làm việc
từ thiện lại hay giảng kinh. Vì giảng kinh là nhắc nhở từ nhân, cứu từ
gốc; còn làm việc từ thiện là cứu trên quả, tức phần ngọn. Nắm rõ vấn đề
này, Phật tử mới không buồn khi thấy những tôn giáo bạn làm từ thiện
nhiều, còn đạo Phật chỉ dạy cho người tu hành, chuyển đổi tâm, không tạo
các nghiệp ác là chánh.
Thế nhưng hầu
hết Phật tử bây giờ thích được cứu trên quả. Làm gì đó thất bại hoặc gặp
đau khổ kêu Phật cứu con, bình thường quên Phật mất tiêu. Vui thì quên,
buồn mới nhớ Phật. Như vậy chỉ nghĩ tới Phật trong khi khổ, chớ không biết
Phật lúc khỏe mạnh vui tươi. Tu không phải thế. Ngay bây giờ, lúc còn khỏe
mạnh vui tươi, ta nỗ lực tu, chớ đợi tới khổ tu đâu kịp.
Tôi nói trong
phạm vi năm giới thôi, nếu Phật tử vâng giữ đúng, từ một người hai người
cho tới cả trăm người, ngàn người, hết cả xóm đều giữ đúng năm giới thì
xóm ấy có phải thiên đường chưa? Không có chuyện gì lôi thôi hết. Không lo
sợ ai hại mình, lừa đảo mình, ăn trộm của mình, phá hoại hạnh phúc gia
đình mình, không sợ rối loạn trật tự bởi những chuyện say sưa v.v... Như
vậy xã hội đẹp biết mấy!
Người ta ít ai
chịu nghe những lời thật, chịu nhìn nguyên nhân đúng đắn để tránh quả khổ
đau. Bởi vậy trong kinh Phật mới dạy chúng ta phải gấp tu như cứu lửa cháy
đầu, không thể chần chừ. Vì không ai bảo đảm mình sống tới tám mươi tuổi
mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ, già có cái chết của già, không ai biết
trước và ngăn ngừa được. Đã không bảo đảm đời mình mà ngang đây chưa lo tu
thì sao? Chừng vô thường tới trở tay không kịp. Vì vậy phải lo cứu mình
gấp như cứu lửa cháy đầu.
Đạo Phật dạy
quán thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường v.v... cốt chỉ lẽ thật cho
chúng ta cố gắng tu, để không bị những khổ đau trong đời này và những đời
sau. Khi biết tu rồi chúng ta sẽ hết khổ, giống như người vớ được gốc cây
mục bơi gấp vào bờ, được lên bờ rồi mới thật an lành. Như vậy quan niệm
của đạo Phật bi quan hay lạc quan? Mới nghe dường như bi quan nhưng xét kỹ
đó là thấy rõ lẽ thật để chúng ta vươn lên.
Hiểu vậy mỗi
Phật tử phải cố gắng, tinh tấn tu hành từ năm giới là mức chót, giữ để
khỏi tuột xuống các loài thấp hơn người. Phật tử giữ năm giới đàng hoàng
chân chính rồi, những gì đã qua thì sám hối, kể từ bây giờ ráng tu không
gây tạo hay sai phạm lỗi lầm nữa. Như vậy bảo đảm nhắm mắt, quí Phật tử
khỏi lo sợ gì hết. Khi gần tắt thở có ai hỏi anh chị sẽ đi đâu, quí vị trả
lời tôi sẽ trở lại làm người, bảo đảm 100%. Vì Phật đã dạy như vậy, ta làm
đúng như vậy thì kết quả không nghi ngờ gì cả.
Nếu người
không giữ được giới, lúc gần nhắm mắt hoảng hốt sợ sệt, không biết mình sẽ
ra sao? Nỗi khổ lúc đó không thể kể hết. Đã khổ vì thân bại hoại, lại khổ
vì tâm mờ mịt tối tăm, không biết đường trước ra sao. Cho nên ngay bây giờ
chúng ta biết lo tu thì sau này sẽ hết khổ. Sở dĩ các Thiền sư gần nhắm
mắt, các Ngài cười từ giã mọi người ra đi, vì biết trước con đường của
mình, nên an vui tự tại không lo sợ chi cả.
Người thế gian
gần tắt thở, con cái nhìn cha mẹ khóc lóc bi lụy vô cùng. Rồi kẻ đi bơ vơ,
đau khổ không biết bao nhiêu nữa. Thế nên chúng ta thương cha thương mẹ,
thương anh thương em nên ráng khuyên giữ năm giới. Đó mới là thật lòng
giúp nhau, chớ khóc lóc thở than chỉ càng làm khổ thêm cho người thân, chớ
có ích gì.
Thuở xưa, sau
khi thành đạo rồi đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la-vệ giảng đạo cho Phụ
vương và Hoàng hậu nghe. Nghe xong Phụ vương Ngài và Hoàng hậu phát tâm
qui y Tam bảo, gìn giữ năm giới. Về sau Hoàng hậu tức Di mẫu của Ngài phát
tâm đi tu. Bà xin Phật cho xuất gia, Ngài không bằng lòng. Bấy giờ Tôn giả
A-nan thấy vậy sốt ruột, mới thưa với Thế Tôn rằng:
- Di mẫu có
công ơn lớn với Thế Tôn, khi Hoàng hậu sanh Ngài ra có bảy hôm thì tịch,
Di mẫu là người nuôi Thế Tôn từ nhỏ cho tới lớn khôn. Công ơn kia vô cùng
thâm trọng, mà bây giờ Thế Tôn không cho bà xuất gia, như vậy là phụ ơn Di
mẫu sao?"
Phật trả lời:
- Ta không
quên ơn, mà đã đền ơn Di mẫu rồi.
Ngài A-nan
ngạc nhiên hỏi:
- Bạch Thế
Tôn, Ngài đền bằng cách nào?
Phật nói:
- Khi trở về
thành Ca-tỳ-la-vệ, ta đã khuyên và giải thích cho Phụ vương cùng Di mẫu
hiểu được đạo lý, phát tâm qui y Tam bảo giữ gìn năm giới. Đó là đã đủ để
ta đền ơn song thân rồi.
Qua câu chuyện
của đức Phật, chúng ta thấy người con muốn đền ơn cha mẹ không gì hơn là
khuyên cha mẹ ráng giữ gìn năm giới, để khi chết khỏi đọa đường khổ. Còn
dành dụm tiền cho nhiều, chết làm đám ma cho lớn, chưa hẳn là thương cha
mẹ. Đó là lời đức Phật đã dạy trước kia.
Bây giờ trở
lại vấn đề đạo Phật bi quan hay lạc quan? Như tôi đã trình bày, đạo Phật
nhìn thẳng lẽ thật, nói thẳng lẽ thật. Chúng ta quen hoặc buồn hoặc vui,
nhưng đạo Phật không phải vậy. Đạo Phật không buồn cũng không vui. Vì sao?
Vì thế gian mất thì buồn, được thì vui, chê thì buồn, khen thì vui. Vui
buồn của thế gian là vui buồn đối đãi, không có sự thật. Đạo Phật là đạo
như thật, nói lẽ thật, chỉ cho người ta nhận ra lẽ thật. Nhờ nhận ra sự
thật nên mọi người tập sống đúng như thật, không lừa đảo nhau, không gây
đau khổ cho nhau. Một đời sống mà mọi người đều biết tôn trọng sự thật,
sống đúng như sự thật thì cuộc sống đó có hạnh phúc không? Thấy được lẽ
thật thì đâu có gì phải buồn, phải phiền não.
Hồi xưa có một
thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chánh, ở trong khu rừng cạnh làng. Trong
làng, một thiếu nữ thấy Thầy tu hành chân chánh nên quí kính, mỗi ngày đều
sớt bát cúng dường. Đều đặn như vậy một thời gian, người trong xóm bắt đầu
đàm tiếu lôi thôi. Cô nghe cô buồn, mới thuật lại cho thầy nghe. Cô nói
“Con tới cúng dường là để cho thầy yên tu, đạt đạo. Bây giờ trong xóm
giềng đồn xấu con với thầy”. Thầy Tỳ-kheo nghe thế buồn quá, đợi khi cô ấy
về, Thầy tìm sợi dây định thắt cổ tự tử. Khi đó có một thiện thần hiện ra
hỏi:
- Tại sao thầy
tự tử?
Thầy Tỳ-kheo
trả lời:
- Tôi tu hành
rất thanh tịnh, mà người ta nói xấu, đàm tiếu, chê cười tôi phạm giới nên
tôi tự tử cho rồi.
Vị thần kia
hỏi:
- Giả sử có
người nói Thầy chứng A-la-hán, trong khi Thầy chưa chứng, Thầy có chịu
không?
- Tôi chưa
chứng mà họ nói chứng, tôi đâu có chịu.
- Nếu có người
nói Thầy đọa địa ngục, Thầy có đọa không?
- Tôi tu hành
đàng hoàng, đâu làm gì có tội mà đọa địa ngục.
- Như vậy Thầy
chưa chứng A-la-hán, nói chứng cũng không được. Thầy không xuống địa ngục
nói Thầy xuống cũng không xuống. Bây giờ Thầy không phạm giới, họ nói Thầy
phạm giới, Thầy cũng đâu có phạm mà tự tử?
Nghe đến đó,
thầy Tỳ-kheo thức tỉnh, từ bỏ ý định tự tử. Từ đó Thầy nỗ lực tu hành
nhiều hơn, thời gian sau chứng quả A-la-hán. Chúng ta thấy rõ ràng lời
khen, lời chê không có sự thật. Vậy mà đa số người đều khổ ở lời khen
tiếng chê. Cứ khen là vui, chê là buồn, quí những gì không đúng sự thật.
Chúng ta biết lẽ thật không mắc kẹt cái khen cái chê. Đạo Phật là đạo như
thật, mà đã đúng như thật thì có gì là bi quan, có gì là lạc quan? Bởi vì
bi quan hay lạc quan chẳng qua là cái khen cái chê theo thường tình mà
thôi. Làm cho người ta vui thì họ nói lạc quan, làm cho người ta buồn thì
thành bi quan. Đạo Phật nói lẽ thật, người ta nghe buồn, nhưng thật sự đạo
Phật có bi quan đâu? Kẻ nói gạt khiến thiên hạ vui chưa chắc là lạc quan.
Nếu nói thẳng,
đạo Phật không phải bi quan cũng không phải lạc quan, mà đạo Phật là đạo
nói như thật và hành như thật. Chữ Phật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là
giác. Cho nên gọi Phật-đà tức là Giác giả hay người giác ngộ. Đức Phật do
giác ngộ được lẽ thật, thấy biết lẽ thật nên chỉ dạy lại cho chúng ta lẽ
thật ấy. Chúng ta là đệ tử Phật, tin lời lẽ của Ngài bằng lẽ thật, chớ
không phải bằng tưởng tượng.
Đã là Phật tử,
chúng ta phải cố gắng ứng dụng tu theo lời Phật dạy để khỏi đọa trong
những cảnh khổ. Đừng để mất thân này phải tiếp tục trầm luân trong những
cõi khổ đau, không biết bao giờ được trở lại. Phật chỉ con đường cho chúng
ta không bị trầm luân. Đó là căn bản, là gốc của sự tu. |