NGHIỆP THỨC VÀ TÁNH GIÁC
Làng Cây Phong
. 1994
Hôm nay chúng
tôi sẽ giảng về đề tài Nghiệp thức và tánh giác, để quí Phật tử nhận rõ
trên đường tu hành, chúng ta có phương pháp cụ thể như thế nào.
Ngày xưa ở
Trung Quốc có Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm nổi tiếng là nhanh nhẹn nhất.
Một hôm có người đến hỏi Ngài:
- Bạch Hòa
thượng, con chó có Phật tánh không?
Ngài trả lời:
- Không.
Vị này đã từng
đọc kinh Đại thừa, nghe thế khởi nghi, hỏi tiếp:
- Bạch Hòa
thượng, trong kinh nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tại sao con chó
lại không có Phật tánh?
Ngài trả lời:
- Vì nghiệp
thức che đậy.
Hôm khác, cũng
có người đến hỏi giống như vậy:
- Bạch Hòa
thượng, con chó có Phật tánh không?
Ngài đáp:
- Có.
Vị kia thắc
mắc:
- Đã có Phật
tánh tức là sáng suốt, tại sao lại chui vào trong đãy da lông lá lù xù
vậy?
Ngài trả lời:
- Vì biết mà
cố phạm.
Một sự việc mà
hai lối trả lời khác nhau, như vậy có mâu thuẫn không? Đó là lối trả lời
của Thiền sư khiến người nghe hơi khó hiểu. Chúng tôi sẽ giải thích cho
quí vị thấy rõ ý nghĩa thâm thúy trong từng câu đáp của ngài Triệu Châu.
Người trước
hỏi con chó có Phật tánh không, Ngài trả lời không. Vị ấy hỏi tiếp, tại
sao tất cả chúng sanh đều có Phật tánh mà riêng con chó không có. Ngài nói
vì bị nghiệp thức che đậy. Chúng ta đọc kinh điển Đại thừa, ai cũng hiểu
Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đã thế tại sao Ngài nói con
chó không có Phật tánh? Vì nghiệp thức che đậy. Ví dụ đêm rằm trăng sáng
nhưng mây đen che mịt mù, dưới này chúng ta nhìn lên không thấy mặt trăng.
Bấy giờ có người hỏi “hôm nay có trăng không?” Có, nhưng mình không thấy,
nên đáp không. Không đây tức là vì mây che không thấy, chớ không phải
không có mặt trăng. Nói vậy cũng hợp lý.
Cũng thế, Phật
tánh dụ như mặt trăng, mây đen che dụ cho nghiệp thức. Chúng ta vì nghiệp
thức lăng xăng liên tục che mờ Phật tánh nên mình không thấy được. Vậy
nghiệp thức là gì? Tức thức tình phân biệt của chúng ta. Suy nghĩ việc này
việc nọ, dừng lại không được, đó là ta đang chạy trong nghiệp thức. Nói
cách khác sự phân biệt theo thói quen chính là nghiệp thức.
Thói quen thế
nào? Như chúng ta quen suy nghĩ về những vấn đề hơn thua, phải quấy, tốt
xấu… Khi ngồi lại nói chuyện lúc nào cũng xoay quanh những vấn đề ấy, vì
nó đã trở thành thói quen của mình rồi. Người hay suy nghĩ về danh dự vinh
nhục, khi ngồi lại những thứ nhục vinh cứ trồi lên hụp xuống, kềm không
nổi. Tóm lại những thói quen nào chúng ta đã tập, khi ngồi lại nó trồi
lên, tâm duyên theo không dừng, nên tánh Phật bị che khuất.
Tuy đức Phật
dạy chúng ta có Phật tánh, nhưng mình chưa thấy, chỉ tin thôi. Tại sao
không thấy? Vì nghiệp thức liên miên che đậy. Ngồi thiền cả một hai giờ,
nhưng chưa chắc đã được mười phút, hai mươi phút hoàn toàn lóng lặng,
không có niệm nào dấy khởi. Niệm niệm liên tục dấy khởi cũng như mây đen
liên tục kéo đến che khuất mặt trăng, làm sao ta thấy được trăng sáng?
Muốn thấy được mặt trăng thì mây phải tan. Muốn thấy được Phật tánh thì
phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy
được tánh Phật.
Cho nên các
Thiền sư dạy chúng ta tu thiền cốt để dừng nghiệp thức. Nghiệp thức dừng
lại thì trí tuệ mới sáng. Giả sử chưa dừng được hoàn toàn nhưng thưa thưa
bớt, chúng ta cũng thấy sáng phần nào. Tu thiền là để trí vô sư hiển lộ.
Như khi quí Phật tử đọc kinh hay nghe quí thầy giảng, có vấn đề gì nghi,
chưa hiểu rõ nên trong lòng cứ chuyên chú vào vấn đề đó, không tan được.
Bất chợt hôm nào trong lúc ngồi thiền, tuy mình không suy nghĩ về vấn đề
đó, nhưng bỗng dưng nó sáng lên, mọi nghi ngờ tiêu tan hết. Đó là do mây
nghiệp thức lặng xuống hết nên ánh sáng của tánh giác hiện ra, khiến chúng
ta thấy được mọi vấn đề thông suốt, rõ ràng.
Người tu thiền
nỗ lực trong một thời gian dài sẽ có những khoảng sáng như thế. Từ đó
chúng ta mới thấy giá trị của sự tu. Nếu không như thế, nhiều vị tu hoài
vẫn không thấy gì lạ hết. Như đức Phật do tâm thanh tịnh, Ngài mới chứng
được Túc mạng minh nhớ lại vô số kiếp về trước của mình như những chuyện
hôm qua. Nếu vị nào để ý sẽ thấy, khi ngồi thiền được yên chúng ta sẽ nhớ
những chuyện cũ một cách rõ ràng, dù mình không tác ý nhớ. Nhiều người bực
mình tự trách “giờ này không phải giờ nhớ, tại sao lại nhớ?” Nhưng đó là
chuyện đương nhiên thôi. Bởi vì khi tâm chúng ta yên, những gì mình quên
nó hiện ra. Chỉ yên có một chút mà nhớ được chuyện mấy năm về trước, huống
là hoàn toàn yên định. Cho nên đức Phật nhớ tới mấy muôn kiếp về trước,
đâu phải chuyện lạ.
Qua những kinh
nghiệm đó chúng ta mới thấy những gì đức Phật tu được, mình cũng có thể tu
được. Nhưng vì khả năng yên tịnh của chúng ta ít quá nên nhớ những việc
gần, không nhớ những chuyện xa. Nếu tâm hoàn toàn thanh tịnh trong thời
gian dài, tự nhiên những chuyện xa mấy ta cũng nhớ được. Bởi vậy những
người ngoại đạo tu thiền cũng có Thần túc thông. Chúng tôi đọc trong kinh
Trường A-hàm, Phật nói nhiều vị ngoại đạo tu nhớ được ba kiếp hoặc sáu
kiếp, mười kiếp… Nhưng Phật kết luận trí nhớ ấy cũng còn giới hạn, quá tầm
đó họ không biết. Chỉ có đức Phật mới nhớ được vô số kiếp.
Nhiều người
nghĩ mình tu thiền, bỏ hết chuyện đời không biết sau này có bị lơ lơ lửng
lửng không? Vì họ sợ không nhớ, không học thêm thì dễ quên. Không phải
vậy. Chúng ta quên những thứ lăng xăng lộn xộn mà nhớ bằng trí dụng. Các
chủng tử từ nhiều đời nằm trong tàng thức không mất, ta thấy biết rõ ràng.
Cái đó không thể tưởng tượng nổi, vì nó quá sức của người phàm. Vì thế có
những điều của Phật nói tới bây giờ chưa ai tin nổi, vì nó vượt quá xa sức
tưởng tượng của chúng ta.
Người tu thiền
khi ứng dụng tu phải cố dẹp tan đám mây nghiệp thức từ lâu đời. Đám mây ấy
tan rồi, chừng đó chúng ta không cầu sáng tự nó cũng sáng. Phật tử thường
tụng kinh Bát-nhã, thấy đoạn chót nói chư Bồ-tát tu tập không có sở đắc.
Vì không có sở đắc nên Bồ-tát vượt qua hết những điên đảo vọng tưởng, cứu
kính đạt Niết-bàn. Ba đời chư Phật cũng vì không có sở đắc mà chứng Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên trong nhà thiền thường nói vô đắc mà
đắc.
Đọc kinh nếu
không khéo, chúng ta sẽ thấy toàn là mâu thuẫn, không thể hiểu nổi. Tại
sao? Bởi vì chúng ta tu có tâm cầu chứng cầu đắc, trong khi Phật nói tu là
không có chứng đắc. Tại sao? Tôi thường ví dụ, như người đi ngoài đường
thấy một số tiền đánh rơi, họ lượm lên bỏ túi. Khi lượm lên gọi là được
hay đắc. Trước đó không có, bây giờ lượm được là đắc. Nếu người đó có tiền
sẵn trong túi, khi cần lấy ra xài, không nói là được vì tiền đã sẵn trong
túi rồi. Cái chưa có mà bây giờ có mới gọi là được, còn đã có chỉ cần lấy
ra xài, không gọi là được.
Cũng vậy,
chúng ta biết mình có tánh giác sẵn, chỉ vì đám mây nghiệp thức che đậy
nên nó khuất mất, chúng ta không thấy được. Bây giờ chúng ta phá tan đám
mây nghiệp thức đi thì tánh giác sáng suốt hiển lộ ra, đó là điều đương
nhiên như vậy, không nói được gì cả. Cho nên không có được mà được, được
mà không có chỗ được. Hồi xưa không sáng bây giờ sáng, chính nhờ cái sáng
đó mà nói đắc, chớ thật ra không có gì lạ để đắc cả. Thế nên nói vì vô sở
đắc nên Bồ-tát được Niết-bàn, vì vô sở đắc mà chư Phật thành tựu Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Nghiệp thức từ
đâu mà ra? Từ thân, khẩu, ý tạo tội mà ra. Như kẻ ăn trộm có biết làm việc
đó là tội lỗi không? Vẫn biết, họ còn biết nếu gặp cảnh sát bắt thì họ sẽ
bị bỏ tù nữa. Biết mà họ vẫn cố làm, cho nên quả ở tù không nghi ngờ gì
cả. Không ở tù sớm thì ở tù muộn nếu họ cứ hành nghề đó mãi. Vì vậy Thiền
sư nói con chó tuy có Phật tánh, nhưng nó vẫn chui vào đãy da xấu xí là vì
biết mà cố phạm.
Cũng vậy,
chúng ta là người tu biết phải quấy, thiện ác rõ ràng mà vẫn tạo nghiệp ác
nên nói biết mà cố phạm. Vì thế dù có Phật tánh cũng vẫn bị nghiệp ác ấy
dẫn tới chỗ xấu xa, khổ đau như thường. Thiền sư nói biết mà cố phạm thì
phải chui vào đãy da lông lá lù xù, đây là câu nói rất cụ thể để nhắc nhở
chúng ta. Con người hầu như ai cũng thế, biết cái đó là lỗi mà vẫn cố làm,
ít ai hay chưa có ai biết cái đó lỗi nên không làm.
Người có tu
chút chút thì nghĩ rằng mình làm gì khổ thiên hạ là tội, nhưng khi giận
lên cũng quên làm khổ người ta mình mang tội. Rõ ràng đó cũng là biết mà
cố phạm. Đã là biết mà cố phạm thì không tránh khỏi phải đọa vào đường ác.
Ở đây tôi chỉ cho quí vị thấy chủ trương tu của đạo Phật. Phật giáo chủ
trương giác ngộ giải thoát, giải thoát là tự do. Tự do tức là không bị ai
lôi kéo. Nhưng bây giờ nếu chúng ta phạm tội thì làm sao có tự do? Biết
việc đó sai trái mà vì lòng tham, vì nóng giận ta vẫn làm việc sai trái
thì kết quả không thể nào có tự do được. Phần nhiều người ta đòi tự do ở
bên ngoài. Như đòi tự do với cha mẹ, đòi tự do với chính quyền mà không
đòi tự do với mình, đó là một sự lầm lẫn lớn. Chúng ta thử nghĩ nếu mình
nổi nóng lên, mất tự chủ, cơn sân hận xúi bảo mình phải nói năng dữ dằn
cho hả dạ, mà nói năng theo sự sai khiến của cơn giận là mất tự do rồi.
Biết đó là quấy mà ta vẫn phải làm theo áp lực của nó là bị nó lôi đi mất,
đâu còn tự do nữa.
Chúng ta tu
hành phải nhớ, áp lực của ba thứ độc tham sân si rất mạnh. Nó bắt mình làm
theo nó, ta không đủ sức tự chủ, đời này đã theo sự sai khiến của nó rồi
thì đời sau nó dẫn đi đâu ta theo đó. Chúng ta tu muốn chọn con đường tốt
trong hiện đời cũng như đời sau thì phải đừng bị áp lực của ba thứ độc
tham sân si lôi kéo. Ba thứ độc đó chuyên xúi bảo chúng ta tạo nghiệp ác,
từ nghiệp ác ấy mà mình bị dẫn đi trong các đường ác. Do đó ta mất tự do
ngay bây giờ và đời sau lại tiếp tục mất tự do nữa. Cho nên tu là đòi tự
do với chính mình, chớ không phải đòi tự do với ai bên ngoài.
Ai cũng tỏ ra
mình là người tự do tự tại, tôi làm cái này tôi làm cái kia. Nhưng sự thực
chúng ta không tự tại chút nào hết. Một cơn tham nổi lên là bị nó lôi, một
cơn sân nổi lên cũng bị nó lôi, có tự tại gì đâu! Lúc tỉnh chúng ta không
làm điều sai quấy, nhưng khi nổi giận lên, nó xúi gì ta làm đó, không còn
tí tự do nào. Đôi khi làm xong lại hối hận thì sự việc đã muộn rồi. Cho
nên quan trọng là giữ bình tĩnh, tâm luôn tỉnh sáng biết điều nào dở xấu,
chúng ta không làm. Đừng để tham sân si làm chủ dẫn đi, đã bị nó dẫn thì
mình hết quyền làm chủ. Ngày nay không có quyền làm chủ thì ngày mai nhất
định cũng không có quyền làm chủ. Như vậy là hoàn toàn mất tự do.
Hiểu như thế
chúng ta nên đòi tự do ở chính mình, đó là sự tự do tuyệt đối. Muốn tự do
tuyệt đối thì ba chú độc tham, sân, si phải giải quyết cho xong. Đừng để
nó có thẩm quyền xúi giục mình nữa. Như vậy chúng ta mới có tự do trong
cuộc sống hiện tại, tự do kể cả mai sau. Cái tự do đó là nhân để đưa tới
giải thoát sanh tử. Cho nên tu là cả một vấn đề, phải nhìn thấy từng cái
hay cái dở của chính mình, chớ không phải tu trên hình tướng sơ sài thôi.
Người tu mà
tham vẫn nuôi, sân vẫn giữ thì tu làm chi. Có nhiều người nói “câu đó đáng
giận quá, không giận sao được?” Ngày xưa lúc tôi bệnh có lên Phương Bối am
ở với thầy Nhất Hạnh. Lúc đó Phật tử ở các tỉnh gởi thư cho tôi, kể chuyện
bị người ta ăn hiếp, cuối cùng họ nói “Thưa Thầy, người ấy làm như vậy
thật là đáng giận”. Tôi gởi thư trả lời rằng “Không có cái gì đáng giận
cả, chỉ tại Phật tử nhẫn không được thôi”.
Chúng ta nhẫn
không được rồi đổ thừa sự việc đáng giận, con người đáng giận để mà giận.
Thật ra cái gì cũng có thể bỏ qua được hết, khi ta biết rõ nó không thật.
Bởi không biết rõ nên càng nghĩ càng giận. Đáng giận hay dễ giận là câu
tục ngữ để che đậy lỗi dễ sân của chúng ta. Tu như vậy làm sao phá được
sân si? Chừng nào phá được sân si, ta mới có phần tự chủ, có tự chủ mới có
tự do. Tự do là nhân sẽ đưa đến quả giải thoát. Người tu cần phải chiêm
nghiệm kỹ nội tâm của mình, chớ không phải đua nhau trên hình thức bên
ngoài.
Tôi từng nhắc
nhở quí Phật tử, không phải ăn chay nhiều là tu, không phải tụng kinh giỏi
là tu. Có nhiều vị tụng kinh rất siêng, ăn chay rất giỏi, mà con cháu nói
trái ý một chút thì chửi om sòm. Như vậy có phải tu chưa? Tu như thế chỉ
làm cho người ta cười thêm. Người biết tu, thật tu là phải tự kềm chế
mình, tự kiểm tra lại những lỗi lầm sai quấy của bản thân để chừa bỏ.
Siêng năng sửa lỗi hằng ngày hằng giờ mới có thể tiến được.
Muốn tánh giác
hiện bày, chúng ta phải dẹp tan nghiệp thức. Còn nghiệp thức thì tánh Phật
không bao giờ hiển lộ. Đó là một lẽ thật. Ngài Triệu Châu đáp hai câu hỏi
thật đơn sơ mà là cả một bài học rất thâm thúy về sự tu. Đáp như Ngài là
nói rõ cho học nhân hiểu rồi, các Thiền sư khác thường ít nói trắng ra như
vậy. Như câu chuyện Hoàn Lục Công tới ngài Nam Tuyền, ông hỏi thế này:
- Bạch Hòa
thượng, có người nuôi một con ngỗng trong cái bình. Con ngỗng từ từ lớn
bằng cái bình, bây giờ làm sao đem con ngỗng ra mà đừng đập bể cái bình?
Ngài Nam Tuyền
đem ra rất dễ. Ngài kêu:
- Đại phu.
Hoàn Lục Công
ứng thinh:
- Dạ.
Ngài bảo:
- Ra rồi.
Ngay đó Hoàn
Lục Phu đảnh lễ.
Hồi xưa giảng
tới đây, tôi không nói gì nữa nên nhiều vị nghe khó hiểu quá. Tại sao tôi
không giảng? Để quí vị khám phá. Nhưng ngày nay nếu không nói ra, chẳng có
ai chuyên tâm khám phá, phần tôi thì không còn cơ hội gặp Phật tử nữa, nên
hôm nay tôi tạm giải thích. Hoàn Lục Công là người đã thâm hiểu về thiền
nên ông mới đặt câu hỏi như thế. Con ngỗng là chỉ cho chân tâm hay tánh
giác của mình, cái bình là chỉ cho thân này. Thân và tâm không tách rời
nhau, nên hỏi làm sao đem con ngỗng ra mà đừng làm hư cái bình. Nghĩa là
ngay cái thân này làm sao biết được có tâm chân thật? Ngài Nam Tuyền kêu
“Đại phu”, ông liền ứng thinh “Dạ”, Ngài nói “Ra rồi”. Tánh giác tuy không
có hình tướng nhưng nó thường hiển lộ nơi sáu căn của chúng ta. Tức mắt
hay thấy sắc, tai hay nghe tiếng… Vừa kêu liền dạ là có đầy đủ tánh nghe
tánh biết rồi. Cho nên Ngài bảo “Ra rồi”, tâm chân thật ở ngay nơi cái hay
thấy, hay nghe, hay biết đó. Hoàn Lục Công là một cư sĩ am hiểu lý thiền,
nên nghe đến đó ông liền đảnh lễ.
Trong nhà
thiền có nhiều câu đáp lạ lùng, người ngoài nghe tới đây bí thôi, không
làm sao giải nổi. Nhưng khi hiểu được rồi mới thấy hay đáo để. Các Thiền
sư không có gì giấu giếm chúng ta cả, chỉ vì mình không hiểu không nhận
được nên thấy khó. Có Phật tử hỏi tôi tu thiền làm sao đừng kẹt vào tĩnh.
Chữ tĩnh này là lặng. Thật ra thiền được yên lặng là tốt, nhưng đừng nghĩ
mình được lặng mới không kẹt vào tĩnh. Còn nghĩ là còn kẹt, còn kẹt thì
chưa phải tĩnh. Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác có nói “Tỉnh tỉnh lặng lặng,
phải”. Tỉnh đây là tỉnh sáng chớ không phải tĩnh lặng. “Tỉnh tỉnh loạn
tưởng, sai”. Tỉnh mà loạn tưởng là sai. “Lặng lặng tỉnh tỉnh, phải. Lặng
lặng hôn trầm, sai”. Chúng ta tu cứ lấy đó làm nguyên tắc. Tỉnh mà lặng
thì đúng, chớ tỉnh mà nhớ tứ tung thì không được. Lặng mà phải tỉnh thì
đúng, chớ lặng mà gục lên gục xuống cũng không được.
Lại có nhiều
vị thắc mắc khi hành thiền nên quán chiếu hay phải giữ cho tĩnh? Thiền có
hai lối hoặc chỉ hoặc quán. Có khi chúng ta dùng pháp quán chiếu để dừng
tâm loạn tưởng, có khi ta dùng yên lặng để định tâm. Ví dụ Phật tử thường
áp dụng phương pháp thở vô thở ra, tưởng toàn thân an lành, toàn thân vui
tươi, đó là thuộc về pháp quán. Hoặc có chỗ khác dạy chúng ta quán Tứ niệm
xứ, đây cũng thuộc về quán. Còn người ngồi trụ tâm vào một cảnh nào đó gọi
là chỉ. Trong lúc tu, hành giả linh động có khi chỉ, có khi quán, áp dụng
thế nào tâm an ổn là tốt. Nếu quán lâu tâm hơi nghĩ nhiều, không được yên
thì chuyển sang chỉ, tâm định trở lại. Cho nên không thể cố định vào một
cách thức nào cả, tùy sự tu tập riêng của mỗi người mà chúng ta có các
cách ứng dụng thích hợp, miễn sao đúng là tốt.
Trong sinh
hoạt thường ngày, quan trọng là làm sao Phật tử thoát khỏi phiền não đau
khổ. Thế thì có cách nào để tu tại gia được an vui không? Phải luôn luôn
hằng tỉnh hằng giác, đừng để tham sân si dẫn đi. Chỉ có cách duy nhất đó
thôi. Chúng ta nên nhớ không phải người xuất gia cạo đầu mới hết phiền
não. Ở chùa chưa chắc đã hết phiền não, vậy tại sao Phật tử lại sợ ở nhà
phiền não. Nếu sợ ở nhà phiền não, chạy vô chùa phiền não hơn nữa thì sao?
Lúc tôi đang ở
Thường Chiếu, có một Phật tử từ Bến Tre lên vào lúc mười giờ trưa. Ông xin
gặp và hỏi tôi một câu rồi trở về liền. Tôi nghĩ đường xa, đạo hữu này tha
thiết hỏi có một câu rồi về nên tôi hoan hỷ chấp nhận. Ông kể từ khi qui y
rồi ăn chay, biết tụng kinh, biết tội phước đàng hoàng, nhưng sao thấy cái
gì đẹp cũng còn tham, ai nói trái tai cũng còn giận. Bây giờ xin thầy dạy
con làm sao bớt tham sân?
Tôi cười và
hỏi “tại sao ba thứ độc, mà đạo hữu sợ có hai thứ, còn si bỏ đâu?” Tôi
giải thích thật ra tham với sân chỉ là ngọn, gốc từ si mà ra. Sợ tham sân,
muốn hết tham sân mà không bỏ si thì không bao giờ hết. Vì sao chúng ta
tham? Vì bản ngã. Thấy cái đó đẹp mình thích, thích được để ta hưởng. Từ
chấp ta mà sanh ra tham hưởng thụ những thứ đẹp. Bây giờ nếu thấy ta không
thật thì tham đẹp làm gì. Do chính cái si, nên thân không thật mà chấp là
thật, mới sanh ra tham sân. Bây giờ đạo hữu cứ nhìn thấy rõ thân mình
không thật thì hết tham, hết sân.
Trong kinh
Bát-nhã, đức Phật dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Nghĩa là soi thấy thân năm uẩn này không thật liền vượt qua tất cả khổ
nạn. Vì chúng ta thấy thân thật nên muốn đem những tốt đẹp về cho mình.
Khi bớt được tham thì bớt sân luôn, vì những gì ta muốn mà bị ai ngăn trở
thì nổi giận. Bây giờ mình không muốn nữa nên ai làm gì thì làm, đâu có
giận. Sân gốc từ tham mà ra, tham gốc từ si mà có. Chỉ cần phá si thì hai
thứ kia cũng theo đó mất luôn. Nên biết cột trụ của phiền não là từ chấp
ngã. Phá tan chấp ngã thì mọi thứ phiền não theo đó dứt hết.
Như vậy Phật
tử tại gia muốn bớt phiền não, bớt nghiệp thức thì đừng thèm chấp ngã là
thật. Thường chúng ta hiểu theo lý của Phật dạy mà không chiêm nghiệm kỹ.
Nghe Phật nói thân giả thì cũng nói theo, nhưng thật ra không thấy giả
chút nào cả. Hồi xưa ngồi chiêm nghiệm lại, chúng tôi thấy Phật nói thân
này là giả, nhưng làm sao để giải thích giả một cách cụ thể cho người ta
hiểu. Ta nói giả do duyên hợp thì được, nhưng vẫn chưa rõ hết sự thực của
cái giả ấy.
Bây giờ tôi có
thể nói giả qua sự vay mượn liên tục bốn chất đất, nước, gió, lửa của
thân. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sống là nhờ tứ đại ở trong cộng
với tứ đại bên ngoài hỗ trợ liên tục. Như lỗ mũi đang hít thở đều đặn,
không ngừng nghỉ. Rồi uống nước, ăn cơm… Mượn vô trả ra, mượn vô trả ra,
cứ như thế tiếp nối hoài. Nếu quá trình ấy gián đoạn hay ngừng nghỉ thì
mình chết ngay. Như vậy chúng ta sống bằng cái vay mượn, chớ có gì là mình
thật đâu? Nhìn cho thật tường tận mới thấy đời sống của con người chỉ là
chuyện mượn trả đều đều, không có gì sang, cũng không có gì quí. Mượn trả
êm xuôi thì còn thấy vui, nếu mượn trả trục trặc thì chở đi bác sĩ liền.
Cho nên hạnh phúc của thế gian chẳng qua là sự vay mượn êm xuôi, nếu khác
đi là mất hạnh phúc, là đau khổ liền. Thế thì cuộc sống quí giá ở chỗ nào?
Vậy mà nói giả người ta không chịu!
Hiểu như vậy
rồi còn gì để chúng ta tham nữa không? Mà không tham thì cái gì trái ý
mình bỏ qua. Ta không thật, người cũng không thật, tranh hơn thua với nhau
làm chi, có được gì? Được vậy tự nhiên phiền não hết sạch. Thiền sư sống
tự do tự tại là nhờ vậy đó. Các Ngài thấy rõ có gì đâu phải buồn phiền, có
gì đâu phải hơn thua được mất? Lâu nay chúng ta không chịu nghiệm lại
mình, cứ lo tìm cái này cái kia bên ngoài, mà cái gần nhất chính là bản
thân mình, lại không biết gì hết. Cứ lo ăn ngon, hít thở không khí tốt,
uống nước trong mát v.v… mà không ngờ tất cả những thứ đó đều mượn trả,
không có gì của mình hết.
Như vậy quí
Phật tử muốn hết phiền não, chỉ cần dùng trí tuệ quán chiếu thấy rõ phiền
não gốc từ si mê chấp ngã mà ra. Phá được gốc si mê này thì hết phiền não,
chớ đừng nói ở chùa hết phiền não. Hết phiền não thì nghiệp thức không
còn, nghiệp thức đã dứt sạch thì tánh giác hiện tiền. Điều đó rõ ràng như
vậy.
Hôm nay tôi
lược nói về nghiệp thức và tánh giác để tất cả quí vị hiểu rõ, ứng dụng tu
hành cho có kết quả. Tôi tin chắc nếu ai quyết tâm vén áng mây mờ nghiệp
thức thì mặt trăng trí tuệ sáng suốt sẽ chiếu soi, không nghi. Mong tất cả
lắng nghe, suy gẫm và thực hành đạt được nhiều lợi ích thiết thực. |