PHẦN 2
Đức Phật đã từ
bi chỉ dạy một cách hết sức gọn, hay vô cùng, chúng ta y theo đó tu hành,
chắc chắn đạt được kết quả tốt. Khi hành thâm Bát Nhã rồi, thấy năm uẩn là
không thì qua hết khổ nạn, lúc đó còn gì?
Một thí dụ,
cùng ở trong một cái nhà có vài ba mươi người, trong đó có ông chủ. Có một
người lạ đến hỏi ông chủ trong nhà này là ai? Có người thông thạo, đúng ra
chỉ ông này là khách, ông kia là bà con v.v... cứ lần lượt loại hết những
người khách, bà con ra... Cuối cùng còn một người ngồi đó mà không chỉ.
Người lạ kia có biết người ngồi đó là ông chủ không? Khi đã loại hết mọi
người, còn lại một người không chỉ, không nói đến, chúng ta tự biết người
đó là chủ rồi. Lúc khách chủ lộn xộn khó phân biệt ai là chủ, ai là khách,
đến khi khách ra hết thì người còn lại là chủ, việc đó không còn nghi ngờ
được. Kinh Bát Nhã cũng ngầm nói lên việc đó, vì vậy gọi là giá thuyên tức
là lời nói ngăn chấp, chúng ta không cần chỉ mà để thầm ngộ. Khi năm uẩn
là không thì còn lại cái gì đó, chúng ta mỗi người tự biết. Đó là lẽ thiết
yếu vậy.
Tiếp đến câu:
"Xá Lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không
tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị". Này Xá Lợi tử! Sắc
chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là
sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Đoạn kinh này
giải thích rộng cho đoạn kinh trước. Đức Phật nói khi Bồ tát Quán Tự Tại
thực hành sâu trí huệ Bát Nhã, soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết
khổ nạn. Khi nói năm uẩn là không, Phật liền chỉ rõ nó không bằng cách
nào. Ngài nói sắc uẩn chẳng khác không. Không cũng chẳng khác sắc uẩn, sắc
uẩn này tức là không, không đó tức là sắc uẩn này. Đây là chỗ khó khăn
nhất làm người ta điên đầu về Bát Nhã. Tại sao sắc uẩn không khác với
không? Tại sao cái không chẳng khác săc uẩn?
Ví như chiếc
gương phản chiếu những hình ảnh, nào là đồng hồ, bàn ghế v.v... đều hiện
bóng trong gương đó. Những hình bóng hiện trong gương, có thể nói bóng
đồng hồ không khác với gương, cái gương không khác với bóng đồng hồ. Tuy
nói hai mà không khác. Nhưng ở đây nói không khác, nghĩa là cũng còn mường
tượng như hai. Tiến lên một lớp nữa, nói rằng: mặt gương tức bóng đồng hồ,
bóng đồng hồ tức là mặt gương. Vì hai cái này không rời nhau, cái này tức
là cái kia, cái kia tức là cái này. Bởi vì rời gương không có bóng đồng
hồ, mà rời bóng đồng hồ thì đâu thấy mặt gương, nên bóng đồng hồ tức là
mặt gương, mặt gương cũng tức bóng đồng hồ. Thế nên chúng ta thấy bóng
đồng hồ với mặt gương không phải là hai, nhưng nói một cũng không được. Đó
là chỗ khó hiểu của Bát Nhã. Nếu đoạn sắc không này, chúng ta hiểu được
mới mở ra một chân trời mới lạ của Phật pháp, chúng ta sẽ không còn nghi
ngờ kinh điển Đại thừa nữa.
Nói bóng đồng
hồ và mặt gương không khác, đó chỉ là giai đoạn đầu. Giai đoạn này còn so
sánh, vì so sánh nên hình như có hai, đó là tạm để cho người ta dễ nhận.
Đến chỗ lý thì bóng đồng hồ tức mặt gương, mặt gương tức bóng đồng hồ,
không thể chối cải được. Cũng như sóng và nước, lúc đầu nói sóng không
khác nước, nước không khác sóng, thì thấy hình như có hai, nhưng sau đó
nói sóng tức là nước, nước tức là sóng; vì rời sóng đâu có nước, rời nước
làm gì có sóng. Đó là chỗ tuy hai mà một, một nhưng không phải một. Thuộc
về pháp môn bất nhị của Đại thừa.
Qua thí dụ
trên, chúng ta hợp pháp lại, sắc uẩn nói trong phạm vi hẹp là thể xác. Như
đã nói, thân tứ đại này đâu phải có, do bốn duyên hợp lại nên tạm có,
chiếm một khoản không gian; nguyên thể là không, duyên hợp tạm thành. Cái
nhà nguyên thể trước không có, do phối hợp vật liệu mà thành cái nhà. Bởi
thể nó là không, duyên hợp nên tạm có, nên cái nhà hiện có không rời thể
không, thể không ấy chẳng rời cái nhà. Khi cái nhà thiếu duyên hư rã thì
rõ ràng là không, duyên còn thì tạm che kín thể không, nhưng trong thực
thể cái nhà vẫn là không. Đó chỉ là một mớ duyên ràng rịt bao phủ hư
không.
Đến con người,
thật ra thân này cũng là một mớ nhân duyên ràng rịt bao phủ hư không mà
thành. Nếu không có hư không thì không phải là thân này. Lỗ tai nếu không
trống thì không nghe tiếng, lỗ mũi hết bít thì thở không được, cái miệng
nhờ trống mới ăn được...Tóm lại khi duyên hợp tạm bợ thành hình thể, mình
chỉ nhìn được cái giả, tướng ở ngoài cho đó là thân. Cũng như bóng đồng hồ
phản chiếu trên mặt gương, mình không lầm nói đó là đồng hồ thiệt, mà chỉ
là bóng đồng hồ trong mặt gương, nói thế mới đúng. Thế nên, đối với thân
này mình cũng phải biết nó là một nhóm duyên hợp hư giả thể tánh là không,
biết vậy mới đúng, nếu nói thân này là thật, đó là sai. Nếu nói bóng đồng
hồ trong gương là thiệt, đó là ngu si. Cũng vậy, thân mình do các duyên
tạo thành bao bọc một mớ hư không ở trong, mình cho là thật thì cũng là
ngu si... Nên nói trí tuệ là nhìn thấy thực thể của sự vật, thực thể vốn
rỗng không, do mớ nhân duyên hợp lại tạm bợ nên gọi là huyễn, tuy có mà là
tạm bợ, nếu thiếu duyên thì tan rã trở thành không.
Biết là tạm bợ
thì rời được sự chấp sai lệnh. Khi có cái đồng hồ ở trước mặt gương, không
thể nói trong gương không có bóng đồng hồ, mà nói trong gương có chiếc
đồng hồ thiệt cũng không được, mà phải nói trong gương có bóng đồng hồ mới
đúng.
Đối với thân
này cũng vậy, nếu biết thân này là huyễn có, thể tánh là không thì đúng,
nói thân này thiệt là sai, nói thân này không cũng trật, vì huyễn có làm
sao nói không được. Nhìn trong gương có bóng đồng hồ, nói gương không có
gì hết là sai, nói vậy là cố chấp; nói trong gương có cái đồng hồ thiệt là
ngu si, không biết được thật giả. Ngườicó trí huệ thực mới biết trong
gương có bóng đồng hồ, như vậy ngay bóng đồng hồ nói là mặt gương thì có
hại gì? Thế nên nói bóng đồng hồ tức là gương, gương không rời bóng đồng
hồ, nên gương tức là đồng hồ.
Thân này do tứ
đại giả hợp không có thật, mà tứ đại thì đâu có rời thân, nói thân tứ đại
thể là không, ấy là sắc tức không. Thể không ấy không rời tướng giả hợp
của tứ đại, nên nói không tức sắc. Nhưng thân tứ đại không phải hoàn toàn
không, mà cũng không phải có thực, do một mớ nhân duyên ràng rịt bao bọc
hư không ở trong nên gọi là thân. Biết như vậy là biết đúng. Nói thân này
là không, là thật đều sai, đều là cố chấp, đó là ngu si. Vì giả tướng mà
không biết nên khởi phân biệt chấp thật, hoặc không... Bởi thế khi hiểu
được lý này, mới thấy Phật nói sắc tức là không là chỉ ngay thân xác chúng
ta, do nhân duyên nguyên thể là không. Khi nhân duyên giả hợp lại, biết là
không, duyên hợp huyễn có. Duyên hợp huyễn có không thật mà chấp là thật,
tức là bệnh, nên nói là phàm phu ngu si. Ngược lại, nếu biết rõ duyên hợp
huyễn có, thể là không, đó là trí huệ. Thường soi, thường thấy nhưvậy là
trí huệ Bát Nhã và đã bước vào hàng thánh, vì trí là hàng thánh, tình là
phàm.
Chúng ta thực
biết như vậy, thì việc tiến vào đạo có gì là khó. Tuy thế nếu chỉ biết
suông, không ra công huân tu, bị thế gian ràng buộc hết chuyện này đến
chuyện nọ thì cũng không thành thánh được. Biết được như thế, từng giây
từng phút đều quán chiếu, sống được như vậy thì dù không muốn làm thánh
cũng là thánh. Trái lại, người tự xưng là thánh, thấy gì cũng cho là thật,
rốt lại là phàm, đây là điểm cốt yếu vậy.
Đối với các
pháp chúng ta đã thấy được sắc tức là không, không tức là sắc. Nhưng đối
với các nhà triết thuyết thế gian họ chủ trương: hoặc là đa nguyên luận,
hoặc là nhị nguyên luận hay là nhất nguyên luận. Nghĩa là họ tìm nguồn gốc
của vũ trụ, nếu nhận từ một làm ra thì gọi là nhất nguyên luận,; nếu nói
vũ trụ thành lập bởi tương đối, cái này hợp với cái kia,cái này đối với
cái nọ mà sanh thì đó là nhị nguyên luận; nếu nói vũ trụ do nhiều thứ hợp
thành thì đó là đa nguyên luận. Ba thứ luận trên, Phật giáo thuộc về lối
luận nào chúng ta khó giảng trạch. Nếu nói Phật giáo là đa nguyên cũng
đúng, là nhị nguyên hay nhất nguyên cũng không đúng. Nếu là đa nguyên, căn
cứ theo thuyết nhân duyên, nói rằng các pháp không tự có, do nhân duyên
hợp mới có. Nếu là nhất nguyên, người ta dẫn trong kinh Phật nói: Tam giới
duy tâm, vạn pháp duy thức, chỉ có một tâm thôi nên là nhất nguyên. Thực
ra, căn cứ theo tinh thần Bát Nhã mà nhìn thì Phật giáo là pháp môn bất
nhị. Nó không hai, không phải một, nói hai là sai, nói một cũng trật.
Như gương và
bóng, mới nhìn thì tưởng là hai, như sự thực không phải hai, vì rời gương
không thể có bóng. Như vậy bóng hiện trong gương không phải là hai cũng
không phải một, vì sắc tức là không, không tức là sắc. Nó không phải là
hai, vì có sắc có không thấy như hai, nhưng cái này tức là cái kia, cái
kia tức là cái này nên không thể nói hai được. Nếu nói một thì làm sao có
sắc có không, đó gọi là pháp môn bất nhị.
Đã biết bóng
không rời gương, đã biết sắc tánh nó là không thì phải biết sắc không rời
không, từ không hiện ra sắc, nên không cũng không rời sắc, hai thứ không
ly khai đó là pháp môn bất nhị. Khi đã hiểu sắc tức không, không tức sắc,
thì cái không chỉ cho tánh là thật, cái sắc chỉ cho tướng là giả. Bóng
đồng hồ hiện trong gương, đối với gương bóng là giả mà gương là thật, vì
cái đồng hồ để trước gương thì hiện bóng vào, dời đồng hồ đi thì gương
không hiện bóng đồng hồ. Nhưng mặt gương có thể hiện bóng các vật khác,
không cố định là bóng đồng hồ, nó chỉ là mặt gương. Gương không ngại gì
bóng đồng hồ hay sự vật. Cũng vậy cái không nó không ngại gì tứ đại và
cũng không phải riêng của tứ đại. Nghĩa là duyên hợp bao bọc một mớ hư
không lại thì gọi là nhà, vật đủ thứ, nếu duyên rã thì trở thành không.
Như vậy chúng ta thấy rằng: sắc tức là không, không tức là sắc, biết ngay
nơi tánh không sanh diệt, tướng thì giả tạm sanh diệt.
Thế mà lâu nay
ta chỉ thấy tướng giả tạm, không thấy được thể tánh. Tướng giả tạm là sanh
diệt, ta bám vào nó thì ta cũng phải sanh diệt. Ngược lại, thấy được thể
tánh không sanh diệt, tức nhiên không chạy theo sanh diệt. Ở chỗ này có
người ngờ rằng: như vậy mình tu rồi thành không ngơ chăng? Tuy không chạy
theo sanh diệt, hằng thấy được tánh không của các pháp, nhưng không phải
rơi vài cái không ngơ, vì còn cái biết. Cái biết sắc thân này như huyễn,
tánh nó là không, chẳng phải biết tánh nó là không rồi nói thành không, đó
thật là ngu si. Thuở xưa, lúc Phật còn tại thế, có người Bà la môn đến hỏi
Phật:
- Cù Đàm biết
các pháp là huyễn, vậy Cù Đàm có phải là huyễn không?
Phật không trả
lời, Ngài hỏi lại:
- Gần đây có
nước Bạt Kỳ, kỷ luật nghiêm khắc, nhưng quân lính trong nước thường phạm
kỷ luật, bị tù tội, vậy ông có nghe điều đó chăng?
Người Ba la
môn nói:
- Có.
Phật hỏi:
- Ông có biết
người phạm kỷ luật nước ấy bị bắt bỏ tù không?
- Tôi biết rõ
lắm,
- Như vậy ông
có phải là người tù không? (Kinh A Hàm)
Biết người
phạm kỷ luật ở tù, mình đâu phải là kẻ ở tù. Biết các pháp như huyễn, tánh
các pháp là không, mình đâu phải là không. Vì lâu nay chấp bóng, chấp giả
quen rồi, nay nghe nói tất cả pháp đều huyễn, đều không, rồi đâm hoảng
tưởng là như vậy tôi hết rồi sao? Chúng ta cứ lo mình hết, mà không ngờ
ông chủ còn sờ sờ mà không hay. Như vậy chúng ta quán các pháp là giả,
tướng là huyễn, tánh là không; ngay thân này cũng vậy, lúc đó dứt hết mê
lầm vẫn còn trí huệ Bát Nhã. Chính nhờ vào trí huệ Bát Nhã ta mới có thể
chiếu soi được. Phải hiểu rõ như vậy, để trên bước đường tu hành không còn
ngờ vực, dễ bề tiến đạo.
Như trên,
chúng ta thấy nghĩa sắc tức là không, không tức là sắc hệ trọng vô cùng.
Đó là lẽ thực, thấy được lẽ thực mới không mê lầm. Tánh biết là tánh,
tướng biết là tướng, luôn luôn nhận rõ tánh tướng hạnh giải. Tướng không
rời tánh, tánh cũng không rời tướng, tánh tướng không hai. Như vậy khi
biết tướng là huyễn, thì tánh không phải huyễn. chúng ta không chạy theo
huyễn tướng, không còn chấp chặt thân này. Không chạy theo huyễn tướng của
thân, đối cảnh không chạy theo giả tướng của cảnh, người đó đã phá được
hai lối chấp: chấp ngã, chấp pháp. Đó là vi diệu của sắc tức là không,
không tức là sắc.
Khi đã phá
chấp ngã và chấp pháp thì sẽ thành cái gì? - Không thành cái gì hết mà tức
là có trí huệ Bát Nhã - Như vậy, sau khi phá hết chấp ngã, chấp pháp thì
tâm thanh tịnh, không bị cảnh giả lôi cuốn tức là không còn bị luân hồi.
Ngược lại, nếu còn lầm chạy theo giả tướng của thân, giả tướng của cảnh,
tức là bị luân hồi không thể dứt được. Được thế, khi nói tới "Lý Bất nhị"
mới thấy thực là hay. Đem thuyết Bất nhị áp dụng vào các pháp, thì các
pháp giữa này đều là huyễn, vì nó không hai, tức là huyễn có. Nhưng lâu
nay nói có thiện có ác, thiện ác là thiệt, hai cái đối đãi. Ở đây nói
không hai cho nên không thật. Khi hiểu được lý Bất nhị, mới thấy đúng như
trong kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ dạy đệ tử trong phẩm Chúc Lụy rằng:
"Sau này nếu có người tới hỏi đạo, phải đáp ngược lại câu hỏi. Như hỏi:
Thế nàolà Bồ đề? Đáp: Theo phiền não v.v... Như vậy để chúng ta thấy các
pháp không hai, nghĩa là hết phiền não tức là Bồ đề. Vì Bồ đề và phiền não
là hai giả tướng tạm lập ra đối đãi nhau, đã đối đãi thì không thật. Hơn
nữa, có danh từ, hình tướng đều là pháp huyễn, đều là đối đãi, như huyễn
không thiệt, tức nhiên đừng cố chấp một bên. Nếu nói có hai, tức thấy thật
có. Thấy có thật Bồ đề tức thấy có thật phiền não, thật sanh tử tức thật
Niết bàn, dó là nhị kiến. Nếu thấy sanh tử Niết bàn không hai, chỉ là danh
từ đối đãi, cho nên sanh tử tức Niết Bàn, phiền não tức Bồ đề. Sanh tử tức
Niết bàn, nên sanh tử và Niết bàn đều là huyễn. Kinh Lăng Nghiêm nói:
"Niết Bàn sanh tử đẳng không hoa", nghĩa là dù Niết bàn hay sanh tử đồng
như hoa đóm trong hư không.
Chúng ta biết
các pháp lập ra đều trong vòng đối đãi, dù nói thiệt cũng là huyễn, nói
giả cũng là huyễn. Đúng ra không có thiệt giả, chỉ cần loại hết thiệt giả
mới thoát ra ngoài vòng huyễn hóa.. Ngược lại còn chấp thiệt giả là còn
chấp trong vòng tương đối, còn sanh diệt, đó là chổ quan trọng vậy.
Cho nên tinh
thần Đại thừa, nhất là Thiền tông không có tâm vọng cầu chấp trước. Nếu
còn cầu thành Phật, tức là thấy đối với chúng sanh. Thấy Phật với chúng
sanh là đối đối đãi, còn chập Phật và chúng sanh thiệt. Như vậy tâm ấy
chưa phải là tâm Đại thừa, lập danh từ Phật là đối với chúng sanh, nếu
chúng sanh là huyễn thì Phật cũng huyễn. Chỗ này chúng ta phải cẩn thận!
Chúng ta nói Phật huyễn mà Phật có huyễn không? - Chúng ta biết Phật huyễn
nhưng Phật không huyễn - Vì nói tới danh từ là đối đãi. Phật cũng không
nói ta là Phật, chúng ta mê nên thấy Phật giác thì gọi là Phật. Tất cả đều
giác như nhau thì không có ai gọi là giác hay mê nữa. Bởi có người mê nên
mới có người giác, cũng như nếu mọi người đều biết chữ hết thì không còn
ai dốt, cũng không nói ai biết chữ. Đã ra ngoài vòng đối đãi, thì không
còn cái đối đãi, song không phải không đối đãi là không ngơ. Phật cũng vẫn
là Phật. Nay nói thế này nói thế kia, dùng tiếng này tiếng nọ là vì chúng
ta còn trong vòng mê lầm, còn trong vòng tương đối, nên đặt ra để mà nói.
Chúng ta đã
hiểu, thấy tường tận như vậy, mới thấu rõ được lý Bất nhị. Bất nhị là
không hai, Phật với chúng sanh ở giữa chữ tức. Cho nên trong kinh thường
nói: "Phiền não tức Bồ đề" hay "Sanh tử tức Niết Bàn". Lại nói: "Sắc tức
là không, không tức là sắc...". Hai bên không rời nhau, rời Niết bàn không
có sanh tử, rời sanh tử không có Niết bàn... Rời sắc không có không, rời
không không có sắc. Vì ngay nơi sắc đã có không trong đó rồi, không cần
dẹp hết sắc mới hiển không. Cái nhà, cái thân cũng đã sẵn thể không trong
đó, nên nói ngay nơi sắc đã thấy không rồi. Khi thấy không ẩn trong sắc,
thì thấy sắc mà không chấp là sắc, không chấp sắc thì không chấp sắc của
thân, cảnh, do đó ngã, pháp từ từ dứt sạch. Đó là yếu môn tu hành để tiến
vào đạo. Nếu hiểu và tu như vậy thì có gì làm cho mình luân hồi được?
Chính lý "sắc
tức thị không, không tức thị sắc" sẽ giúp chúng ta thật nhiều trên đường
giác ngộ, nếu thấu rõ lý này. Thường thường những kinh điển hay những bài
tụng luôn dùng lý này để nhắc chúng ta. Như mỗi khi đến bàn thờ Phật phát
nguyện tán thán Phật, trong lời tán thán đó đã nói lên lý sắc tức thị
không, như bài tán: Pháp vương vô thượng tôn..." cho đến đoạn: "Năng lễ,
sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghì". Đó là nói lên lý sắc
tức thị không, không tức thị sắc. Chúng ta nhìn Phật lể Phật và xét tự
thân chúng ta đều là không tịch, Phật và chúng sanh tánh đều không lặng,
nhưng mà cảm ứng tương giao bất tư nghì, tức là con đường cảm ứng của ta
và Phật không thể nghĩ bàn. Như vậy để thấy rằng người Phật tử nào đứng
trước bàn Phật cũng phải hiểu được lý chân không, thấy rõ tánh mình và
Phật đồng thể là lặng không. Nhưng trên diệu dụng tùy nguyện sở ứng,
nguyện gì ứng nấy, cho nên con đường cảm ứng không phải là không. Nếu lễ
Phật mà thấy tượng Phật trên bàn là thật, cả thân xác mình cũng thật, đó
là lầm. Cần yếu chúng ta thấy tượng Phật trên bàn tánh là không, bản thân
mình tánh cũng không. Vậy năng lễ là ta, sở lễ là Phật cả hai tánh đều
không, nhưng tâm thành cảm ứng giữa ta và Phật không phải không có. Sự
không lường được đó, là từ không hiện sắc, nên nói chơn không mà diệu hữu.
Thấy không là một lẽ thực hay thấy một cách chơn thật, trong chơn không
diệu hữu có diệu dụng hiện ra muôn pháp không lường. Vì vậy nên nói là
diệu hữu. Nói như vậy để chúng ta tiến tới lý mà bấy lâu nay trong kinh đề
ra, là lý "chơn không". Nghĩa là thấy được lý sắc tức thị không, là thấy
được lý chơn không.
Đã nói chơn
không, ắt phải có cái giả không hay cái không giả, cái nào là không giả? -
Đã là không thì còn gì là chơn là giả - Đó là vấn đề chúng ta cần phải
phân biệt cho rõ ràng, để khi đọc kinh không còn ngờ.
Theo thường
tình, chỗ có vật chúng ta gọi là hữu (có). Chỗ trống không vật gọi là
không (vô). Các không vật này đối với "không tánh" là cái không tương đối.
Vì đối với có nói là không nên là không tương đối, là cái không giả, chẳng
thiệt chưa phải chơn không.
Cũng như nói
tối với sáng. Tối là đối với sáng, nếu không có sáng thì không bao giờ nói
tối. Như vậy danh từ tối lập ra thì danh từ sáng cũng lập ra, đó là danh
từ đối đãi đều là giả, nghĩa là có cái này thì có cái kia, nếu cái này hết
thì cái kia hết đều là không thiệt. Nếu thấy đây là có, kia là không thì
là thấy tương đối, đó là giả.
Ngược lại, nếu
ngay cái bàn viết chúng ta nói nó là thể không, thì tìm một cái đối đãi
với nó không thể được. Ngay cái bàn thấy là không thì tâm quyến luyến vật
liền mất. Thấy không như vậy mới thật sự có lợi ích. Đức Phật nói lên lý
không đó, không phải nói không để mà không, mà là để phá tất cả chấp. Vì
các pháp có hình tướng đều là nhân duyên hòa hợp không thật, chúng ta lầm
chấp thật, nên Phật nói nó không có thật đều do duyên hợp huyễn có, là
bóng dáng không thiệt. Khi biết các pháp không thật thì sự còn mất không
làm mình đau khổ, hiểu được như vậy, tâm chấp người chấp vật mới hết. Nếu
nói khoảng không gian này là không thì vô nghĩa, không có lợi ích gì. Thế
nên Phật nói kinh là vì phá chấp cho chúng sanh, khi bệnh chấp hết thì lý
không, lý hữu cũng không dùng được. Như vậy tại mình mê nên Phật mới chỉ
cho giác, nếu đã hoàn toàn giác thì không cần chỉ dạy nữa.
Thế là lý chơn
không Phật nói tức là ngay trong sự vật thấy được tánh không. Không rời sự
vật mà hiểu được do nhân duyên hòa hợp, nguyên thể là không, duyên hợp
huyễn có. Chúng ta biết lý chơn không là để hiểu giả tướng hiện có là
huyễn, không còn mê lầm cho đó là thật nữa. Điểm cần yếu, chúng ta học lý
chân không này để thấy được tất cả người vật hiện có, thực thể là không do
duyên hợp có như huyễn. Cũng vì diễn đạt ý cốt cán này, nên kinh Kim Cang
nói:
Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh.
Như lộ diệc như điển,
Ưng tác như thị quán.
Nghĩa là:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng.
Như sương cũng như điện,
Nên khởi quán như vậy.
Phật dạy chúng
ta phải luôn quán như thế. Tất cả những cái có hình tướng đều là mộng
huyễn không thiệt, lâu nay chúng ta tưởng là thật. Hiện giờ thường quán,
thường chiếu soi hằng tỉnh giác thấy được các pháp đều là mộng huyễn.
Nhưng đối với
lý này, có một số người tu nghe nói các pháp là mộng huyễn, là không...
rồi sanh ra lầm chấp không lạy Phật, không cúng dường, không làm phước,
không tất cả... Đó là chấp không cuồng loạn, mê lầm. Nghĩa là bỏ chấp có
lại kẹt chấp không cũng lại là bệnh, chẳng phải người hiểu lý đạo. Người
hiểu lý đạo, thấy các pháp tự tánh là không, duyên khởi huyễn có. Tuy
không mà duyên khởi huyễn có, có huyễn duyên lành thì có huyễn quả lành,
có huyễn duyên ác thì có huyễn quả ác, ở đâu vào đó không sót mạ một tí
nào. Vậy nên biết tất cả pháp không mà hăng say làm tất cả việc. Tổ Qui
Sơn nói: "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất
pháp". Chỗ lý thật tế không dính một mảy bụi, đó là chỗ chơn không không
có một mảy bụi nào hết. Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp, đã thấy lý
không tột là không mà tất cả Phật sự nào cũng làm được, làm như vậy mới
thực là làm.
Chúng ta ngày
nay khác, nếu chấp có thì làm việc này việc nọ quay cuồng trong cái có,
rồi phân nhơn ngã, hơn thua, tranh dành đủ thứ... Đó là gốc của phiền não,
việc làm trong mê muội, nếu có phước đức chỉ là phước đức nhân thiên.
Người thực sự đạt lý chơn không, làm Phật sự thấy như huyễn, cho nên độ
tất cả chúng sanh mà không thấy chúng sanh được độ. Làm mà không thấy làm
thì không chấp mình chấp người, như vậy mới thực là việc làm của Bồ tát.
Bồ tát làm mà giải thoát, chúng sanh làm mà bị ràng buộc, bị trầm luân.
Hiểu được như
thế mới thực hiểu lý chơn không. Trong nhà Phật luôn nói chơn không mà
diệu hữu. Câu sắc tức thị không, đó là chơn không; câu không tức thị sắc,
đó là diệu hữu. Trong không thường biến ra thiên hình vạn trạng, đó là
diệu hữu.
Thế là trong
có đã sẵn không, trong không hàm chứa có. Hiểu như vậy, không còn lầm lẫn,
phải thấy cho tột nguồn gốc mới xứng đáng là người Phật tử, mới nên ra làm
các Phật sự. Làm mà không kẹt không chấp mới hữu ích xác thực cho mình và
người. Nếu không được như vậy thì làm đâu chấp đó. Lắm người khi nói tu
thiền thì ít cần lạy Phật, tụng kinh, vì cho rằng mình thiền thì tụng lạy
làm chi nữa! Thử hỏi tụng lạy có lỗi gì? Lỗi tại mình chấp, đâu phải do
tụng hay lạy! Tụng kinh là giúp nhớ lời Phật dạy để tu, lạy Phật để nói
lên lòng thành kính biết ơn đối với Phật, nào có gì sai quấy lỗi lầm. Lạy
Phật Tổ, thiện tri thức là để dẹp lòng ngã mạn, để thấy thân này không
thật hầu tiến lên các công hạnh khác khó hơn. Đâu nên như hạng người nói
thân này không thật, thân người không thật nên không lạy không làm gì hết.
Thế là lời nói không thiệt đó là ngầm cái thiệt bên trong, rồi tự nói việc
này việc kia không thiệt, mà xưng cái ngã của mình thiệt, tưởng mình cao
cả hơn thiên hạ, thật là tai họa.
Cho nên đối
với lý đạo phải hiểu cho thông suốt, việc làm mới không lầm; ngược lại, lý
không hiểu đến nơi mà chấp sự thì bao giờ đạt đạo! Nên nói sự lý viên dung
là như vậy. Đối lý đạo thì thấu đáo, trên sự việc cũng rành rẽ, lý sự phải
dung thông nhau. Khi đạt lý thì rõ sự, khi hành sự thì rõ lý, lý sự không
rời. Nhưng trong nhà Phật luôn luôn phải thấy lý trước, hành sự sau, có
như vậy việc hành đạo mới có lợi ích lớn và chân xác hơn. Nên trước hết là
"năng lễ, sở lễ tánh không tịch" (lý) rồi đến "cảm ứng đạo gian nan tư
nghì" (sự), hay "thật tế lý địa bất thọ nhất trần" (lý) rồi kế "vạn hạnh
môn trung bất xả nhất pháp" (sự). Lâu nay chúng ta vẫn bị kẹt trong hai
câu này, đọc tụng vẫn quên hai câu đầu, chỉ nhớ câu thứ hai. Chỉ nhớ "cảm
ứng", quên đi năng sở "tánh không tịch", vì vậy trở thành mê tín, chỉ biết
lạy Phật để cầu này nọ v.v... Đối với câu "thật tế lý địa" cũng vậy, quên
câu "bất thọ nhất trần", nhớ biết "vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp"
thật là tai hại. Chỉ biết làm mà không chịu hiểu, thành ra làm đâu kẹt đó,
thọ không biết bao nhiêu trần. Thật là bất lợi, nên người học đạo cần phải
hiểu cho thật chín chắn để khỏi rơi vào có hoặc không. |