PHẦN 3
Khi đã hiểu rõ
lẽ chơn không diệu hữu, thì việc tu không sợ rơi vào không, cũng không còn
sợ những suy nghĩ lặng xuống rồi không còn gì nữa. Một vị thiền sư nói
rằng: "Đừng sợ tâm mình không, chỉ sợ nó không được không". Chúng ta đừng
sợ nó không, chỉ sợ khi ngồi lại nảy sanh đủ thứ chuyện, nhớ tưởng này nọ
v.v... Nếu những thứ đó lặng xuống thì tốt biết mấy. Nhưng có người lại
bảo: tâm mình không, không hiểu, không biết ra sao thì cái không đó bệnh.
Ở đây nói không là thấy tâm không, nói các pháp không, ngã không nhưng vẫn
biết ngã pháp chẳng phải không. Như vậy đâu phải là không ngơ như mọi
người tưởng. Đa số người nghe trong kinh nói "giữ tâm không" rồi cho nó
không ngơ không ngớt, không biết gì hết; kết quả là sống bừa bãi, hoang
mang, uổngphí cả một đời tu. Chúng ta quán chiếu ngã pháp đều không, hoặc
ngũ uẩn đều không, nhưng sự quán chiếu không đó không phải là không. Nếu
nó không, thì ai biết cái đó không? Nghĩa là lúc nào cũng phải thấy sự có
mặt của ông chủ. Tu như vậy mới thật tu, thấu suốt được lẽ chơn không diệu
hữu.
Đã biết lẽ căn
bản đó rồi, giờ chúng ta tiếp sang đoạn kế: Thọ, tưởng, hành, thức diệc
phục như thị. Tức là thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Cũng lại như
vậy, nghĩa là thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như sắc uẩn trước. Chúng
ta có thể đổi lại thọ bất dị không, không bất dị thọ... cho đến tưởng,
hành, thức cũng đổi như vậy, cho nên nói cũng lại như vậy (diệc phục như
thị). Phật vì muốn giản dị bớt trong năm uẩn, chỉ nói một uẩn để tiêu biểu
tức là sắc uẩn, chúng ta hiểu được sắc uẩn thì bốn uẩn kia cũng tương tợ
như vậy. Uẩn nào cũng chẳng khác không, không nào cũng chẳng khác uẩn.
Nghĩa là nói thọ chẳng khác không, không chẳng khác thọ... và tưởng, hành,
thức cũng vậy.
Tiếp đến câu
Xá Lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt; bất cấu, bất
tịnh; bất tăng, bất giảm. Đến đây Phật gọi ngài Xá Lợi Phất nói thêm rằng:
"Này Xá Lợi tử! Tướng của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt; chẳng dơ,
chẳng sạch; chẳng thêm, chẳng bớt".
Ở trước Phật
đã chỉ cho chúng ta thấy, từ tướng nhìn thẳng vào tánh của ngã, pháp.
Nghĩa là thấy rõ ràng tất cả sự vật hiện hữu, thể tánh là không, duyên
khởi huyễn có, nên mới nói sắc tức không, không tức sắc v.v... Đến đây
Phật dạy tánh không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho tới tất cả sự vật,
tánh không đó không có sanh, diệt, tăng, giảm. Như cái nhà, trước khi chưa
cất thể nó là không, cất nhà rồi mới có hình tướng. Chính khi có hình
tướng cái nhà ta vẫn biết thể tánh là không, thể ấy không sanh diệt, không
thêm bớt. Thể không đó trước sau vẫn thế, dù cái nhà còn hay hoại trước
sau nó chẳng thay đổi, chẳng nở ra hay co vào. Thể không đó không sanh
diệt, nên không có gì là dơ sạch, thêm bớt. Sở dĩ có thêm bớt là vì con
mắt phàm tục quen nhìn sự vật với hình tướng mà không đạt được lý tánh.
Bởi thấy tướng nên mê chấp theo tướng, bèn khởi vọng tưởng phân biệt tốt
xấu, hơn kém v.v... Khi đã vọng chấp thì phiền não nổi lên khuynh loát,
cuốn hút mình vào trầm luân khổ ải!
Đức Phật từ bi
chỉ thẳng cho chúng ta thấy thể tánh của sự vật đều là không, không sanh
diệt, thêm bớt. Ta thấy tướng đồng hồ thì biết nó sanh diệt nhưng thể tánh
không sanh diệt. Khi nhìn đồng hồ trên hình tướng có sanh diệt, tốt xấu...
thế là tâm sanh vọng tưởng phân biệt sẽ cấu kết với giả tướng bên ngoài
tạo thành một dòng tiếp nối trong tâm thức. Cả hai thứ - vọng tưởng và giả
tướng - không cái nào thật, vì cho nó là thiệt nên chấp nhận vọng tâm (tâm
phân biệt) là của mình, vì chấp nhận tôi thấy như vầy, nghĩ như kia, thích
thế nọ... cái gì cũng là tôi, nên đưa đến hậu quả một trường tranh đấu
khủng khiếp không lối thoát. Chỉ vì chấp vọng là mình. Ở trong chấp vọng
tâm là thật, bên ngoài chấp giả cảnh là thiệt, đó là gốc của sanh tử luân
hồi.
Đức Phật
thương xót chỉ bày cho chúng thấy được thực tướng của các pháp. Muốn thấy
được thực tướng, phải đạt được thể tánh, đạt được thể tánh thấy cái đồng
hồ, cái chuông... cũng nói nó là không - tánh không - Đã biết nó là tánh
không dù ai nói hon kém chúng ta vẫn thấy không quan trọng, dửng dưng
trước bất cứ mọi ngã rẽ thế tình, Có thể tâm mới không vọng động, vì đã
nhận được thể tánh không của mọi vật, nên không khỏi phân biệt hơn thua,
phải quấy. Như vậy chúng ta đã vào tánh không của các pháp, thế là không
tu mà tu. Khi chúng ta thấy cái đồng hồ như hư không, thử hỏi chúng ta sẽ
phân biệt gì khi đối diện với hư không - Lẽ đương nhiên tâm đối cảnh hoàn
không, êm đềm như mặt nước hồ thu! Như vậy tuy chúng ta tu nhưng thật ra
không có gì là tu. Vì dối diện với các pháp, biết được thể tánh của nó,
tức là mình đã tu. Tu mà thấy như không tu, ngồi chơi mà tâm vẫn lặng.
Người đạt được lý tánh thì tu ít, kết quả nhiều, người không hiểu tuy tu
nhiều, kết quả ít. Bề ngoài cố gắng giữ hình tướng nghiêm chỉnh, cầm mẫn,
nhưng bên trong tâm buông lung, chấp có chấp không, thiệt giả, ông Phật
này to, ông kia nhỏ v.v..., rốt cuộc chỉ lẩn quẩn trong vòng mê muội, nếu
được phước, chỉ là phước hữu lậu ở cõi trời người. Phước đó to bằng quả
địa cầu đi nữa, cũng là nhỏ xíu đối với người học đạo thấy tánh được giải
thoát, thật là khỏe khoắn vô cùng, phước báu vô lượng không gì sánh kịp.
Chỗ này trong
kinh Kim Cang, Phật tán thán khen ngợi. Cho nên người tu có trí huệ đạt
được lý tánh các pháp, thấy được tánh không, biết các pháp là duyên khởi
như huyễn, người đó đi đâu, làm gì cũng an nhàn, dửng dưng trước mọi cảnh,
không gì làm buồn khổ được, chỉ còn lại nguồn an lạc vô biên. Như vậy mới
thật là kẻ giữa trời đi ngang bước dọc.
Chúng ta đã
thấy sự vật thể tánh là không, hay ngay nơi ngũ uẩn này luôn luôn thấy thể
tánh là không thì thọ, tưởng, hành, thức đều là vọng huyễn không thật, tự
nhiên chúng không còn quan trọng, tự lặng lẽ chìm đi. Như vậy tuy thấy
không tu gì hết mà thực đã tu rất đắc lực.
Trái lại, khi
nói thân này thật, ngũ uẩn thật, nên cái gì làm mình vui thì thích, cái
nào làm mình buồn thì khổ. Nếu mang tâm niệm này lạy Phật, dù lạy bao
nhiêu triệu lần cũng vẫn trong vòng phiền não. Phật dạy phải thấy được
tánh không của ngũ uẩn, cũng như thấy tánh không của sự vật, thì nhìn sự
vật mới không lầm chấp. Cũng như biết bóng trong gương là bóng, nguyên cái
gương không có bóng, duyên đến thì bóng hiện, biết bóng đó là bóng thì bao
nhiêu tốt xấu trong gương đều không quan trọng. Nếu tưởng bóng là thiệt,
rồi ngồi đó phân biệt sự việc trong gương, đó là sai lầm.
Chúng ta phải
nhớ rằng, tu là phải luôn luôn quán chiếu, tức là luôn luôn dùng trí huệ
Bát Nhã để thấy tột thể tánh các pháp là không, không sanh diệt. Thấy được
cái không danh diệt, nhớ rằng nó không phải sanhdiệt, không phải không.
Thấy theo sanh diệt, theo tướng sanh diệt, thì cái thấy đó là sanh diệt.
Như vậy nếu
nhập cuộc vào sanh diệt, thì thành sanh diệt tức là luân hồi. Trái lại
nhập cuộc vào không sanh diệt thì mình tự nhiên không sanhdiệt, đó là lẽ
tất nhiên, rõ ràng không chối cải được. Cho nên Phật nói thẳng lý tánh của
các pháp tức là thể tánh không sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt. Thực sự thấy
được tánh không, chắc chắn không còn gì để vọng cầu. Bởi không sanh diệt,
dơ sạch, thêm bớt, ta muốn nó sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt cũng không
được. Bởi thế Lục tổ Huệ Năng nói:
Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài.
Bổn lai vô nhất vật,
Hà
xứ nhạ trần ai.
Dịch:
Bồ
đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một ai,
Chỗ nào dính bụi bặm.
Khi thấy được
pháp tánh không, thì cái thấy đó là gì? Đâu không phải là Bồ đề? Bồ đề
không hình tướng, dáng mạo, muốn nó sạch dơ, muốn thành vật gì đều không
thể được. Cho nên xưa nay không có vật thì còn gì dính bụi bặm mà phải lau
chùi. Thế thì nói lau chùi gương là nói sai sự thật, nói vô lý. Tấm gương
lu, nói gương dơ rồi lau chùi cho sáng, thực ra nào phải lau gương mà là
lau chùi bụi bặm. Gương nguyên nó là sáng, bị bụi phủ dơ, nay lau sạch bụi
là gương sáng.
Chúng ta lầm
chấp ngũ uẩn là thật, chấp ngoại cảnh là thật, do thế tâm hằng huân chứa
điều này điều khác chạy theo vòng cuồng loạn. Trong chấp ngã, ngoài chấp
pháp cứ vậy điên cuồng theo vọng tưởng. Bây giờ chúng ta tu, chỉ cần biết
đúng ngũ uẩn không thiệt, ngoại cảnh không thiệt, đó là ban đầu. Sau đó,
mỗi lần tưởng nó là thiệt thì dừng lại, biết là vọng không theo, cứ thế mà
dừng, lâu dần nó mòn sạch đi. Thành thử nói tu mà có tu gì đâu? Sự thật
bản tánh lâu nay là Bồ đề, không hình thức, không tăng giảm, dơ sạch. Vì
vọng tưởng huân chứa tích tụ tưởng là thiệt, nên khi ngồi lại chúng nó
tuôn trào ra. Mỗi lần trào ra, tỉnh táo biết nó là giả, nhìn thẳng thực
tánh không của nó, tức không dẹp mà tan. Thực hành lâu ngày, mọi tập quán
sẽ hết. Tập quán hết thì tánh Bồ đề sẵn có hiện tiền. Vậy mới gọi là tu mà
không tu. Chỗ này người đời không hiểu thấu cái gì là tu mà không tu. Sự
thật chúng ta nói các pháp thiệt, mới nói có tu. Đúng ra không có gì là
thiệt, tánh của sự vật là không tánh, Bồ đề không có tướng mạo, nên có gì
đâu để tu. Nhưng vì lỡ vụng dại ôm chấp vọng tưởng từ lâu, lầm nhận sự vật
là thật, chấp ngã pháp là thật, huân chứa bao nhiêu vọng tưởng điên cuồng;
giờ ngồi lại để gột rửa từ từ. Hễ một chú vọng nào nhảy ra thì điểm mặt,
chú là vọng không thiệt, chú liền cút đi. Chỉ có thế thôi, lần lần đến
ngày nào đó sạch hết các vọng tưởng thì xong việc người tu, yên việc nhà
mình thì thiên hạ âu ca hưởng thái bình. Tu là bồi đắp, sửa sang, đàng này
không bồi đắp, không thêm bớt, không vơi đầy, nên nói tu mà không tu. Ví
như gương nguyên thể là trong suốt sáng láng, để lâu bụi lấp, chịu khó lau
chùi bụi vậy thôi, cái gương vẫn sáng nào phải lau chùi.
Như vậy chúng
ta thấy rõ ràng các pháp tánh là không, chưa từng sanh diệt. Tâm duyên
theo cảnh giả, ấy là tâm sanh diệt, cảnh sanh diệt, chỉ có chơn tánh là
không sanh diệt.
Tiếp theo Thị
cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhẫn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý
thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão
tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố.
Đức Phật nói
thêm rằng: Thế nên trong tánh không đó, không có sắc, không có thọ,tưởng,
hành, thức. Đó là không có ngũ uẩn, cũng như cái gương, trong gương không
có bóng đồng hồ, cái chuông và các vật này nọ. Vì nguyên thể gương không
có bóng. Đây là Phật nói trong tánh không, không có ngũ uẩn. Và cũng không
có: mắt,tai, mũi, lưỡi, thân, ý tức là không có sáu căn. Cũng không có:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là không có sáu trần. Cũng không có
nhãn giới cho đến ý thức giới tức là không có mười tám giới. Như vậy ngũ
uẩn, lục căn, lục trần và mưới tám giới đều là những danh từ do đức Phật
lập ra để chỉ cho chúng biết các pháp thế gian do nhân duyên hòa hợp. Đối
với thân này, Phật nói thân này do năm uẩn hòa hợp mà có. Đối với sự vật
bên ngoài, Phật nói do sáu trần mà có. Như vậy, trong thân thì năm uẩn,
ngoài cảnh thì sáu trần, tức nhiên lập thành thân, cảnh. Đức Phật còn chia
thêm thân có sáu bộ phận tức là sáu căn để đối với sáu trần. Như vậy ở
thân có sáu căn, ở cảnh có sáu trần, căn trần tiếp xúc nhau đó là pháp thế
gian. Nhưng muốn đi sâu hơn nữa, trong thân Phật lại chia thêm sáu thức,
cộng chung cả ba phần: sáu căn, sáu trần và sáu thức thành mười tám giới
là chỉ cho tất cả pháp trong thế gian. Thân và cảnh đều nằm trong đó,
nhưng tánh không cũng không có tất cả pháp trong thế gian này.
Nói như vậy
đức Phật còn e chúng ta tuy không chấp pháp thế gian mà vẫn còn bám pháp
xuất thế gian cho là thật, nên ngài nói tiếp: không có vô mình cũng không
có hết vô minh. Vô minh là đầu mối của mười hai nhân duyên. Mười hai nhân
duyên là: vô minh duyên hành, hành duyên thức... cho đến sanh duyên lão
tử, đó là chiều sanh diệt, chiều lưu chuyển. Theo chiều hoàn diệt, dứt
được vô mình thì dứt được hành, dứt được hành thì dứt được thức v.v...,
gọi đó là dứt vô minh (vô minh diệt), gọi là vô minh hết (vô minh tận).
Như vậy cả mưòi hai nhân duyên và pháp làm cho mười hai nhân duyên hết
cũng không có trong tánh không. Vậy thì cả pháp thế gian và xuất thế gian
đều không có trong tánh không và lại thêm: cho đến không có lão tử cũng
không có hết lão tử, tức là trong mười hai nhân duyên từ vô minh là đầu
đến lão tử là chót, cũng không có hết vô minh và cũng không hết lão tử.
Như vậy tóm lại, hai phần lưu chuyển và hoàn diệt của mười hai nhân duyên
đều không, và luôn cả không có khổ, tập, diệt, đạo, tức là pháp xuất thế
theo Tiểu thừa là pháp Tứ Đế. Mười hai nhân duyên và Tứ Đế được coi như là
chân lý, nhưng ở đây nó cũng không có trong thể tánh không, ngay đến cái
trí cũng không và cái được cũng không (vô trí diệc vô đắc).
Suốt một đoạn
trên,ta thấy đức Phật một bề phủ nhận không có một vật gì dù là thế gian,
xuất thế gian đều không có trong thể tánh không.
Như một tấm
gương, nếu đem vật tốt lại, bóng hiện vật trong đó, vật xấu bóng cũng hiện
trong đó... hiện đủ thứ bóng tốt, xấu là căn cứ trên đồ vật mà nói. Nhưng
nếu căn cứ trên tấm gương, thì mặt gương không có bóng đồ vật tốt xấu
v.v..., vì nguyên thủy mặt gương trong suốt không có bóng. Như khoảng hư
không này không phải là của nhà, bàn ghế, nhưng có thể dung chứa tất cả
những thứ đó. Cái không này muốn rõ được phải nhờ tất cả sự vật kia mới
hiện bày khoảng không này. Nói cái không chỉ là một danh từ tạm dùng vậy
thôi, không thể diễn tả được hết cái không ở đây. Vì nó lìa hết ngữ ngôn
danh tự và khái niệm. Nó không phải là cái gì hết. Như vậy thấy tất cả
những pháp có lập ra, có ngôn ngữ, danh từ dù cho pháp đó là phàm hay
thánh thì cũng chỉ là pháp đối đãi, là giả có, là hư vọng. Còn chân lý
tuyệt cùng không có gì có thể nói nói được. Nhìn với con mắt đạt chơn lý,
tức là đạt được lý không thì không thấy có cái gì, mọi vật đều là giả
tưởng. Nói như thế không phải phủ nhận tất cả không có. Đây là nói theo
chiều của mặt gương là tất cả không có bóng, nếu nói theo sự đối duyên thì
trong này có đủ không sót mất một mảy mún nào.
Ở đây đức Phật
muốn nhắm thẳng vào lý chơn không hơn là diệu hữu, nên ngài nói không tất
cả, không tất cả pháp phàm và thánh. Người ta có thể bỏ được pháp phàm mà
không dám buông pháp thánh, nên đối với chơn như cũng là bệnh. Thế nên đối
với chổ đó, dù nói gì cũng trật, vừa mở miệng là đã xa rồi, vì nơi đó
không tất cả, không có chỗ được. Bởi thế mở miệng không xong, tác ý đã xa
nghìn dậm, vì nó không ngũ uẩn, không lục căn, không lục trần, không mười
tám giới, không mười hai nhân duyên, không tứ đế, không trí, không đắc.
Không như vậy là vì nó không có chỗ được (dĩ vô sở đắc cố). Không chỗ được
thật là khó dịch. Không chỗ được là cái gì? Chỗ này phần đông chúng ta đều
lúng túng: Không chỗ được là sao?
- Tức là nó
không thật có!
Nói đến được
tức là nói đến có, vì có mới được. Như vậy đã thật có mình và vật, đã thật
có thì chẳng phải là không rồi. Ngược lại nếu nói không thật có thì lấy
cái gì được? Thành ra nói tất cả pháp thánh phàm đều là không, vì nó không
thật có nên là không. Do đó không thật có là vô sở đắc. Nó không thật được
tức là không thật có, nên phải là không. Thật là giản dị. Nhưng nếu nói
không cái này, không cái kia thì ai cũng chịu, nói không trí không đắc
phần đông đều cãi: như vậy tu thành cái gì? Nói không trí vậy lấy cái gì
quán đó? Không đắc thì làm sao thành Phật?
Đó là những
vấn đề lớn đối với người tu theo đạo Phật, khi gặp phải chỗ này thật ít
người hiểu nổi. Ngày xưa vào đời Đường vua Túc Tông thỉnh ngài Huệ Trung
làm quốc sư ở tại triều đình, ngài là đệ tử của Tổ Huệ Năng. Trước khi làm
quốc sư, ngài đã tu trên núi hơn bốn mươi năm. Một hôm vua Túc Tông hỏi
ngài:
- Bạch Thầy!
Thầy đắc pháp gì rồi?
Ngài không
đáp, nắm tay vua dẫn ra sân, hướng lên trời ngài chỉ đám mây hỏi vua:
- Bệ hạ xem
lùm mây trên không đó, do đóng đinh dính mắc hay cột dây dính mắc?
Ngài chỉ trả
lời chừng ấy! Không đóng đinh, không cột dây mà mây vẫn lơ lửng. Nếu đóng
đinh hay cột dây thì mây không còn bay nữa, mây không còn là mây. Nếu tu
còn có sở đắc thì đó là nhị thừa, là hàng tiệm tu, vì còn có ngã. Thí dụ
lượm được cây quạt tức là được cây quạt thì phải có người được và cây quạt
thật. Vậy là đã thật có người, vật, ngã và pháp thật. Nếu nói không có
người, quạt thật thì nói cái gì được? - Nếu nói ngủ uẩn được thì có ngũ
uẩn thiệt. Vậy thì nếu không thấy người, cái quạt thật thì không có cái
thật được (đắc). Ngã và pháp đều sạch thì hỏi được, hỏi không đều không
dính dáng gì hết. Nhưng nói không có chứng đắc mà là có hay không? - Như
mây trên không, không cột dây, không đóng đinh, mà có mây hay không? Đâu
phải đợi đóng đinh, cột dây mới treo được mây lơ lửng trên không. Không
đóng đinh, không cột dây mà vẫn có mây bay trên không. Không chứng đắc mà
vẫn tự do tự tại.
Bây giờ nói
đến vô trí. Trí là đối với ngu, ngu là phàm, trí là thánh. Thánh phàm là
hai danh từ đối đãi. Nếu phàm đã giả không thì thánh làm gì có, nên trí và
ngu cũng là giả không. Thế nên nói không trí (vô trí), nếu trí và ngu đồng
thời dẹp sạch thì lúc đó là gì? Đâu không phải là Bát Nhã hiện tiền! Vậy
nên nói: "Bát Nhã vô tri vô sở bất tri", Bát Nhã không có phân biệt nên
xem như vô tri, nhưng việc gì cũng biết nên gọi là tri. Biết được thực
tánh của sự vật, vào được tất cả pháp không. Biết mà không rơi vào phân
biệt, nên gọi là không biết (vô tri). Do không biết nên gọi là không trí
(vô trí) đối với ngu. Đó là chỗ không còn phân biệt, nên tạm dùng chữ Bát
Nhã để chỉ trí tột cùng đó, nhưng có trí cũng không trí, vì không còn đối
đãi, cho nên không phải là trí cũng không phải là được (vô trí diệc vô
đắc).
Khi đã thấy
các pháp là huyễn không thật cho nên không có sở đắc. Đó là đức Phật muốn
dẹp những vọng tưởng giả dối. Ngài giảng rõ ràng, tường tận cái nào là
giả, cái nào là vọng để chúng ta theo đó dẹp trừ cấu nhiễm, giúp chúng ta
mặc nhận và khế hội những gì của chúng ta. Việc đó là tùy mình, đức Phật
không đá động đến, tự thầm khế hội lấy. Cũng vậy, các thiền sư tu hành đạt
đạo, các ngài không hề nói có chứng đắc, nhưng tới đó thì tự do tự tại
rong chơi trên tuyệt cùng của ngọn núi Diệu phong. Đến đó các ngài mặc
tình sống chết tùy ý. Chúng ta ngày nay vừa tu được mấy ngày, liền xưng
đắc thiền, chứng thánh, coi thiên hạ không ra gì, chê ông này, bài ông kia
đủ chuyện. Thật là tai họa vô cùng. Nên ở đây chúng ta cứ tu, không nói
chứng đắc gì, cứ như lau gương không cần thứ lớp, lau bao giờ hết bụi thì
gương sạch.
Trong đời tu
cũng thế, khi nào trừ sạch hết tập quán vọng tưởng, không còn lăng xăng,
động cũng như tĩnh lúc đó là xong việc. Càng nói chứng đắc chúng ta càng
bị chứng đắc bao vây, chết mòn trong chỗ chứng đắc. Trong kinh Lăng Nghiêm
về chỗ đối trị ngũ ấm ma, chúng ta thấy rõ rằng: "Nhược tác thánh giải tức
lạc quần tà", là nói nếu thấy chứng bực này nọ là lạc về ma. Muốn khỏi lạc
về ma thì phải: "Bất khởi thánh tâm tức thiện cảnh giới", tức là không
khởi tâm chứng thánh đó là cảnh giới lành. Như vậy trong lúc tu có bất cứ
cảnh giới nào hiện ra, chúng ta đều một mực giữ tâm chánh định, tức không
khởi niệm. Có thế, mới không bị lạc vào quần tà; tu như vậy là tu chân
chánh. Tu mà không tu vì có gì đâu để tu, chỉ cần không chạy theo vọng
tưởng. Bởi thế có một vị Tăng đến hỏi ngài Triệu Châu:
- Hòa thựơng
thế nào?
Ngài nói:
- Nếu nói ta
tu thì đó là tai họa!
Nói tu là tai
họa, vì có chuyện gì đâu để tu, vừa khởi tu tức là vọng.
Một lần nữa,
chúng ta thấy rằng những điều người tu muốn đạt được, cần phải dùng trí
Bát nhã thường quán chiếu thấy thể tánh các pháp là không, trong đó không
có phàm thánh, không tất cả. Nhưng duyên khởi huyễn có trùng trùng, nên
cái gì cũng có, thánh phàm đủ hết.
Xưa có một cư
sĩ đến hỏi đạo với thiền sư Quốc Nhất. Thiền sư Quốc Nhất ở Cảnh Sơn nổi
tiếng thời đó, được vua phong tặng là bậc nhất trong nước. Cư sĩ hỏi ngài
có thiên đường không? Ngài đáp không. Có địa ngục không? Ngài cũng đáp
không. Hỏi điều gì ngài cũng đáp không. Sau đó cư sĩ đến hỏi thiền sư Trí
Tạng là đệ tử của Mã Tổ ở Tây Đường nên gọi là Trí Tạng Tây Đường. Cư sĩ
hỏi ngài có thiên đường không? Ngài đáp có. Có địa ngục không? Ngài cũng
đáp có. Hỏi gì ngài cũng đáp có.
Cư sĩ lấy làm
lạ hỏi: Vì sao Hòa thượng nói lạ vậy?
Ngài hỏi:
Trước khi đến đây, ông đã từng đến đâu chưa?
Cư sĩ đáp: Có,
tôi đã đến Hòa thượng Cảnh Sơn, trước khi đến đây. Tôi hỏi gì Hòa thượng
cũng nói không, tại sao tại đây tôi hỏi gì Hòa thượng cũng nói có?
Ngài hỏi lại:
Hòa thượng Cảnh Sơn có vợ không?
Cư sĩ đáp:
Không?
Ngài tiếp: Còn
ông có vợ không?
Cư sĩ đáp: Có.
Ngài nói: Vì
ông có vợ nên tôi nói cái gì cũng có. Hòa thượng Cảnh Sơn không vợ nên nói
cái gì cũng không.
Câu chuyện có
vẽ dí dỏm nhưng thật thâm thúy vô cùng. Hòa thượng Cảnh Sơn đã đạt lý, nên
cái gì ngài cũng thấy không. Vị cư sĩ chưa đạt lý, nên cái gì cũng đều là
có. Như vậy mê thì cái gì cũng có, ngộ thì cái gì cũng không. Ngộ tánh
không tức là nhận thức được chơn không hiện bày diệu hữu khôn lường. Có
thế hữu và vô không còn ngại nhau, được vậy mới thật là người người ngộ
đạo. Một thiền sư Trung hoa, đọc tụng kinh Pháp Hoa đến bài kệ: "Các pháp
tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng..." Ngài không hiểu, cứ ôm ấp câu
ấy mãi. Một buổi sáng mùa xuân, ngài ngồi trên ghế nhìn ra vườn, bỗng thấy
con chim hoàng anh đậu trên nhánh liễu hót. Tiếng hót cất lên, ngài bừng
ngộ, ngài tiếp theo hai câu nữa để thành một bài kệ:
Chư pháp tùng bản lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Xuân đáo bách hoa khai,
Hoàng oanh đề liễu thượng.
Dịch:
Các pháp từ xưa nay,
Tánh thường tự tịch diệt.
Xuân đến trăm hoa cười,
Cành liễu hoàng oanh hót.
Quả nhiên, sau
lời thốt cuối cùng ấy, người ta thấy ngài là thiền sư ngộ đạo. Chúng ta
thắc mắc không biết ngài ngộ cái gì, khi xuân đến chim hoàng oanh hót trên
nhành liễu?
Nói một cách
đơn giản, ngài đã thấu suốt được lẽ chơn không và diệu hữu. Hai câu trên
chỉ cho lý chơn không, hai câu dưới nói pháp diệu hữu.
Chúng ta tiếp
theo đọan khác:Bồ đề tát đỏa y Bát Nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh
Niết Bàn.
Đoạn trước,
đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy lẽ chơn không, ngài nói lên sự hữu ích
của nó, ngài nói: "Nương nơi trí huệ cứu cánh này, tâm không quái ngại,
không có kinh sợ, xa lìa tất cả điên đảo, những mộng tưởng, được Niết bàn
cứu cánh".
Phần trên là
một tràng phủ định, đến đọan này lại một mạch khẳng định. Ngài dẫn chứng
cho chúng ta thấy, không riêng Bồ tát Quán Tự Tại thực hành sâu Bát Nhã Ba
la mật, mà còn có rất nhiều vị Bồ tát khác cũng thực hành như thế. Tâm các
ngài không còn ngăn ngại, xa lìa những điều kinh sợ và không còn mê lầm,
điên đảo mộng tưởng. Cuối cùng các ngài được cứu cánh Niết bàn. Như vậy, ở
trước nói không được, đến đây lại được, tức là được Niết bàn cùng tột. Nói
Niết bàn cùng tột thì không có gì là được, Không được mà được. Vì không có
ngã pháp thật nên được an ổn hoàn toàn, đó là được Niết bàn cứu cánh. Được
mà không có gì được, vì ngả pháp đều không, nên cũng không thể nói được.
Chư Bồ tát y
nơi Bát Nhã được Niết Bàn, Phật cũng y Bát Nhã được vô thượng Bồ đề. Ngài
nói: "Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba la mật đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề. Tức là chư Phật trong ba đời đều nương theo trí huệ Bát
Nhã, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vậy chúng ta
muốn làm Phật, Bồ tát cũng phải nương theo trí huệ đó tu tập. Trí huệ Bát
Nhã chính là con đường của các Bồ Tát, chư Phật đi. Chúng ta muốn đi theo
Phật, Bồ tát thì cũng phải đi con đường đó, các ngài đã đi qua và vẽ lại
con đường rõ ràng như vậy, chúng ta chỉ cần bắt đầu nương theo đó mà đi.
Chúng ta hãy y theo đây tu tập quán chiếu hàng ngày, hàng giờ phút, hằng
tâm niệm, có thế mới thành đạt chí nguyện người tu.
Và đây Phật
nói đến cái diệu dụng của Bát Nhã, ngài nói: "Cố tri Bát Nhã Ba la mật đa,
thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng
chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thật bất hư. Nghĩa là: Thế nên biết trí
huệ cứu cánh này là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô
đẳng chú, hay trừ hết tất cả khổ, chơn thật không luống dối.
Như vậy chúng
ta cố giữ mãi trí huệ đó, nó sẽ có công năng như là đại thần chú, là đại
minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ tất cả khổ, chơn
thật khống luống dối. Đó là nói lên diệu dụng không cùng của Bát Nhã. Ngày
xưa, khi nói tới diệu dụng nhiệm mầu nhất thì người ta nói tới thần chú. Ở
Ấn Độ, có những thần chú như: đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú,
vô đẳng đẳng chú, toàn là những thần chú cao siêu không lường. Tuy thế nếu
dùng được trí huệ Bát Nhã thì bao trùm hết tất cả thần chú đó, vượt qua
khổ nạn. Thế thì chỉ cần trì Bát nhã, cũng gồm đủ hết cả thần chú, diệu
dụng không sao kể xiết. Nhưng trì bằng cách nào?
Trì Bát Nhã
không phải đem kinh Bát Nhã ra tụng suốt ngày đêm, cho là trì Bát Nhã. Trì
Bát Nhã tức là quán chiếu ngũ uẩn đều không, khi đã thấy ngũ uẩn đều không
thì đó là ngã không, ngã không thì pháp cũng không. Trong ngã thấy không,
ngoài thấy lục trần cũng không, như vậy trong không có ngã, ngoài không có
pháp thì khổ nạn nào cũng qua khỏi.
Chúng ta thấy
bài kinh Bát Nhã này là một bài kinh tối quan trọng, để chúng ta bước vào
con đường tu hành. Có được trí Bát Nhã, dùng được trí Bát Nhã, việc tu của
chúng ta thật là an lành. Tuy tu mà không thấy gì là tu. Chỉ việc lau rửa
bụi trên mặt mà thôi, mặt chúng ta vẫn sạch, chỉ vì bụi bám. Hết bụi thì
mặt trở lại sáng sạch. Việc tu chỉ là sự biết vọng, rửa vọng. Vọng lặng
chơn hiện. Nhưng vọng không thật là vọng, chỉ vì mê nên có vọng có chơn.
Giác rồi nói vọng nói chơn làm gì? Bởi thế Bát Nhã là một cái ngõ vào đạo.
Thiếu nó con đường tu của chúng ta sẽ mờ mịt không đường tiến bước. Có Bát
Nhã tức là có ông chủ, chúng ta chỉ cần gặp lại ông chủ của chúng ta thì
đường vào đạo không còn xa nữa. Đã tu theo đạo giác ngộ mà không đi vào
cửa Bát Nhã này, thì thật không có cửa nào khác cho mình đi.
Đoạn kết
thúc:Cố thuyết Bát Nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết
đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha. Nghĩa là cho nên nói
thần chú Bát Nhã Ba la mật đa, liền nói chú rằng: Yết đế, yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.
Kết thúc bài
kinh này, khiến chúng ta ngạc nhiên. Tại sao ở trên đã nói Bát Nhã là đại
thần chú v.v... đến đây lại nói chú, có thừa chăng? Nếu nhìn với con mắt
thiền sư, lối kết thúc này rất kỳ diệu. Giá trị câu thần chú tương đương
với một tiếng hét, hay đập một gậy. Đọc thần chú, chúng ta không còn
phương cách nào suy nghĩ được. Thế là đã chỉ cho chúng ta thấy được chỗ
tột cùng mà đức Phật muốn dạy. Vì thế, trong nhà thiền, dùng bài tâm kinh
này làm nhật tụng. |