LUẬN GIẢI THI TỤNG MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN I:LUẬN THẲNG VỀ MỚI ĐIỀU PHỤC

Xét bởi, tình trần từ bao thuở, biển ái trong nhiều đời. Giống hệt hoa rêu bám vào kiếm, tựa bùn nhơ nuốt hòn ngọc; không có đá mài thì chẳng nhả ra, trừ bỏ bợn nhơ thì mới sáng soi. Muốn được tâm thanh tịnh, không gì hơn là sạch hết cấu uế. Người ngộ cần luôn giác quán, kẻ mê siêng gia công chiết phục. Còn như đối với gông cùm tham ái, cũng phải hết lòng miên mật suốt cả năm tháng. Nên Khổng Tử nói: “Khốn cùng mà chẳng chịu học, đây là hạng thấp kém vậy.” Tất cả bậc Hiền Thánh đều xứng với tâm mà làm. Pháp tánh không bờ mé, biển hạnh khó đo lường. Vì vậy, hoặc trong một sát-na hành đủ vô số kiếp, hoặc hằng hà sa kiếp chưa hết một niệm. Đều bởi người có hiền ngu, căn cơ có lợi độn, mà ngộ có chậm mau vậy. Hoặc đã ngộ nhập thôi dứt quá sớm, trí chẳng vào tới đạo vi diệu, thì khó thắng nổi tập khí. Nếu một niệm chẳng hết sạch, tức là cội gốc sanh tử, sẽ bị gió nghiệp lôi đi, trở lại vào trong bào thai thân sau. Như Tô Đông Pha là thân sau của Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh trở lại làm Lỗ Công. Sau khi đã tạo nên cái nhân thì theo duyên mà lưu chuyển. Nên nói: Đạo có tiêu mà không có lớn, nghiệp có thêm mà không có bớt. Hoặc kẻ có duyên sâu với Bát-nhã chẳng rơi vào ba đường dữ mà ra thai vào thai cũng rất khổ nhọc. Huống chi người thời mạt pháp hiện nay, căn khí phần nhiều thấp kém, nhân vì khó khổ mà đi xuất gia, phát tâm đã không chân chánh, công phu lại chẳng tinh thuần. Một phen tình cờ ở nơi cơ phong của Phật Tổ hiểu biết được ngôn ngữ, hoặc ngộ được chỗ xưa nay thành Phật, chỗ ngay đó tức phải, chỗ ý thức nghĩ chẳng đến, ngôn ngữ nói chẳng kịp, chỗ tất cả chẳng thể được, tức cái chẳng thể được cũng chẳng thể được, đem hòa hội với câu nói của người xưa thảy đều tương tợ. Đã được cái hiểu tương tợ, liền tỏ vẻ lạ lùng nói: Rong ruổi tìm kiếm đã thôi dứt, ta là đạo nhân vô sự. Biết được phiền não là huyễn, thì cứ buông tình để cho phiền não tự do. Biết được tu hành vốn không, liền thả ý để làm hư hỏng việc tu hành. Bảo rằng bố thí vốn không, trái lại bỏ bố thí mà giữ lấy keo kiết. Bảo rằng nhẫn nhục vốn không, trái lại thuận theo tình mà bỏ nhẫn. Hoặc nói đến giới thì nói: Vốn không trì phạm, cần gì trọng trì mà khinh phạm. Hoặc nói đến thiền thì nói: Vốn không định loạn, cần gì bỏ loạn mà giữ lấy định. Thuận theo tình ý, bàn luận có không. Hãy nói, lửa yêu ghét, khen chê vừa chạm đến liền bốc cao, gió sanh già bệnh chết thổi nhẹ qua đã động, tranh nhân tranh ngã, nói phải nói quấy. Đến nỗi lấy tánh nóng làm khí phách, lấy ngã mạn làm thừa đương, lấy xảo quyệt làm cơ dụng, lấy vọng ngữ làm phương tiện, lấy buông lung làm du hí, lấy lời thô làm gỡ dính, ca ngợi kẻ phá giới luật không có công hạnh gì, khinh lờn bậc mẫu mực có thực hành. Chỉ nghiêng về một bên lý, nên đối với chỗ cùng huyền cực diệu (chỗ tột của đạo), không có dấu vết gì. Dứt bỏ sạch bên cửa thực hành, nên buông thả tâm ý, không còn qui củ. Miệng nói niệm Phật, tụng kinh, lễ lạy là Tiểu thừa chấp tướng; dạy người tu tập, còn chính mình thì ngồi chơi. Hoặc suốt năm chẳng lạy một vị Phật, chẳng một lần lễ sám hối, chẳng tụng một bộ kinh. Trái lại, những sách vở thế gian không cần thiết thì ghi chép, hạnh người tu không nên làm việc thế tục mà làm, xưng là bác học. Khinh rẻ quả Phật chẳng chịu tu, cũng không cần làm một chút điều lành. Khiến cho trẻ nhỏ hậu sanh ra vẻ thông minh, chỉ tìm kiến giải, vừa có chỗ hiểu biết liền cho là một nhảy thẳng vào, còn gì phải nói. Rồi ngông cuồng ngạo mạn, cống cao trừng trợn, miệng nói bừa bãi, thân không chọn bạn. Chẳng nghĩ đến tình dục thế gian vẫn đầy tràn không ngằn mé, thế nào lại dùng lời hoạt bát mà phá vỡ cửa nhân quả! Tự lầm làm lầm mọi người, đâu tránh khỏi bị chìm đắm. Nếu chẳng bị ma thâu nhiếp, nhất định phải đọa mãi nơi tam đồ, chịu cảnh núi đao rừng kiếm để đền lại cái nhân trước kia, và mang lông đội sừng để đáp trả cái quả sau đó.

Chớ nói “Ta là người đã giác xong, giải ngộ rồi, nghiệp không thể trói buộc”. Nói nghiệp không thể trói buộc, chẳng phải nói có mà thành không, chính do không mà tự không. Sống đã theo cảnh liền động, khi chết làm sao chẳng theo nghiệp thọ sanh? Nên nói: Trước mắt một niệm hiện tướng sân, chính là hình ảnh con rắn dữ. Trước mắt một niệm hiện tướng tham, chính là giống nòi ngạ quỉ. Cái nhân niệm không hình tướng thì rất nhỏ, mà quả báo có hình tướng lại rất lớn. Sự nhỏ nhiệm của một niệm được giữ gìn trong ruộng thức, dù trải qua ngàn muôn kiếp vẫn không mất. Nên Cổ đức nói: “Bậc hiền triết ngày trước chí to tát, tâm tinh thuần, xét lý miên mật không quên một thời khắc nào, ngầm thực hành thần linh cũng khó lường; sớm tối như đi vào vực sâu, đạp trên băng mỏng, hẹn kỳ chứng ngộ, thì tự nhiên đủ cứu được mình; trọng thật chẳng trọng rỗng, quí làm mà chẳng quí nói, đi qua có mà chẳng trụ có, thực hành không mà chẳng kẹt không; từ điều thiện nhỏ mà chứa thành công đức thù thắng nương cái nhân tí xíu mà được thành cái quả to lớn.” Huống lại, người hiện nay vô minh phiền não hừng mạnh còn nguyên, mà muốn đem cái kiến giải tương tợ để làm tiêu hết nghiệp dữ kia, mong ra khỏi tam đồ, thật không có lẽ đó. Nhằm giúp cho hạng người này, chẳng thể lấy chút ít cho là đủ, thường theo như lời nói mà tu hành, trọn chẳng đuổi theo hạng thiền trên đầu môi.

Nếu đem chỗ thấy hiểu tương tợ mà lo nói cho sướng miệng, thì như trùng đục cây ngẫu nhiên thành chữ, hay tợ con chim học nói rỗng, hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Phiền não đã chẳng bớt, ngã mạn lại thêm cao. Đó là chấp bậy tà không, chẳng phải khéo đạt pháp thể. Huống một mạch sống nơi cửa ngộ hiện nay, tuy nói là chẳng dứt, mà bậc Thiền học ở Trung Quốc như lúa, mè, tre, lau nhưng người được diệu ngộ có mấy người? Như nói từ đời Đường, Tống trước kia đến nay có vài ba vị cư sĩ tại gia, lối đi ngay thẳng đáng dùng để lưu thông pháp này. Song đã là cư sĩ thì chẳng đồng với hàng Sa-môn Thích tử, còn có giới luật giữ chặt mình, mới đem thân vào trong nhà lửa, đưa tâm vào biển phiền não. Còn họ tuy thông thạo việc đời, hoặc có kẻ bên trong loáng thoáng được một cửa vào, nhưng đạo lực rất cạn. Hoặc có kẻ giỏi tài văn chương, rất mực phong lưu như Hoàng Lỗ Trực, Bạch Lạc Thiên, Tô Tử Chiêm; học đạo như Hồ Khang Hầu, Trương Tử Thiều... đều được xếp vào Truyền Đăng. Nói chung nhóm người trên đây, chưa nói là được tất cả vô ngại. Huống nữa, với kẻ cuồng giải thời nay, kẹt danh chấp tướng, chính là phàm phu hữu lậu, nếu bài bác nhân quả, thì đúng là hạng ngoại đạo chấp không.

Hoặc có kẻ, tự mình chướng sâu tuệ cạn, thầy truyền dạy cho mà chẳng sáng, bị tà nhập đến tận xương tủy, bỏ mất chân thật.

Hoặc có kẻ, giới pháp sơ sài, cương thường lộn xộn, phạm đến những điều ngăn cấm.

Hoặc có kẻ, giáo lý chưa sáng tỏ, bàn bậy nghĩa sai lầm, rơi vào ngoại đạo.

Hoặc có kẻ, hạnh nguyện đều chẳng tu, mê mờ vào nẻo tà, đọa nơi chấp trước của ma.

Than ôi! Muốn cho người không mê lầm thật khó! Tôi tuy không phải người mẫn tiệp mà thật tình thương xót họ lắm! Song tôi cũng đành chịu vậy thôi! Người xưa nói: “Nắm tay kéo người đi chẳng được, chỉ người tự chịu đi mới tương ưng.” Nên Tổ Qui Sơn mở ý cho rằng: “Kính mong hãy dấy chí quyết liệt, mở lòng thông suốt, động dụng cần nhìn lên bậc trên, chớ chuyên theo hạng tầm thường. Đời nay phải quyết đoán ngay, toan tính chẳng do người khác.” Hoặc chỗ phồn hoa, huyên náo phải tránh xa; hoặc chỗ quán rượu, lầu ca, chỗ ân nghĩa quen thuộc dạo chơi, chỗ thi đàn, văn xã, hơn thua chữ nghĩa, chỉ trích xưa nay, so sánh hay dở; hoặc chỗ đạo học giảng nói đâu đâu không ý nghĩa gì, chỗ nhà nghĩa giải đua tranh danh tướng, khoe khoang tiểu trí, chỗ cuồng giải về tông thừa, vọng bàn đốn ngộ mà xem thường giới luật, mỗi mỗi đều phải tránh xa. Vì sao? Vì những nơi đó làm cho rối đạo, cùng với ma khác gì. Tránh xa những chỗ như trên thì tất cả đạo nghiệp sẽ thành tựu xong. 

Lại người xưa cũng nói: “Tất cả cơ ngộ, chẳng phải bạn lành thì chẳng phát được. Tất cả pháp ác, chẳng phải bạn lành thì chẳng ngăn dừng được.” Như nhà Nho nói: “Do văn mà gặp bạn, do bạn mà giúp cho lòng nhân”, là ý đó. Ví như tánh gió tuy rỗng, từ rừng chiên-đàn thổi mùi hương tới, thì gió có mùi thơm lạ; hoặc do thổi qua đám phân nhơ mà bay tới, thì gió liền hôi thúi. Với bạn thì cũng như vậy. Do đó người tu hành tìm bạn, phải phân biệt thật kỹ giữa nhơ và sạch: Một là bạn bè ở chốn rừng núi thảnh thơi, vì hay ngăn được tâm nóng bức. Hai là bạn bè giữ kỹ giới luật, vì hay lợt lạt về ngũ dục. Ba là bạn bè trí tuệ rộng lớn, vì hay ra khỏi bến mê. Bốn là bạn bè nhớ giỏi hiểu rộng, vì hay giải quyết những nghi ngờ nạn vấn. Năm là bạn bè sống yên vắng khắc khổ, vì hay nương nhờ để tiến thủ. Sáu là bạn bè khiêm hạ nhẫn nhục, vì hay làm tiêu mòn ngã mạn. Bảy là bạn bè lòng thẳng nói ngay, vì hay đè bẹp các lỗi. Tám là bạn bè dõng mãnh tinh tấn, vì hay thành tựu đạo quả. Chín là bạn bè xem nhẹ của cải ưa bố thí, vì hay phá lòng keo kiệt to. Mười là bạn bè nhân từ che trùm các vật, vì hay xô dẹp những chấp ngã nhân.

Nếu không có bạn trong sạch như thế, tức phải lui về ở một mình, tự lo cho xong đạo nghiệp. Dùng tượng Phật làm thầy, dùng kinh luận làm bạn, ngoài ra những kẻ đùa chơi khác, thà dứt tuyệt chớ kết giao. Như vào trong vườn, dù không có hoa đẹp, cũng chẳng trồng thứ cỏ hôi, không ích gì cho tâm thưởng ngoạn, chỉ luống thêm sự chán ghét thôi. Nên Hòa thượng Vĩnh Minh nói: “Thân ở trong biển khổ, cậy có Thiết La-hán. Đã ra khỏi biển khổ, thì bỏ bè lên bờ kia.” Nên nói: “Nếu người bên trong mang Thánh thai thì nói ra lời quả cảm, khác thường, lời nói không do dự.”

Hoặc giả có người xem qua luận này, cho lời tôi nói là xác đáng, thì chóng nên ăn năn sửa đổi, sanh lòng rất hổ thẹn, phát đại dõng mãnh, tự nhận gánh vác lấy. Đời nay chẳng rõ xong, còn đợi đến bao giờ? Nên nói: “Từ phàm vào Thánh chưa có ai chẳng tu mà được.” Nếu muốn sáng được việc trên bổn phận, đời nay chẳng nhận lấy xong xuôi, thì hãy xem văn dưới đây, giải thẳng mười bài tụng rành rẽ cả đầu đuôi.

GIẢNG

Xét bởi, tình trần từ bao thuở, biển ái trong nhiều đời. Giống hệt hoa rêu bám vào kiếm, tựa bùn nhơ nuốt hòn ngọc; không có đá mài thì chẳng nhả ra, trừ bỏ bợn nhơ thì mới sáng soi.

Người mới điều phục phải thế nào? Phải nhớ rằng: “Tình trần từ bao thuở, biển ái trong nhiều đời”, chúng ta dính mắc với trần cảnh không biết từ bao giờ, lặn chìm trong biển ái không biết bao nhiêu kiếp. Như vậy tình trần biển ái làm đắm chìm chúng ta từ bao thuở bao đời.

“Giống hệt hoa rêu bám vào kiếm, tựa bùn nhơ nuốt hòn ngọc; không có đá mài thì chẳng nhả ra, trừ bỏ bợn nhơ thì mới sáng soi.” Đây dùng thí dụ: Như cây kiếm bén để dưới sông dưới biển lâu ngày bị rêu bám vào, thì kiếm còn bén không? Như hòn ngọc sáng bị lấp dưới vũng bùn, thì ngọc còn sáng không? Cho nên tuy có kiếm bén, tuy có ngọc quí nhưng kiếm bén bị rêu bám, ngọc quí bị bùn phủ, thì đều không có giá trị. Cần phải có đá mài thì kiếm mới nhả hết rong rêu, cần phải gạt bỏ bùn đất thì hòn ngọc mới sáng. Cũng thế, người tu tuy nhận ra nơi mình có tánh thật, có tâm chân, nhưng nếu không khéo tu, không khéo mài giũa thì tánh thật tâm chân giống như kiếm bén bị hoa rêu bao phủ, như ngọc quí bị bùn nhơ nuốt lấp.

Muốn được tâm thanh tịnh, không gì hơn là sạch hết cấu uế. Ở đây nói rất là cụ thể, nghĩa là cái thanh tịnh với cái cấu uế không có dung nhau. Nếu trong tâm đầy cấu uế thì không thanh tịnh. Muốn thanh tịnh thì phải sạch hết cấu uế. Cấu uế tức là tâm điên đảo vọng tưởng của mình.

Người ngộ cần luôn giác quán, kẻ mê siêng gia công chiết phục. Người đã ngộ được Bản tánh rồi, cũng cần phải luôn luôn giác quán, kẻ còn mê chưa ngộ thì phải siêng năng gia công chiết phục những vọng tưởng của mình.

Còn như đối với gông cùm tham ái, cũng phải hết lòng miên mật suốt cả năm tháng. Bệnh tham ái của con người giống như gông cùm, nó xiềng xích không cho mình tự do. Muốn dẹp nó thì phải miên mật tu hành suốt cả năm tháng, nên Ngài dẫn lời của Khổng Tử: “Khốn cùng mà chẳng chịu học, đây là hạng thấp kém vậy.”

Tất cả bậc Hiền Thánh đều xứng với tâm mà làm. Những bậc Hiền Thánh, tâm như thế nào thì các ngài ứng dụng thực hành đúng như thế ấy, gọi là xứng với tâm mà làm.

Pháp tánh không bờ mé, biển hạnh khó đo lường. Pháp tánh của mọi loài chúng sanh thênh thang không bờ mé. Cho nên người tu phải dùng công hạnh nhiều như biển không thể lường được mới có thể phù hợp.

 Vì vậy, hoặc trong một sát-na hành đủ vô số kiếp, hoặc hằng hà sa kiếp chưa hết một niệm. Đều bởi người có hiền ngu, căn cơ có lợi độn, mà ngộ có chậm mau vậy. Có những vị đã làm Bồ-tát hạnh nhiều đời, cho nên khi ra đời chỉ trong chốc lát có thể hành đủ vô số kiếp. Có người hành vô số kiếp cũng chỉ bằng trong một niệm của người. Tại sao? Bởi vì người có hiền có ngu, căn cơ có lợi và độn, nên khi ngộ khi hành có chậm và mau.

Hoặc đã ngộ nhập thôi dứt quá sớm, trí chẳng vào tới đạo vi diệu, thì khó thắng nổi tập khí. Đây Ngài nói riêng những người đã ngộ đạo rồi, nhưng chưa sạch hết tập khí, mà ngang đó tự thấy mình đủ, nên thôi dứt quá sớm, tức là bỏ không hành công phu nữa. Thế nên trí chưa tới chỗ vi diệu, thì khó thắng nổi tập khí, bị tập khí lôi đi không làm chủ được.

Nếu một niệm chẳng hết sạch, tức là cội gốc sanh tử, sẽ bị gió nghiệp lôi đi, trở lại vào trong bào thai thân sau. Người nào ngộ rồi mà thôi dứt quá sớm, trí không vào tới chỗ đạo vi diệu thì không chống đỡ nổi tập khí. Nếu trong tâm còn một niệm chưa hết sạch, đó tức là cội gốc sanh tử. Còn cội gốc sanh tử thì sẽ bị gió nghiệp lôi đi, trở lại vào trong bào thai thân sau.

Đến đoạn này, Ngài dẫn:

Như Tô Đông Pha là thân sau của Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh trở lại làm Lỗ Công. Sau khi đã tạo nên cái nhân thì theo duyên mà lưu chuyển. Nên nói: Đạo có tiêu mà không có lớn, nghiệp có thêm mà không có bớt.

Ngài giải thích: Nếu ngộ đạo mà chưa tới chỗ cứu kính sạch hết muôn niệm thì cũng vẫn còn phải tái sanh.

“Như Tô Đông Pha là thân sau của Ngũ Tổ Giới.” Trong nhà thiền hay nói ông Tô Đông Pha đời Tống là thân sau của Ngũ Tổ Giới, tức là Thiền sư Giới ở núi Ngũ Tổ [Thiền Sư Trung Hoa tập II]. Ngũ Tổ Giới ngộ đạo rồi mà chưa sạch niệm, cho nên phải tái sanh làm Tô Đông Pha.

Ông Tô Đông Pha làm quan Nội hàn, tên là Tô Thức, tự là Tử Chiêm nổi tiếng văn hay đời Tống, sau ông cũng ngộ đạo và tu.

“Thảo Đường Thanh trở lại làm Lỗ Công.” Thảo Đường Thanh tức là Thiền sư Thiện Thanh ở Thảo Đường trở lại làm Lỗ Công. Thảo Đường Thanh sanh năm 1057, tịch năm 1142, hiệu là Thảo Đường tên là Thiện Thanh, nối pháp ngài Hối Đường Tổ Tâm dòng Lâm Tế. Ngài có để lại quyển Thảo Đường Thiện Thanh Hòa Thượng Ngữ Yếu.

Lỗ Công tên là Hoàng Đình Kiên, tự là Lỗ Trực, làm chức Thái sử ở Sơn Cốc, ông viết văn rất hay. Sau ông gặp Thiền sư Hối Đường, Hối Đường hỏi:

- Ông có nghe mùi thơm hoa quế chăng?

- Thưa nghe.

- Ta không giấu giếm ông gì cả.

Ngay đó ông chợt tỉnh ngộ.

Những sự tích này cho chúng ta biết rằng những vị tuy là Thiền sư ngộ đạo, nhưng vì chưa sạch hết niệm cho nên còn phải tái sanh, người làm Tô Đông Pha, người làm Lỗ Trực. Các vị này đều là những người văn hay chữ tốt, ra làm quan, nhưng cuối cùng khi ngộ trở lại, cũng đều đi tu.

“Sau khi đã tạo nên cái nhân thì theo duyên mà lưu chuyển”, nghĩa là khi còn một chút nhân thì phải theo duyên để lưu chuyển.

“Nên nói: Đạo có tiêu mà không có lớn, nghiệp có thêm mà không có bớt”, như vậy đạo không tăng trưởng mà nghiệp lại còn nguyên vẹn.

Hoặc kẻ có duyên sâu với Bát-nhã chẳng rơi vào ba đường dữ mà ra thai vào thai cũng rất khổ nhọc. Đây nói những người tu hành có duyên với Bát-nhã tức là đã có trí tuệ Bát-nhã, tuy chẳng rơi vào ba đường dữ, nhưng còn ra vào trong sanh tử thì còn phải khổ nhọc.

Huống chi người thời mạt pháp hiện nay, căn khí phần nhiều thấp kém, nhân vì khó khổ mà đi xuất gia, phát tâm đã không chân chánh, công phu lại chẳng tinh thuần. Ngài chê những người thời mạt pháp hiện nay, căn khí phần nhiều thấp kém, vì khó khổ mà đi xuất gia, tỉ dụ như vì thiếu cơm ăn áo mặc rồi chán vào chùa tu. Như vậy sự phát tâm đã không chân chánh, mà công phu lại chẳng tinh thuần, thì làm sao tu cho có kết quả!

Một phen tình cờ ở nơi cơ phong của Phật Tổ hiểu biết được ngôn ngữ, hoặc ngộ được chỗ xưa nay thành Phật, chỗ ngay đó tức phải, chỗ ý thức nghĩ chẳng đến, ngôn ngữ nói chẳng kịp, chỗ tất cả chẳng thể được, tức cái chẳng thể được cũng chẳng thể được, đem hòa hội với câu nói của người xưa thảy đều tương tợ. Đã được cái hiểu tương tợ, liền tỏ vẻ lạ lùng nói: Rong ruổi tìm kiếm đã thôi dứt, ta là đạo nhân vô sự. Thời mạt pháp hiện nay có người ngộ được những câu Phật Tổ nói, họ thấy như vậy biết như vậy, và đem so sánh với lời người xưa thấy cũng đúng, liền nói: Phần rong ruổi tìm đạo tới đây dứt nghỉ rồi, không còn tìm kiếm nữa. Ta là đạo nhân vô sự, thảnh thơi đi chơi. Bệnh đạo nhân vô sự này cũng thường gặp lắm!

Biết được phiền não là huyễn, thì cứ buông tình để cho phiền não tự do. Biết được phiền não là huyễn, thôi cứ mặc kệ, phiền não có gì quan trọng đâu! Nếu ai hỏi: Sao Thầy tu mà còn phiền não? Thì đáp: Phiền não là huyễn mà! Đó là thêm một bệnh.

Biết được tu hành vốn không, liền thả ý để làm hư hỏng việc tu hành. Thấy đạo rồi nên biết được việc tu hành vốn không. Đứng về mặt Thể tánh thì không thêm không bớt, làm gì có tu hành, cho nên nói tu hành vốn không. Rồi mặc tình thả cho ý mình chạy làm hư hỏng cả việc tu hành.

Bảo rằng bố thí vốn không, trái lại bỏ bố thí mà giữ lấy keo kiết. Nói bố thí vốn là không, cái gì cũng không, rồi không bố thí mà giữ keo kiết.

Bảo rằng nhẫn nhục vốn không, trái lại thuận theo tình mà bỏ nhẫn. Nói nhẫn nhục vốn là không, nhưng ai động đến thì nổi sân la lối.

Hoặc nói đến giới thì nói: Vốn không trì phạm, cần gì trọng trì mà khinh phạm. Về giới luật thì nói rằng giới không có trì phạm, đã không trì phạm thì cần gì trọng trì giới, khinh phạm giới.

Hoặc nói đến thiền thì nói: Vốn không định loạn, cần gì bỏ loạn mà giữ lấy định. Thuận theo tình ý, bàn luận có không. Hãy nói, lửa yêu ghét, khen chê vừa chạm đến liền bốc cao, gió sanh già bệnh chết thổi nhẹ qua đã động, tranh nhân tranh ngã, nói phải nói quấy. Đến nỗi lấy tánh nóng làm khí phách, lấy ngã mạn làm thừa đương, lấy xảo quyệt làm cơ dụng, lấy vọng ngữ làm phương tiện, lấy buông lung làm du hí, lấy lời thô làm gỡ dính, ca ngợi kẻ phá giới luật không có công hạnh gì, khinh lờn bậc mẫu mực có thực hành.

Đoạn này Ngài quở trách những người tu chưa tới mà cứ nói lý, bỏ hết tất cả công hạnh, miệng nói thì hay, nhưng gặp việc thì dở. Như vậy là tự mình đào huyệt chôn mình chớ không đi tới đâu, như nói: “Vốn không định loạn, cần gì bỏ loạn mà giữ lấy định.”

“Thuận theo tình ý bàn luận có không. Hãy nói, lửa yêu ghét, khen chê vừa chạm đến liền bốc cao, gió sanh già bệnh chết thổi nhẹ qua đã động”, nghĩa là tuy nói như vậy mà ai chê thì nổi giận, khi già bệnh chết tới thì hoảng hốt sợ hãi. Cái gì cũng nói không mà “tranh nhân tranh ngã”, nghĩa là tranh cãi để giành phần hơn về mình. “Nói phải nói quấy” là lối nói dối gạt chớ không có lẽ thật.

“Đến nỗi lấy tánh nóng làm khí phách”, nghe ai nói trái tai liền nổi nóng la lên, nói: “Tôi thẳng tánh lắm, thấy là nói, giận thì la chớ không có đè không có giấu. Ai nghe trái tai mà ráng nhịn ráng dằn là yếu, không thẳng tánh.” Mới nghe dường như hay nhưng rốt cuộc lại là dở.

“Lấy ngã mạn làm thừa đương”, sống trong cuộc đời thì tự cao tự đại, không chịu nhường nhịn một ai.

“Lấy xảo quyệt làm cơ dụng, lấy vọng ngữ làm phương tiện”, hiện nay những việc này có rất nhiều.

“Lấy buông lung làm du hí” là ăn chơi tự do.

“Lấy lời thô làm gỡ dính”, dùng những lời thô tháo để đáp lại câu hỏi của người cho đó là gỡ chấp phá chấp cho họ.

“Ca ngợi kẻ phá giới luật không có công hạnh gì, khinh lờn bậc mẫu mực có thực hành.” Khen kẻ phá giới luật, thong thả chơi bời, chê người mẫu mực tu hành.

Chỉ nghiêng về một bên lý, nên đối với chỗ cùng huyền cực diệu (chỗ tột của đạo), không có dấu vết gì. Dứt bỏ sạch bên cửa thực hành, nên buông thả tâm ý, không còn qui củ. Miệng nói niệm Phật, tụng kinh, lễ lạy là Tiểu thừa chấp tướng; dạy người tu tập, còn chính mình thì ngồi chơi. Dạy người phải tu tập, ngồi thiền, còn mình cho là xong rồi, thảnh thơi tự do. Đây là bệnh, cần phải nhớ thật kỹ.

Hoặc suốt năm chẳng lạy một vị Phật, chẳng một lần lễ sám hối, chẳng tụng một bộ kinh. Có những người tu khi được chút ít đạo lý, rồi cố chấp không chịu tu hành, lại tìm lý này lẽ kia để không tụng kinh lạy Phật, không ngồi thiền, mà cứ rong chơi tự do.

Trái lại, những sách vở thế gian không cần thiết thì ghi chép, hạnh người tu không nên làm việc thế tục mà làm, xưng là bác học. Bệnh này hiện giờ có rất nhiều trong nhà chùa. Những kinh điển thiết yếu cần học hiểu để tu thì không học, trái lại sách vở thế gian như tiểu thuyết hay những chuyện đâu đâu thì thích đọc. Những việc làm trong đạo thì không làm, còn những hạnh thế tục không nên làm thì làm, còn xưng là bác học, là người thông minh học rộng.

Khinh rẻ quả Phật chẳng chịu tu, cũng không cần làm một chút điều lành. Những người này coi thường quả Phật, nói rằng Phật hiện tại đây, đâu phải tìm cầu cố gắng, cho nên không nỗ lực tu, cũng không chịu làm những điều lành.

Khiến cho trẻ nhỏ hậu sanh ra vẻ thông minh, chỉ tìm kiến giải, vừa có chỗ hiểu biết liền cho là một nhảy thẳng vào, còn gì phải nói. Những kẻ hậu học chưa có hiểu gì, lâu lâu đọc một đoạn kinh, hoặc nghe một đoạn sử, nhận cho là đạo lý thấu đáo, đem trình kiến giải, nói là đủ rồi, vậy thì nhảy thẳng vào không còn việc gì phải nói.

Rồi ngông cuồng, ngạo mạn, cống cao trừng trợn, miệng nói bừa bãi, thân không chọn bạn. Tự cho mình đã hiểu được chút phần đạo lý, rồi ngông cuồng nói bậy làm càn, không kể gì là hạnh của người tu, là đức của người học đạo. Lại ngạo mạn coi thường tất cả hàng Tôn túc. “Cống cao trừng trợn, miệng nói bừa bãi” ai động tới thì trợn mắt làm dữ, không nói những lời đức hạnh, lại nói những lời thế tục làm cho ai nấy không muốn bàn chuyện với họ. Những người ấy lại không biết chọn bạn tốt để gần gũi cho nên hư thân một đời.

Chẳng nghĩ đến tình dục thế gian vẫn đầy tràn không ngằn mé, thế nào lại dùng lời  hoạt bát mà phá vỡ cửa nhân quả! Bởi vì ở thế gian, tâm tham đắm dục lạc không ngằn mé, cho nên giành giựt nhau, chém giết nhau không sợ tội lỗi. Thế mà lại bác nhân quả! Nếu con người còn hiểu biết nhân quả thì còn biết chỗ tu để tránh nhân dữ, làm nhân lành, do đó mà tránh tội ác, được phước lành. Nay nếu bác nhân quả thì còn gì để tu, còn gì để làm!

Tự lầm làm lầm mọi người, đâu tránh khỏi bị chìm đắm. Nếu chẳng bị ma thâu nhiếp, nhất định phải đọa mãi nơi tam đồ, chịu cảnh núi đao rừng kiếm để đền lại cái nhân trước kia và mang lông đội sừng để đáp trả cái quả sau đó. Những người bài bác nhân quả tự mình đã lầm, rồi làm lầm người khác, đâu tránh khỏi bị chìm đắm.

Lời ngài Quảng Trí răn nhắc rất là chí tình chí thiết. Tất cả chúng ta tu nếu không biết dè dặt, không biết bòn mót công đức thì sự tu hành dễ bị thối chuyển, dễ bị đổ ngã. Do đó khi phát tâm tu phải cẩn thận, lời lành thì nói, lời dữ thì chừa, điều lành dù nhỏ cũng cố gắng làm, điều dữ dù nhỏ cũng phải cố tránh, như vậy mới gọi là người biết tu. Trái lại nói những điều để phá lòng tin nhân quả của người làm cho người phải chịu tội lỗi đọa trong tam đồ, thì mình đã lầm, còn làm cho nhiều người khác phải lầm. Bởi vậy nên có câu chuyện Tổ Bá Trượng kể lại: Một hôm Tổ Bá Trượng thượng đường dạy chúng. Mãn buổi giảng, chúng ra hết, chỉ còn một ông già ở lại. Tổ hỏi: Ông là người gì, sao không ra về? Ông già thưa: Con không phải là người, con là hồ tinh biến thành người. Thuở xưa con làm Tăng tu ở núi này. Nhân có người hỏi: Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con đáp: Không rơi vào nhân quả. Do đó phải đọa làm thân chồn năm trăm kiếp.

Người đại tu hành tức là người tu hành cao, có rơi vào nhân quả không? Chỉ một câu đáp: “Người tu hành cao không còn rơi vào nhân quả”, mà phải đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Huống nữa là hiện đời này mình lại bài bác lý nhân quả thì đọa chừng bao nhiêu kiếp? Chắc cũng gấp đôi gấp ba lần! Cho nên chúng ta phải cẩn thận dè dặt chớ xem thường luật nhân quả.

Đây là lời răn nhắc những người tu, nếu có được chút ít phước đức, hiểu được một vài lý lẽ cao siêu của Phật, nhưng tập khí còn sâu dày, thì phải lặng lẽ cố gắng tu, đừng bài bác nhân quả, rồi nói những lời cao xa mà khi ai động đến thì sân hận đủ điều. Không tụng kinh, không lễ Phật, rồi nói Phật ở trên bàn là Phật gỗ, Phật xi măng, lại đem Phật thật của mình lạy Phật gỗ, Phật xi măng, như vậy có phải tội không? Thử hỏi khi chúng ta lạy Phật là đem Phật thật lạy hay đem Phật giả lạy? Thật ra thân này là giả, đem thân giả lạy Phật giả thì có tội gì mà không lạy. Đó là do lười biếng rồi tìm cách nói cho hay để tín đồ nể mình là cao siêu, chớ sự thật đó là tội lỗi. Nhắc lại câu chuyện khi xưa, ngài Hoàng Bá một hôm vào chùa lạy Phật. Vị thơ ký hỏi Ngài: Còn lạy Phật nữa sao? Ngài bảo: Phật mà không lạy thì lạy ai? Vị thơ ký nói: Như vậy cũng còn chấp tướng. Ngài liền tát một cái. Chúng ta cứ nghĩ tu hiểu đạo rồi không cần lạy Phật, không cần ăn chay, không cần làm lành..., đó là sai lầm lớn. Dù chúng ta ngộ đạo tới đâu, nhưng lạy Phật vẫn lạy, ăn chay phải ăn, làm lành cố gắng làm, những điều phải điều tốt không bỏ một chút nhỏ nào, đó mới là người đạo đức thật. Còn người mới hiểu chút ít rồi nói càn nói bướng không chịu tu hành, đó là người lợi dụng lời của Phật của Tổ, nói lý đạo cao siêu để che lấp lỗi lầm của mình, đó là tội lớn.

Chớ nói “Ta là người đã giác xong, giải ngộ rồi, nghiệp không thể trói buộc”. Đừng nói rằng ta đã giác ngộ rồi, nghiệp không thể nào trói buộc được.

Nói nghiệp không thể trói buộc, chẳng phải nói có mà thành không, chính do không mà tự không. Trong kinh có nói: Nghiệp không thể trói buộc những người đạt đạo. Tại sao? Ở đây mới giải thích: “Chẳng phải nói có mà thành không, chính do không mà tự không.” Nghĩa là không phải nghiệp trước có thật rồi sau do mình tu mà nghiệp biến thành không. Bởi vì nghiệp trước không có thật, cho nên nói chính do không mà tự không. Nghiệp từ đâu mà có? Từ ý niệm, mà ý niệm là thật có hay thật không? Thể của vọng tưởng, của niệm khởi, bản chất nó là không. Như chúng ta đang ngồi, bỗng nhớ chuyện hôm qua, nhìn lại xem cái nhớ đó ở đâu? Vừa nhìn lại thì nó tan mất. Như vậy cái nhớ đó, thể nó là có hay không? Nếu là có thì cái nhớ lại hiện cụ thể, đầy đủ. Nhưng nhìn nó thì nó mất tiêu, nó tan hoang. Thế thì thể của nó là không cho nên mới nói: Không phải trước có sau mới thành không, chính do thể nó là không cho nên nó tự không. Biết rõ thể của vọng tưởng là không mà vọng tưởng là nhân tạo nghiệp, nhân không thì quả cũng không. Nhưng nếu cái nhân không mà chúng ta theo nó, nuôi dưỡng nó thì thế nào? Ngài Khuê Phong nói: “Thể không mà thành sự.” Vọng niệm là thể không, nhưng theo nó thì thành sự. Ví dụ như đang nói chuyện, vừa nghe ai kích bác mình một câu thì nổi giận ngay. Trước khi nghe kích bác niệm nổi giận có hay không? Nó không có. Nhưng sau khi nghe kích bác nó liền nổi dậy. Ngay khi ấy, chúng ta biết chiếu soi lại, nhìn nó một lúc thì nó tan, nó thành không. Nếu niệm giận vừa dấy khởi, chúng ta nghĩ phải trừng phạt người kích bác mình, tức thì miệng nói quấy, tay làm quấy. Người ta không tha mình, người ta trừng phạt lại, thế là hai bên đều bị thương tích. Đó là “thể không mà thành sự”, tức là thành có mất rồi. Đây là chỗ chí yếu để chúng ta tu.

Tóm lại niệm khởi thể nó là không, song nếu chúng ta nuôi dưỡng theo nó thì nó thành sự, thành nghiệp. Nếu ngay khi niệm vừa khởi, chúng ta biết quán chiếu ngăn chận thì nó mất, tức là thể không trở về không, thì không thành nghiệp. Như vậy để biết khi nổi giận chúng ta quán chiếu xem cái giận từ đâu có, tìm một lúc nó mất, thôi thì hòa, không làm gì ai, không hại ai, thì không ai hại mình, mọi việc đều êm xuôi, đó là tu.

Tu lúc nào, tu làm sao? Ngày đêm ngồi thiền được sáu tiếng, sáu tiếng ngồi thiền là sáu tiếng tu, còn ngoài sáu tiếng ngồi thiền ra, ai động tới thì nổi giận gây sự, có phải là tu chưa?

Đâu phải chỉ sáu tiếng ngồi thiền mới là tu, mà chính khi làm việc gì, đứng ở đâu, tiếp xúc với ai, lúc nào cũng là lúc tu. Vì biết tu cho nên những phản ứng hoặc giận hoặc thương hoặc ghét vừa dấy lên thì chúng ta chận đứng liền, như thế mới dừng được nghiệp, đó mới thật là tu. Còn nếu ngoài giờ ngồi thiền ra gặp việc gì thì theo việc ấy, nghĩa là gặp việc giận thì giận, gặp việc thương thì thương, gặp việc ghét thì ghét, như vậy chưa phải là thật tu. Sáu giờ ngồi thiền là sáu giờ dụng công miên mật, ngoài ra tất cả các giờ khác cũng phải tu, tuy có hơi yếu nhưng luôn luôn là phải tu.

Nếu là tu sĩ, như khi đi đường nghe ai nói nặng mình một câu, vừa muốn phản ứng cự lại, liền chận ngay làm cho nó tiêu mất, đó là đang đi mà vẫn tu.

Còn Phật tử thì thế nào? Ngày nào ăn chay thì ngày đó tu, giờ nào tụng Kinh niệm Phật thì giờ đó tu. Còn ngoài các giờ đó ra thì ai sao mình vậy, phải không? Nếu tu cách đó thì chắc Phật cũng lắc đầu. Trước bàn Phật thì rất trang nghiêm, lạy Phật tụng Kinh rất thành kính, nhưng ra ngoài gặp ai nói trái tai thì nổi nóng la to. Như vậy trước bàn Phật là đệ tử Phật, mà ra ngoài nổi sân la ầm, lúc đó là đệ tử của ma mất rồi. Thế nên chúng ta tu chẳng những trong giờ tụng Kinh niệm Phật, mà tu trong tất cả công tác hoạt động, một phản ứng nào vừa xảy ra ở nội tâm, chúng ta liền chận đứng lại. Nhờ đó mà có thể tránh được những tai họa bất trắc và chúng ta được an ổn.

Với người tu, giờ nào cũng là giờ tu, người xuất gia tu rất chín chắn miên mật. Người tại gia tuy không tế nhị bằng, nhưng cũng phải tu, không nên nói rằng giờ nào rảnh niệm Phật tụng Kinh là giờ tu, còn giờ làm ăn thì không tu được. Nếu làm ăn mà không tu thì tạo tội rất nhiều, tụng một thời Kinh không biết có trôi hết tội không? Nếu có trôi chắc độ phân nửa, còn lại phân nửa mình phải lãnh chịu. Thế nên người Phật tử trong giờ rảnh rỗi tụng Kinh niệm Phật, phải chí thành dồn tâm lực mà tu, để khi ra làm các công việc cũng nhớ tu, tránh lời nói dữ, tránh hành động dữ để không tạo nghiệp ác.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM