TẠI SAO NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI TỤNG KINH, NIỆM PHẬT, TRÌ CHÚ VÀ TỌA THIỀN?
Chùa Quang
Minh - Melbourne - 2002
Buổi giảng hôm
nay tôi nói đề tài rất gần gũi với quí vị: Tại sao người Phật tử phải tụng
kinh, niệm Phật, trì chú và tọa thiền. Phật tử thường nghĩ rằng mình tu
thì phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú và tọa thiền. Tất cả những việc ấy
là một hay khác, chúng ta nên thực hiện hết hay thực hiện từng phần? Đó là
nội dung buổi giảng hôm nay.
Nếu Phật tử tu
vừa tụng kinh, vừa niệm Phật, vừa trì chú, vừa tọa thiền thì quá nhiều.
Phật bảo: “Chúng sanh có nhiều phiền não nên Phật cũng có nhiều pháp môn
để đối trị”. Cho nên mỗi một phương pháp tu là thích ứng với mỗi căn cơ,
mỗi bệnh của chúng sanh. Ai thích hợp với pháp môn nào thì tu pháp môn ấy,
tu một cách triệt để cũng đạt đến kết quả viên mãn. Không nhất thiết tu
một lượt hai ba pháp môn, mà chẳng pháp nào ra pháp nào, rốt cuộc không có
kết quả gì.
Tại sao chúng
ta phải tụng kinh? Khi nói tới tụng kinh, nên biết có hai ý nghĩa quan
trọng. Ýù nghĩa thứ nhất, tụng kinh là để nghe nhớ lời Phật dạy, ứng dụng
tu hành. Ý nghĩa thứ hai, tụng kinh cốt làm sao cho tâm mình không xao
động, không chạy theo ngoại cảnh như lúc bình thường. Cho nên khi tụng
kinh bắt buộc chúng ta phải chú ý từng lời, từng chữ trong kinh, dồn hết
tâm vào kinh, tụng cho đúng. Vừa tụng vừa nghe tiếng tụng của mình, tâm
lắng diệu, tỉnh sáng. Còn vừa tụng kinh vừa nghĩ chuyện này chuyện nọ là
làm mất giá trị của việc tụng kinh. Tụng kinh đúng pháp, tâm chúng ta từ
từ bớt xao xuyến, bớt loạn động. Đó là hiệu quả của tụng kinh.
Tại sao Phật
tử phải niệm Phật? Vì muốn về Cực Lạc. Pháp môn này chắc quí Phật tử đã
từng thực hành. Thật ra niệm Phật là một pháp rất thiết yếu đối với người
Phật tử. Phật tử nào đầy đủ lòng tin là Tín, nguyện sanh về Cực Lạc là
Nguyện và luôn luôn niệm Phật là Hạnh. Nói rõ hơn Tín là tin cõi Cực Lạc
có thật, tin đức Phật A Di Đà sẽ đến đón mình. Hạnh là đi đứng nằm ngồi
luôn luôn niệm Phật. Nguyện là khi lâm chung, mong Phật sẽ đến đón chúng
ta về Cực Lạc. Có đầy đủ ba yếu tố Tín, Hạnh, Nguyện thì niệm Phật sẽ đạt
được kết quả tốt.
Nhưng hiện nay
Phật tử niệm Nam mô A Di Đà Phật, mà đã hiểu ý nghĩa câu niệm Phật ấy
chưa? Nhiều người thế gian hơi khó tính hay giễu cợt: “Ông bà nếu nghe
người ta kêu tên mình hoài chắc giận lắm.” Quí Phật tử nghĩ sao? Niệm Phật
là gọi tên Phật hoài phải không, vậy Ngài có buồn có giận không? Đó là
điều rắc rối, nếu chúng ta không hiểu sẽ không giải quyết được những thắc
mắc của người thế gian.
A Di Đà là
danh hiệu Phật, tức tên của Ngài. Khi chúng ta niệm Phật là niệm Nam mô A
Di Đà Phật. Chữ Nam mô nghĩa là cung kính. Nam mô A Di Đà Phật là cung
kính đức Phật A Di Đà. Nhiều Phật tử đơn giản quá cứ A Di Đà Phật thôi, đó
là gọi tên mà không nói lời cung kính. Còn chúng ta xưng danh hiệu Ngài
với lòng cung kính quy ngưỡng thì không có lỗi. Phật tử cần nên biết điều
này để có ai thắc mắc hỏi, chúng ta giải đáp rõ ràng.
Câu hỏi kế,
chúng ta niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà để Ngài đón mình về Cực Lạc hay
để làm gì? Kinh A Di Đà nói rõ quá, người niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà
từ một ngày cho tới bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì sẽ thấy đức Phật hiện
tiền. Như vậy mục đích Phật dạy niệm danh hiệu đức A Di Đà, trước hết là
để chúng ta nhất tâm bất loạn. Mà nhất tâm là vô niệm, vì không còn một
niệm tạp loạn nào. Nên nói niệm đến chỗ vô niệm, tức là chúng ta niệm Phật
tới khi tâm không còn dấy niệm. Chỉ một tâm hoàn toàn tri giác không dấy
động, gọi là nhất tâm. Bấy giờ nhắm mắt đức Phật A Di Đà và chư Thánh
chúng sẽ hiện ở trước.
Chúng ta thấy
ý nghĩa tu hành quá rõ ràng. Dùng câu niệm Phật với lòng cung kính, quên
hết chuyện thế gian, chỉ nhớ Phật thôi. Nhớ cho tới bao giờ câu niệm Phật
lặng, chỉ còn một tâm thanh tịnh, lúc đó thấy Phật A Di Đà ở trước mắt.
Hình ảnh này nói lên điều gì? Chúng ta tu là để lặng tâm lăng xăng điên
đảo hàng ngày của mình. Muốn lặng tâm đó phải tin tuyệt đối vào đức Phật,
dốc lòng niệm danh hiệu Phật càng ngày càng miên mật. Cho tới bao giờ được
nhất tâm tức là vô niệm thì Phật Di Đà hiện ở trước, không nghi ngờ gì
hết.
Quí Phật tử
niệm Phật tới chỗ miên mật chưa? Chưa. Vậy mà đòi Phật đón mình, lỡ Ngài
quên không đón thì sao? Tại mình tu chưa đến nơi đến chốn nên không có kết
quả, chớ không phải tại Phật quên. Người nào niệm Phật đến nơi đến chốn
cũng đều có kết quả tốt. Tôi kể câu chuyện có thật để quí Phật tử, nhất là
các Phật tử lớn tuổi cố gắng niệm Phật miên mật.
Bà thân của
thầy chúng tôi có nhiều con và tất cả đều ham tu. Thầy chúng tôi là con
thứ chín. Bà ăn chay một tháng mười ngày thôi, nhưng chuyên niệm Phật, lúc
nào cũng có xâu chuỗi huyền trên cổ. Khi bà quét nhà, một tay lần chuỗi
một tay quét, nhổ cỏ cũng vậy, một tay lần chuỗi một tay nhổ. Ngày nào
tháng nào năm nào cũng thế. Đến 84 tuổi bà bệnh nặng sắp tịch, chúng tôi
về trợ niệm. Bà đang mệt nằm trên giường, thầy chúng tôi đứng trên đầu,
Tăng Ni đứng hai bên, con cháu ngồi ở dưới chân cùng nhau trợ niệm cho bà.
Khi bớt mệt bà cười hết sức vui, đứa cháu nội gọi:
- Bà nội, bà
nội! Bà thấy gì mà cười?
Bà nói:
- Thấy Phật A
Di Đà đến rước tao.
Đứa cháu hỏi:
- Có cho tụi
con theo không bà nội.
Bà nói:
- Không được,
rước có mình tao hà.
Rồi bà lại
cười, cười một hồi thì im. Chừng mười phút sau bà cười một lần nữa y như
vậy. Như thế đến ba lần thì bà tắt thở. Cho nên bà chết không ai khóc
được, vì thấy bà cười mọi người đều mừng vui theo.
Quí vị thấy
người niệm Phật chí tâm, đi tới chỗ miên mật thì thấy Phật không nghi ngờ.
Đó là điều xác thật, không phải là tưởng tượng. Chúng ta niệm Phật cốt để
đi tới chỗ nhất tâm. Nhờ câu niệm Phật không nhớ gì hết, nhất là quí cụ
già có bệnh hay nhớ con nhớ cháu. Bây giờ đổi lại, nhớ niệm Phật, nhớ mãi
như thế sẽ quên nhớ con nhớ cháu.
Nếu nhớ con
nhớ cháu khi nhắm mắt sẽ lẩn quẩn theo con cháu nữa, chịu khổ trầm luân
không biết bao giờ ra khỏi. Nên người tu lớn tuổi phải dồn hết tâm lực nhớ
Phật thôi. Chỉ nhớ Phật thì khi nhắm mắt theo Phật, không đi đường nào
khác. Đó là ra khỏi vòng sanh tử, hết khổ đau. Nếu còn nhớ con nhớ cháu
thì còn đi lại trong thế gian, lúc tốt lúc xấu không cố định. Nhiều khi
đời này tốt mà đời sau không tốt. Cho nên Phật tử phải dè dặt cẩn thận.
Các vị Tổ
trong Tịnh độ thường nói câu này: “Người tu Tịnh độ như người đạp gai lấy
gai mà lể” Nghĩa là sao? Tâm chúng ta lỡ lăng xăng lộn xộn quá, bây giờ
muốn hết tâm đó phải mượn câu niệm Phật để trấn áp nó. Do đó câu niệm Phật
giống như cây gai thứ hai để lể cây gai thứ nhất ra. Gai thứ nhất đã lấy
ra rồi, nếu để cây gai thứ hai ở vết thương cũ thì vết thương có lành
không? Không. Lể rồi cũng phải bỏ cây gai thứ hai luôn vết thương mới
lành.
Chúng ta niệm
Phật nhập tâm rồi, được miên mật không còn một niệm nào chen lẫn, cuối
cùng câu niệm Phật cũng lặng luôn. Đó mới gọi là nhất tâm. Khi ấy nhắm mắt
thấy Phật. Phật A Di Đà, Trung Hoa dịch là vô lượng thọ, vô lượng quang.
Vô lượng thọ là sống lâu vô lượng, Vô lượng quang là ánh sáng vô lượng.
Sáng suốt và sống mãi đó là danh hiệu của Phật A Di Đà.
Đức Phật dạy
tất cả chúng ta khi tu đến chỗ kết quả viên mãn sẽ có đầy đủ ba thân: Pháp
thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân không còn chết nên gọi là vô lượng
thọ. Pháp thân luôn luôn sáng suốt, không mờ tối nên gọi là vô lượng
quang. Quí Phật tử thấy Phật A Di Đà tức thấy được Pháp thân của mình. Bấy
giờ Phật khỏi đón về Cực Lạc, ta cũng nhập Niết-bàn được như thường. Kinh
nói thấy Phật hiện tiền chính là ý này, chớ không phải mong Phật đón về
Cực Lạc mà được thấy Ngài hiện tiền.
Chúng ta tu
nếu không nắm vững, không biết lối đi, cứ lẩn quẩn hoài. Càng niệm Phật
càng quên chuyện đời, niệm càng lâu càng nhiều thì việc đời càng giảm. Cho
tới câu niệm Phật cũng lặng luôn, chừng đó nhất tâm bất loạn, đâu còn mong
muốn sanh về chốn nào nữa. Chính khi ấy đức Phật mới hiện tiền. Phật đó
chính là Phật pháp thân của mình. Đó là kết quả của sự tu.
Hiện giờ thân
của chúng ta là thân gì? Báo thân. Báo là thân theo quả báo mà có. Người
quả báo lành được thân đẹp, ít bệnh. Người quả báo dữ tuy được thân người
mà bệnh hoạn tàn tật. Thân chúng ta không giống nhau tùy theo phước nghiệp
của mỗi người. Đã là thân quả báo, chúng ta không thể nào giữ được mãi, vì
hết nghiệp nó phải đi.
Còn Hóa thân ở
đâu, chúng ta có không? Thật ra chúng ta cũng có Hóa thân mà ít ai biết.
Tôi nhớ trong kinh Pháp Hoa, phẩm Hiện Bảo Tháp đức Phật Thích-ca giới
thiệu với đại chúng trong tháp báu có thân của đức Phật Đa Bảo. Lúc đó chư
tăng hỏi làm sao thấy được thân đức Phật Đa Bảo. Phật Thích Ca trả lời:
Muốn thấy thân Phật Đa Bảo thì các Hóa thân của Ngài đi làm Phật sự khắp
nơi tụ họp về, mới thấy được. Thân Phật Đa Bảo trong tháp tượng trưng cho
Pháp thân, các Phật đi làm Phật sự khắp nơi là Hóa thân. Khi nào Hóa thân
tụ hội về một chỗ thì thấy được Pháp thân.
Chúng ta cũng
có Pháp thân mà không thấy vì Hóa thân đi làm việc nhiều quá, chạy ngược
chạy xuôi đầu này đầu nọ liên miên. Chừng nào Hóa thân tức những niệm vọng
động dừng lặng, bấy giờ Pháp thân mới hiện ra. Một ngày quí vị nghĩ chừng
bao nhiêu việc? Có khi chạy từ đây qua Mỹ, rồi trở về Việt Nam… xong lại
chạy tiếp, chạy liên miên. Thử hỏi làm sao Pháp thân xuất hiện được?
Tất cả kinh
Phật dạy ý không khác, đều nhắc chúng ta phải qui tụ tâm lăng xăng về chỗ
lặng lẽ, không còn dấy động nữa. Lúc đó Pháp thân hiện ra, là giải thoát
sanh tử. Còn nếu chạy theo tâm lăng xăng, tích cực làm Phật sự trong cõi
ngũ dục, thì ngược xuôi trong ba cõi hoài, không có ngày ngừng. Chúng ta
tu cố gắng làm đúng như lời Phật dạy, nhất định sẽ được kết quả tốt. Đó là
tôi nói về ý nghĩa niệm Phật.
Tại sao chúng
ta trì chú? Trì chú là sao? Thí dụ quí bà khi gặp tai nạn hay qua chỗ tối
sợ ma, thì trì chú để bớt sợ. Quí vị tưởng nhờ thần chú ma quỷ hoảng chạy.
Như vậy trì chú để dẹp ma dẹp quỷ hay tai qua nạn khỏi. Hiểu như thế là
quá sơ sài. Phật không dạy điều này bao giờ. Vậy ý nghĩa trì chú ra sao?
Mật tông dạy
chúng ta trì chú muốn được kết quả viên mãn thì phải tam mật: là Thân mật,
Khẩu mật và Ý mật. Mật là thâm diệu. Thâm diệu tới chỗ ba nghiệp lặng lẽ
hoàn toàn, thân lặng, khẩu lặng, ý lặng. Nói tam mật chớ động cơ chủ yếu
là ý. Ý mật thì tất nhiên thân, miệng cũng mật, dù ta vẫn đi vẫn nói nhưng
tâm luôn thanh tịnh. Ý lặng yên thì còn lăng xăng không? Không. Như vậy
trì chú được tam mật có khác với nhất tâm đâu.
Cho nên trì
chú cũng với mục đích đưa chúng ta tới chỗ ý mật, tức là nhất tâm. Vì vậy
niệm Phật, trì chú đều gặp nhau ở chỗ cứu kính, chỉ khác nhau ở phương
pháp. Nếu niệm Phật muốn có kết quả thì khởi đầu phải Tin. Tin cõi Cực
Lạc, tin đức Phật A Di Đà, rồi tới Hạnh, Nguyện. Còn trì chú khởi đầu là
tin sự huyền bí của câu chú. Như chú này linh lắm, khi trì chú này được
các vị thần ủng hộ, ma quỷ chạy hết. Một bên tin Phật, một bên tin sự linh
nghiệm, mầu nhiệm của thần chú. Nhờ lòng tin đó hành giả cố gắng niệm. Kết
quả một bên được nhất tâm, một bên được ý mật. Rõ ràng hai phương pháp
khác nhưng cứu kính không hai.
Tại sao chúng
ta tu thiền định? Hiểu hai pháp trên thì sẽ hiểu được pháp tu thiền định.
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm
lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong
Bát chánh đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại
thừa Phật dạy Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ
sáu là trí tuệ. Như vậy có giống kinh Di Đà không? Định giống như niệm
Phật được nhất tâm, Tuệ giống như thấy Phật Di Đà vô lượng thọ, vô lượng
quang. Rõ ràng Kinh và pháp tu thiền không rời nhau. Hệ Nguyên thủy đạt
tới Chánh định là chót, nhưng hệ Đại thừa từ định phải qua trí tuệ mới rốt
ráo. Đúng như kinh Di Đà, Phật dạy nhất tâm rồi thấy Phật Di Đà.
Chúng ta tu
thiền định là tu thế nào? Nhiều vị không hiểu nói người mới tu thiền phải
quán hơi thở tức là sổ tức. Sổ tức là đếm số, hít vô cùng đếm một, thở ra
sạch đếm hai, đếm tới mười bỏ, rồi đếm trở lại một. Cứ như vậy đếm hoài cả
buổi có lợi ích gì đâu, mầu nhiệm gì đâu. Còn người ta niệm Phật có phước.
Nhưng tại sao
chúng ta đếm hơi thở? Vì muốn dừng tâm lăng xăng. Như hít vô nhớ mình hít
vô tới đâu, thở ra nhớ mình thở ra tới đâu, rồi nhớ số nữa. Bắt nhớ như
thế để tâm quên chạy theo vọng tưởng. Pháp tu có khác nhưng trọng tâm
không hai, cốt dừng tâm chạy ngược chạy xuôi hàng ngày. Dừng được tâm này
là định nên nói thiền định. Thiền định là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là
Tĩnh lự, nghĩa là lặng cái suy nghĩ lăng xăng, chớ không gì lạ.
Qua giai đoạn
đếm hơi thở rồi đến giai đoạn theo hơi thở. Khi ta chú tâm đếm hơi thở,
tâm không chạy bậy, lần lần thuần thục ta bỏ đếm, chỉ theo hơi thở thôi.
Nghĩa là hít vô tới đâu biết, thở ra tới đâu biết. Theo dõi như người
thiếu nợ trốn chủ, bất thần chủ nợ tìm gặp, nên theo sát lưng không bỏ. Tu
cũng vậy, ban đầu đếm hơi thở, sau đó theo hơi thở thật khít khao để tâm
không tán loạn. Đó là phương tiện buổi đầu của người tập tu thiền.
Ở đây chúng
tôi dạy tu thiền hơi khác hơn một chút. Tôi dạy khi niệm dấy khởi lên biết
nó là hư dối, bỏ. Không chạy theo mà cứ chỉ mặt nó hoài, lâu ngày nó tan
mất. Bởi vì khởi nghĩ của mình không thật, mà mê theo nó thì thành thật.
Như giận người A, khi dấy niệm giận mình theo niệm đó phát nổi hung hăng,
muốn chửi đánh người ta, thành ra có tạo nghiệp. Còn vừa nhớ tới chú A
liền bỏ không nghĩ, thì đâu còn tức mà muốn đánh chửi người ta. Manh mối
ban đầu vừa mọc mầm liền thấy, chỉ mặt nó thì nó dừng lại nhẹ nhàng.
Niệm Phật là
dùng câu niệm để dẹp vọng tưởng, trì chú là dùng câu thần chú để dẹp vọng
tưởng, còn tọa thiền dùng trí thấy thẳng, chỉ thẳng vọng tưởng để dẹp nó.
Nhưng chỉ thẳng để dẹp là thấy ngay lẽ thật, chớ không mượn phương tiện để
dẹp. Vì vậy tới chừng vọng tưởng lặng là xong, không còn gì để bỏ nữa. Như
vậy tu tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền, trọng tâm đều dừng các
niệm lăng xăng. Tất cả pháp Phật dạy không có ý khác, chỉ khác ở phương
tiện thôi.
Thiền tông dạy
trực chỉ nhân tâm tức chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật là nhận ra
bản tánh của mình thì thành Phật. Chỉ thẳng tâm người là tâm lăng xăng,
tâm điên đảo đó. Nó vừa dấy lên, chỉ mặt rầy thì nó lặng. Cho tới bao giờ
tâm ấy hoàn toàn lặng hết thì tánh Phật hiện ra. Tánh Phật là Pháp thân,
ngang đó gọi là kiến tánh thành Phật, tức nhận ra bản tánh thì thành Phật,
cũng như thấy Phật Di Đà. Vì vậy người tu thiền không đặt lòng tin mà đặt
trí tuệ lên hàng đầu. Nhìn thẳng thấy rõ ràng, không để nó lừa gạt mình.
Nó rủ đi đâu là chận liền, không cho nó dụ dỗ.
Ba pháp tu tuy
nói ba nhưng gốc chỉ có một. Cho nên người tu Tịnh độ không nên chê người
tu thiền. Người tu thiền không nên chê người tu Mật v.v… Chỉ chê là chê tu
không đúng thôi. Nếu tu đúng lời Phật dạy thì pháp nào cũng đưa đến nhất
tâm, đưa đến chỗ cứu kính thành Phật.
Phật tử bây
giờ có bệnh, mình tu thích hợp với pháp này liền chê pháp của người khác,
khen pháp của mình. Do đó tâm lăng xăng càng tăng trưởng chớ không giảm.
Như vậy đâu phải tu. Vì tu là để giảm suy nghĩ lăng xăng, rối bời đó mà
mình tu càng ngày càng tăng là không đúng rồi. Cho nên thấy người tu niệm
Phật, ta hoan hỷ nói “Chị tu niệm Phật tốt. Ráng niệm cho nhất tâm”. Thấy
người tu trì chú, nói “Anh tu trì chú tốt. Ráng trì cho tới tam mật”. Thấy
người tu thiền nói “Anh tu thiền tốt. Ráng ngồi thiền cho được định”. Như
vậy ai cũng tốt hết.
Người biết tu
phải hiểu cho thấu đáo để không hờn phiền những người đồng đạo. Nếu không
khéo sẽ dẫn tới tình trạng người này trách người kia, người kia phiền
người nọ. Chính huynh đệ trong đạo chỉ trích nhau hoài, không hòa thuận
nói gì tu hành. Bởi vậy nên tất cả quí vị phải thấy rõ điều này.
Tại sao Phật
dạy chúng ta phải dẹp cái nghĩ lăng xăng lộn xộn của mình? Những ý nghĩ
quấy dẹp thì phải, nhưng ý nghĩ phải tại sao cũng dẹp? Nếu nghĩ xấu sai,
ta sẽ nói làm theo nghiệp ác. Nếu nghĩ tốt dĩ nhiên ta nói làm theo nghiệp
lành. Như vậy nghiệp lành, nghiệp ác từ ý nghĩ mà ra. Nghiệp ác thì đọa
vào đường dữ, nghiệp lành thì sanh về cõi lành. Nhưng dù lành hay dữ cũng
còn trong dòng trầm luân sanh tử, còn trở đi trở lại mãi trong ba cõi là
còn khổ. Tại sao nghiệp lành vẫn không giải thoát? Vì nghiệp lành thì sanh
cõi lành, như được làm người sung sướng. Nhưng mấy chục năm hưởng hết
phước rồi cũng chết. Hoặc sanh lên cõi Trời, ở cảnh cao sang muốn gì được
nấy, nhưng hết phước cũng đọa xuống trở lại. Lên lên xuống xuống không có
ngày cùng. Chỉ có ra khỏi dòng sanh tử mới được giải thoát, hết khổ đau.
Bây giờ nếu
chúng ta tu tới nhất tâm, không còn nghĩ thiện nghĩ ác thì đi đâu? Hết
nghĩ thì hết nghiệp, hết nghiệp là hết sanh tử, đó là giải thoát chớ gì.
Chỗ cứu kính chân thật đức Phật chỉ cho chúng ta thấy là cái sáng suốt,
bất sanh bất diệt nên gọi là Niết-bàn, vô sanh. Không có sanh lấy gì có
tử.
Đức Phật vì
thương chúng sanh mê lầm đuổi theo hư ảo cho là mình, rồi cả ngày sống
trong cái hư ảo đó, chịu vô lượng khổ đau. Đã sống trong hư ảo thì dù làm
việc tốt cũng chưa hẳn là tốt. Ví như có hai nhóm đi làm từ thiện. Nhóm A
được nhiều người hoan nghênh, nhóm B cũng làm từ thiện nhưng lại bị nhiều
người chỉ trích. Vậy nhóm B có có vui nhìn nhóm A không? Bị thua thì giận
rồi, mặc dù giận vì làm việc thiện.
Bởi vậy nói
tâm của chúng ta không chân thật. Vì nó hư ảo nên biến chuyển luôn. Do đó
nhiều người lúc nhỏ rất hiền lành, nhưng lớn lên bị ngoại duyên không tốt
tác động lâu ngày trở thành hung dữ. Còn có người lúc nhỏ hung dữ, nhưng
lớn lên nhờ gần gũi duyên tốt nên trở lại hiền lành. Tâm ta luôn đổi thay,
không đứng một chỗ. Gặp môi trường tốt, thầy tốt, bạn tốt thì tốt theo,
gặp môi trường xấu, thầy xấu, bạn xấu thì xấu theo. Tâm đó tùy thuộc ngoại
cảnh chớ không tự làm chủ được. Vậy mà tất cả chúng ta đều đuổi theo nhận
nó là mình, thử hỏi có đáng buồn không?
Nếu chúng ta
không nhận những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn đó là tâm mình, thì dù ở chung
cả trăm ngàn người cũng không có chuyện cãi vã, nói gì đánh đập nhau. Sở
dĩ chúng ta ở chung có chuyện này, chuyện kia là vì không đồng ý nhau. Mỗi
người đều cho cái suy nghĩ là đúng, là tâm mình nên rồi hơn thua, phải
quấy, oán thù đủ chuyện. Nuôi tâm ấy như nuôi kẻ cướp trong nhà vậy. Do đó
Phật nói: “Nhận giặc làm con”. Vì nhận giặc làm con nên cưng nó, nghe lời
nó, không chịu bỏ nó. Đã vậy thì đời ta cứ đi trong trầm luân đau khổ
không có ngày cùng.
Muốn ra khỏi
dòng sanh tử không gì hơn là lặng được chú tạo nghiệp đó. Nghĩa là đừng
nhận nó làm con nữa, đuổi nó ra khỏi nhà. Dễ quá, nó không phải là con
mình thì đuổi đi. Nhưng khổ nỗi ta lại thương nó, không chịu đuổi. Khi
thấy chúng sanh mê lầm như vậy, đức Phật có thương không? Có. Chúng ta
thấy tượng đức Phật A Di Đà đứng duổi tay xuống, phía dưới là chúng sanh
đang lặn hụp giữa biển cả mênh mông. Ngài đưa tay xuống chờ chúng sanh
ngốc đầu dậy thì kéo liền. Nhưng chúng sanh cứ mải miết lặn hụp không chịu
đưa tay cho Ngài kéo. Ngài sẵn sàng vớt mà mình không chịu đưa tay.
Mỗi một ngày
hết mười hai tiếng chúng ta chạy theo cái hư giả, chỉ còn một hai tiếng
trở về cái thật, nên ráng buông xả cho các vọng tưởng lặng xuống, giành
quyền làm chủ phần nào. Nếu không mình cứ bị nó làm chủ mình hoài. Ngày
nào ta giảm bớt được hơn thua, phải quấy thì ngày đó an vui. Ngược lại,
nếu cứ để nó lôi dẫn chạy ngược chạy xuôi hoài, khi nhắm mắt chắc chắn
phải luân hồi sanh tử.
Phật tử tu mà
không hiểu, cứ ỷ lại vào thầy. Tháng nào cũng đi chùa cúng thầy một ít,
chừng nào nhắm mắt mời thầy tới độ cho về Cực Lạc, khỏe ru. Tu như vậy thì
oan cho đạo Phật quá. Quí vị phải nhớ chúng ta lo cho Tam bảo, để việc
giáo hóa mọi người thức tỉnh được trường tồn, được phát triển. Muốn thế
bản thân mình phải tu, rồi tạo điều kiện hỗ trợ Tam bảo tồn tại lâu dài
nơi thế gian, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Hôm nay tôi
nhắc những điều thiết yếu cho tất cả quí Phật tử biết, ứng dụng tu đúng
pháp Phật dạy. Bây giờ quí vị đã hiểu tại sao chúng ta phải tụng kinh,
niệm Phật, trì chú, tọa thiền rồi, mong tất cả thực hành đúng theo chủ ý
Phật dạy. Đừng vì sự tu mà tạo phân biệt, nuôi lớn thêm phải quấy đối đãi,
trái xa với bản ý Phật dạy, cũng là tự vùi lấp sự giác ngộ của mình.
Hiểu vậy trên
đường tu tôi tin chắc quí vị sẽ tiến, sẽ đạt được kết quả tốt đẹp. |