LUẬN GIẢI THI TỤNG MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN I: LUẬN THẲNG VỀ MỚI ĐIỀU PHỤC (Đoạn tiếp)

Sống đã theo cảnh liền động, khi chết làm sao chẳng theo nghiệp thọ sanh? Sống chạy theo cảnh nên tâm dấy động, thì khi chết nhất định phải theo nghiệp thọ sanh. Nếu tâm dấy động lành thì thọ sanh chỗ lành, dấy động dữ thì thọ sanh chỗ dữ, chớ không tránh khỏi được.

Nên nói: Trước mắt một niệm hiện tướng sân, chính là hình ảnh con rắn dữ. Trước mắt một niệm hiện tướng tham, chính là giống nòi ngạ quỉ. Cái nhân niệm không hình tướng thì rất nhỏ, mà quả báo có hình tướng lại rất lớn.

“Trước mắt một niệm hiện tướng sân, chính là hình ảnh con rắn dữ.” Trước mắt chúng ta dấy lên một niệm sân, đó là chúng ta hiện tướng sân, tức là hiện hình ảnh con rắn độc. Khi nổi sân lên thì cái gì cũng dám làm, dùng tay đánh, dùng miệng chửi, giống như rắn độc hại người, nên nói là hình ảnh con rắn dữ.

“Trước mắt một niệm hiện tướng tham, chính là giống nòi ngạ quỉ”, một niệm tham dấy lên hiện ra tướng tham, chính là giống nòi ngạ quỉ hay quỉ đói, gặp thức ăn thì giành giựt nhau cũng giống như những đứa trẻ ham ăn, khi cúng cô hồn xong liền nhào vào giành giựt, đó là hiện tướng quỉ đói.

“Cái nhân niệm không hình tướng thì rất nhỏ, mà quả báo có hình tướng lại rất lớn.” Như cái nhân khởi tham hay khởi nóng giận thì rất nhỏ, nó không hình tướng, nhưng nếu chúng ta theo nó thì tạo thành quả có hình tướng rất là lớn. Như nói tâm sân thì xuống địa ngục, tâm tham thì làm ngạ quỉ, đó là thấy xa. Giờ đây nói thí dụ gần hơn. Như có người đi chiếc xe đạp mới ra chợ, dựng xe đi mua thức cần dùng. Một chú nhỏ nhìn thấy chiếc xe đạp mới liền khởi niệm thích muốn lấy. Niệm thích đó không có lớn, nếu ngay đó mà biết chận lại thì mọi việc êm xuôi, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vừa khởi niệm thích rồi nghĩ đi được xe đạp mới này thì sung sướng lắm, liền giựt chiếc xe đạp chạy, người ta tri hô lên, chú nhỏ bị bắt. Như vậy cái nhân khởi thích chiếc xe đạp rất nhỏ, nhưng khi bị bắt dẫn vô khám thì thành quả lớn, có thể bị ở tù. Cái nhân nhỏ chút xíu, nếu không chận được thì thành quả rất to.

Cũng như vậy, niệm sân khi mới dấy khởi, chỉ có chút xíu, nếu khéo điều hòa và tiêu hóa nó đi thì rất dễ, mọi việc đều êm xuôi. Nhưng nếu để nổi sân lên rồi miệng nói quấy, tay làm quấy, thì người lỗ đầu người dập mũi, còn va chạm mạnh hơn nữa có khi người chết, người bị tù suốt đời. Như vậy để chúng ta thấy rằng, nếu đuổi theo cái nhân tham, cái nhân nóng giận thì tạo thành nghiệp, nhân thì nhỏ mà quả rất là to.

Sự nhỏ nhiệm của một niệm được giữ gìn trong ruộng thức, dù trải qua ngàn muôn kiếp vẫn không mất. Một niệm khởi xấu hay tốt, được nuôi trong ruộng thức của mình, tuy là nhỏ nhưng rất khó tiêu hóa. Tại sao? Thí dụ như chúng ta có niệm ghét ai hay hờn ai, niệm đó không phải là lớn, nhưng nó được chôn trong ruộng thức của mình, cho nên năm mười ngày, hoặc đôi ba tháng sau, khi gặp lại người đó thì gương mặt mình không vui. Tại sao? Bởi vì cái nhân ghét hờn còn chôn ở trong ruộng thức, nên khi gặp lại người đó thì nó liền hiện ra nơi nét mặt, nơi cử chỉ. Nếu chúng ta không biết tìm cách tiêu hóa nó thì có khi chôn nó suốt cả đời trong ruộng thức.

Nên Cổ đức nói: “Bậc hiền triết ngày trước chí to tát, tâm tinh thuần, xét lý miên mật không quên một thời khắc nào, ngầm thực hành thần linh cũng khó lường; sớm tối như đi vào vực sâu, đạp trên băng mỏng, hẹn kỳ chứng ngộ, thì tự nhiên đủ cứu được mình; trọng thật chẳng trọng rỗng, quí làm mà chẳng quí nói, đi qua có mà chẳng trụ có, thực hành không mà chẳng kẹt không; từ điều thiện nhỏ mà chứa thành công đức thù thắng, nương cái nhân tí xíu mà được thành cái quả to lớn.”

Người xưa nói: “Bậc hiền triết ngày trước chí to tát, tâm tinh thuần”, nghĩa là người tu hay là bậc hiền triết đều nuôi dưỡng ý chí to tát, tâm tinh thuần tức là tâm luôn luôn gạn lọc, lóng lặng cho tinh thuần. Chí thì to, tâm thì thuần, hai điều này rất quan trọng.

“Xét lý miên mật không quên một thời khắc nào” là luôn luôn khi thấy nghe hoặc lúc dấy niệm đều xét tường tận không để nó lôi dẫn mình đi.

“Ngầm thực hành thần linh cũng khó lường.” Người thầm lặng tu, thần linh cũng không biết. Người xưa tu mà không ai hay biết. Còn chúng ta hiện giờ tu mà hay khoe như nói hôm đó tôi ráng nhịn được, nếu không thì tôi tát tai người ấy rồi. Chúng ta tu mà làm được chút ít điều tốt thì khoe, còn làm điều xấu thì che giấu mất. Vì hay khoe điều tốt, tưởng như mình làm nhiều điều thiện nên không làm thêm nữa, còn giấu kín điều xấu không cho ai biết, nên cứ làm điều xấu hoài. Rốt cuộc suốt đời cộng lại thì điều xấu nhiều hơn điều tốt, kết quả là đi đường khổ, chớ khó đi đường vui.

Các ngài khi xưa tu mà quỉ thần còn không biết huống nữa là người thường. Các ngài tu: “Sớm tối như đi vào vực sâu, đạp trên băng mỏng, hẹn kỳ chứng ngộ, thì tự nhiên đủ cứu được mình.” “Sớm tối như đi vào vực sâu,” đi vào vực sâu bờ thẳm, lúc nào cũng phải cẩn thận nên không bị té. Các ngài tu cũng như vậy, sớm tối gì cũng rất dè dặt, rất cẩn thận, làm một việc gì, nói một lời nào cũng dè dặt, không tạo buồn khổ cho người.

“Đạp trên băng mỏng.” Ở các xứ lạnh, vào mùa đông, trên mặt hồ nước đóng thành băng. Chỗ nào băng mỏng thì người đi phải nhón chân cho nhẹ không dám đạp mạnh sợ băng lủng mình rơi xuống nước. Cũng như vậy, người tu lúc nào cũng dè dặt cẩn thận như đi trên băng mỏng, không để sót một lỗi nhỏ, không để sơ sẩy một chút lạc lầm, như vậy việc tu mới có kết quả, mới “hẹn kỳ chứng ngộ”, tu như vậy mới mong có ngày chứng ngộ. “Thì tự nhiên đủ cứu được mình”, chứng ngộ rồi mới cứu được mình.

Đoạn trên có nói những niệm được chôn sâu trong tâm thức rất khó diệt, nếu tu không cẩn thận, thiếu miên mật thì nó không tiêu được. Một niệm vừa mống lên là phải tiêu diệt ngay thì nó mới hết, còn thả cho nó tự do thì không bao giờ hết được.

“Trọng thật chẳng trọng rỗng, quí làm mà chẳng quí nói.” “Trọng thật chẳng trọng rỗng”, nghĩa là cần lẽ thật, chớ không cần những cái rỗng. Rỗng tức là cái tu ngoài miệng. Như mình tu sơ sơ mà gặp ai thì nói tôi lúc này miên mật lắm, không có phí thì giờ. Nhưng khách đi rồi thì ở đây giỡn chơi, đó là rỗng chớ không phải thật. “Quí làm mà chẳng quí nói”, nghĩa là mình phải tu thật chớ không phải chỉ tu bằng ngôn ngữ, nói toàn những lời đạo đức thâm trầm mà không làm được gì cả.

“Đi qua có mà chẳng trụ có, thực hành không mà chẳng kẹt không.” Tất cả những sự vật hiện có chúng ta đều không dính không mắc, gọi là đi qua có mà chẳng trụ có. “Thực hành không mà chẳng kẹt không”, nghĩa là đạt được lý không của Bát-nhã, biết rõ các pháp tự tánh là không, mà không kẹt vào chấp không. Thế là không dính có, chẳng kẹt không, tức là không mắc kẹt ở hai bên.

“Từ điều thiện nhỏ mà chứa thành công đức thù thắng.” Một việc thiện nhỏ xíu là cái có rất nhỏ mà chúng ta cũng vẫn làm chớ không dám bỏ qua, nhờ vậy lâu ngày tích lũy thành công đức lớn. “Nương cái nhân tí xíu mà được thành cái quả to lớn”, từ một việc nhỏ mà chúng ta biết làm cho tốt, nghĩ cho tốt thì lâu ngày thành quả lớn.

Huống lại, người hiện nay vô minh phiền não hừng mạnh còn nguyên, mà muốn đem cái kiến giải tương tợ để làm tiêu hết nghiệp dữ kia, mong ra khỏi tam đồ, thật không có lẽ đó.

Ngài Quảng Trí quở: Huống lại, người hiện nay tức là người đương thời, vô minh phiền não hừng mạnh còn nguyên là vô minh phiền não lúc nào cũng hừng hực trong lòng, còn nguyên vẹn không thiếu một chút nào. “Mà muốn đem cái kiến giải tương tợ để làm tiêu hết nghiệp dữ kia”, kiến giải tương tợ tức là cái thấy biết hơi giống giống, nói rằng hiểu vậy là hết nghiệp, đó là chuyện vô lý. “Mong ra khỏi tam đồ, thật không có lẽ đó”, họ nghĩ rằng có được chút kiến giải rồi sẽ ra khỏi ba đường ác, địa ngục ngạ quỉ súc sanh, thật không có lẽ đó.

Nhằm giúp cho hạng người này, chẳng thể lấy chút ít cho là đủ, thường theo như lời nói mà tu hành, trọn chẳng đuổi theo hạng thiền trên đầu môi.

Nhằm giúp đỡ cho hạng người này, cho nên Ngài bảo họ đừng thấy được chút ít cho là đủ, phải thường theo như lời nói mà tu hành, nói được thì phải làm được. “Trọn chẳng đuổi theo hạng thiền trên đầu môi” là đừng bắt chước theo những người nói thiền ở ngoài miệng, chỉ nói lý trên trời trên mây mà tu hành thì không ra gì, gặp rượu thì uống rượu, gặp thịt thì ăn thịt. Nếu có ai nói gì thì bảo: “Vậy chớ Tuệ Trung Thượng Sĩ đó, gặp cá thịt thì gắp cá thịt, gặp chay thì ăn chay, vậy có lỗi gì?” Như vậy là lấy sự việc của người xưa làm cái cớ để bao che cái tham lam mê theo dục lạc của mình. Những hạng người đó là hạng thiền trên đầu môi.

Qua đoạn này chúng ta thấy lời răn nhắc của Thiền sư Quảng Trí rất là tha thiết, không muốn để cho chúng ta khi tu có được chút ít công phu rồi tự hài lòng thỏa mãn chấp vào đó mà không chịu cố gắng đi cho đến nơi đến chốn, trái lại do chấp mà trở thành bệnh, rồi nói những điều không đúng lẽ thật, làm những việc không đúng chân lý, mà tạo thành nghiệp chịu khổ. Cho nên Ngài khuyên phải ráng sửa, ráng hành, chớ đừng bắt chước hạng thiền trên đầu môi.

Nếu đem chỗ thấy hiểu tương tợ mà lo nói cho sướng miệng, thì như trùng đục cây ngẫu nhiên thành chữ, hay tợ con chim học nói rỗng, hoàn toàn không có ý nghĩa gì.

Nếu chúng ta đem cái thấy hiểu tương tợ tức là giống giống thôi chớ không phải thật mà nói cho sướng miệng khoe mình đủ thứ, thì giống như mấy con mối ăn cây ngẫu nhiên thành chữ, chớ không có ý nghĩa gì. “Hay tợ như con chim học nói rỗng”, mình kêu cha nó cũng kêu cha, nói mô Phật nó cũng mô Phật, mình nói sao nó cũng nói lại như vậy, dù cho nó có chửi mình cũng không giận, vì nó nói rỗng, hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả. Nếu chúng ta chỉ nói mà không chịu tu thì dù có nói hay bao nhiêu cũng là vô nghĩa.

Phiền não đã chẳng bớt, ngã mạn lại thêm cao. Khoe hay nói giỏi thì phiền não ở mình không bớt mà ngã mạn lại thêm cao, vì thấy ta hơn người!

Đó là chấp bậy tà không, chẳng phải khéo đạt pháp thể. Người như vậy là người chấp bậy theo tà không tức là chấp không, chớ chẳng phải thấu suốt được pháp thể.

Huống một mạch sống nơi cửa ngộ hiện nay, tuy nói là chẳng dứt, mà bậc Thiền học ở Trung Quốc như lúa, mè, tre, lau nhưng người được diệu ngộ có mấy người?

Ngài nói rằng: Mạch thiền từ xưa mãi đến ngày nay liên tục không dứt. Những bậc Thiền học ở Trung Quốc nhiều như lúa, mè, tre, lau nhưng được diệu ngộ có mấy người? Tu thì rất nhiều mà diệu ngộ không có bao nhiêu.

Như nói từ đời Đường, Tống trước kia đến nay có vài ba vị cư sĩ tại gia, lối đi ngay thẳng đáng dùng để lưu thông pháp này. Đời Đường đời Tống có nhiều vị cư sĩ tại gia tu cũng ngộ đạo đáng để truyền bá pháp thiền.

Song đã là cư sĩ, thì chẳng đồng với hàng Sa-môn Thích tử, còn có giới luật giữ chặt mình, mới đem thân vào trong nhà lửa, đưa tâm vào biển phiền não.

Theo cái nhìn của ngài Quảng Trí, dù cho cư sĩ tu được như vậy, nhưng đã là cư sĩ thì không đồng với hàng Sa-môn Thích tử, tức là những người xuất gia. Tại sao? Bởi vì người xuất gia còn có giới luật giữ chặt mình, nghĩa là luôn luôn lấy giới luật làm nền tảng bảo đảm cho mình không phạm lỗi, không gây tội. “Có giới luật giữ chặt mình, mới đem thân vào trong nhà lửa, đưa tâm vào biển phiền não.” Ngài nói như vậy nhưng nhìn lại thì cũng phải dè dặt. Đúng ra, giới luật người xuất gia thì nghiêm nhặt hơn người cư sĩ tại gia. Cư sĩ tại gia giữ năm giới, còn người xuất gia tối thiểu cũng phải giữ mười giới. Như vậy người xuất gia giữ giới bằng hai người cư sĩ thì phải tu bằng hai hoặc bằng ba bằng bốn. Thí dụ người Phật tử giữ giới không được uống rượu, rượu mạnh không được uống, nhưng rượu nhẹ nhẹ như bia thì thỉnh thoảng cũng uống chút chút. Còn người tu sĩ giữ giới bằng hai thì cấm rượu mạnh, mà rượu nhẹ cũng phải cấm luôn. Thật ra người tu phải giữ giới luật, giữ đạo đức bằng năm bằng mười lần người cư sĩ mới hợp lý. Xuất gia rồi đâu có quyền bằng người cư sĩ, nhất định phải hơn thôi. Vì thế ngài Quảng Trí nói rằng “hàng Sa-môn Thích tử còn có giới luật giữ chặt mình, mới đem thân vào trong nhà lửa, đưa tâm vào biển phiền não”. Không biết hiện nay hàng Sa-môn Thích tử chúng ta có vào nhà lửa hay vào biển phiền não được không? Người cư sĩ không dám vào nhà lửa vì còn phải nuôi sống gia đình, không dám vào biển phiền não vì họ chưa hết phiền não. Còn người tu không có gia đình thì có thể hi sinh vào nhà lửa để cứu chúng sanh, hoặc vào biển phiền não mà không sợ bị đắm chìm nếu mình đã sạch phiền não. Việc này đối với người tu khi xưa không biết thế nào, chớ hiện giờ thấy hơi khó.

Còn họ tuy thông thạo việc đời, hoặc có kẻ bên trong loáng thoáng được một cửa vào, nhưng đạo lực rất cạn. Hoặc có kẻ giỏi tài văn chương, rất mực phong lưu như Hoàng Lỗ Trực, Bạch Lạc Thiên, Tô Tử Chiêm; học đạo như Hồ Khang Hầu, Trương Tử Thiều... đều được xếp vào Truyền Đăng. Nói chung nhóm người trên đây, chưa nói là được tất cả vô ngại. Huống nữa, với kẻ cuồng giải thời nay, kẹt danh chấp tướng, chính là phàm phu hữu lậu, nếu bài bác nhân quả, thì đúng là hạng ngoại đạo chấp không.

Nói tóm lại, người cư sĩ và người xuất gia hai bên có khác, người cư sĩ tuy có hiểu, có được chút ít đạo lực nhưng chưa sâu, chưa lớn. Còn người tu thì có lẽ cao hơn.

Đến đây Ngài dẫn chứng những người văn chương tài giỏi như Hoàng Lỗ Trực, Bạch Lạc Thiên, Tô Tử Chiêm.

Hoàng Lỗ Trực tức là Lỗ Công, tôi đã giảng ở đoạn trước.

Bạch Lạc Thiên là ông Bạch Cư Dị, tự là Bạch Lạc Thiên, sanh năm 772 tịch năm 846 đời Đường. Ông Bạch Cư Dị thâm hiểu về đạo cho nên sự tích của ông có ghi trong các quyển sách của nhà Phật như:

- Phật Tổ Thánh Ký, quyển 42.

- Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải quyển 15-16.

Tô Tử Chiêm tức là ông Tô Đông Pha, đã giảng ở đoạn trước.

Ngài Quảng Trí dẫn thêm những vị học đạo như: Hồ Khang Hầu, Trương Tử Thiều.

Hồ Khang Hầu tức là Hồ An Quốc, sanh năm 1074 tịch năm 1138 tự là Khang Hầu, hiệu là Thảo Am cư sĩ, người quê ở Sùng An, Kiến Ninh nay thuộc tỉnh Phước Kiến. Ông đỗ Tiến sĩ niên hiệu Thiệu Thắng, từng nhậm chức Thái học bác sĩ cấp sự trung thư xá nhân kiêm Thị giảng bảo văn các học sĩ. Khi mất được tên thụy là Văn Định. Ông từng tham thiền và được yếu chỉ nơi Thiền sư Tú ở Thượng Phong.

Trương Tử Thiều tức là Trương Cửu Thành sanh năm 1092 tịch năm 1159 tự là Tử Thiều, người quê ở Tiền Đường thời Nam Tống, nay là Hàn Châu tỉnh Chiết Giang, hiệu là Hoành Phố cư sĩ. Vốn là đệ tử nhà Lý học đương thời. Đỗ Tiến sĩ niên hiệu Thiên Hưng thứ hai, từng làm quan Trứ tác lang phong chánh thiếu khanh, quyền Lễ bộ thị lang. Do phản đối nghị hòa với quân Kim, bị Tần Cối đày ra Nam An Quận mười bốn năm. Sau khi Tần Cối chết, ông được trở về. Ông từng tham thiền và ngộ đạo với Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo.

Như vậy những vị này là những người văn hay chữ giỏi, tham thiền ngộ đạo có ghi trong sử. Nhưng với cái nhìn của ngài Quảng Trí cũng chưa phải là những người đến nơi đến chốn.

Hoặc có kẻ, tự mình chướng sâu tuệ cạn, thầy truyền dạy cho mà chẳng sáng, bị tà nhập đến tận xương tủy, bỏ mất chân thật. Có những người tu mà nghiệp chướng sâu dày, trí tuệ cạn mỏng, thầy có truyền dạy mà không thấu hiểu, bị những pháp tà đi sâu trong xương tủy, cho nên tu không đúng chánh pháp, bỏ mất cái chân thật.

Hoặc có kẻ, giới pháp sơ sài, cương thường lộn xộn, phạm đến những điều ngăn cấm. Có những người tu mà giới luật quá sơ sài, lại làm những việc tội lỗi, phạm đến những điều ngăn cấm trong giới luật.

Hoặc có kẻ, giáo lý chưa sáng tỏ, bàn bậy nghĩa sai lầm, rơi vào ngoại đạo. Những người tu không hiểu rõ giáo lý, bàn nghĩa sai lầm, rơi vào ngoại đạo.

Hoặc có kẻ, hạnh nguyện đều chẳng tu, mê mờ vào nẻo tà, đọa nơi chấp trước của ma. Có những người hạnh nguyện đều không chịu tu, mê mờ vào đường tà, đọa vào chỗ chấp trước của ma. Tóm lại đây đều là những người bệnh.

Than ôi! Muốn cho người không mê lầm thật khó! Tôi tuy không phải người mẫn tiệp mà thật tình thương xót họ lắm! Song tôi cũng đành chịu vậy thôi!

“Than ôi! Muốn cho người không mê lầm thật khó!” Muốn chỉ cho người tu đi đúng chánh pháp, đừng có mê lầm, thật là chuyện hết sức khó! “Tôi tuy không phải người mẫn tiệp mà thật tình thương xót họ lắm!” Ngài tự thấy mình không phải là người tài ba nhanh nhẹn, nhưng thấy kẻ sai lầm Ngài rất là thương xót. “Song tôi cũng đành chịu vậy thôi.” Tuy là thương nhưng không biết làm sao! Mình dạy mà họ chẳng nghe, mình bảo mà họ không làm, vậy biết làm sao!

Người xưa nói: “Nắm tay kéo người đi chẳng được, chỉ người tự chịu đi mới tương ưng.” Bây giờ vì thương, biết đường đó là lầm, nắm tay lôi họ bảo đừng đi, nhưng buông tay ra họ cũng trở lại đường đó nữa! Chỉ có cách là người đó tự chịu đi mới tương ưng, nghĩa là họ tự biết lỗi đi đường đó là sai, rồi họ đi theo mình, như thế mới tương ưng, tức là mới thích hợp, mới được kết quả.

Nên Tổ Qui Sơn mở ý cho rằng: “Kính mong hãy dấy chí quyết liệt, mở lòng thông suốt, động dụng cần nhìn lên bậc trên, chớ chuyên theo hạng tầm thường. Đời nay phải quyết đoán ngay, toan tính chẳng do người khác.”

Đây là dẫn lời cảnh sách của Tổ Qui Sơn. Mong cho mỗi Tăng mỗi Ni tu hành phải khởi chí quyết liệt, mở rộng tâm thông suốt, động dụng cần nhìn lên bậc trên, nghĩa là tất cả các hành động của mình đều bắt chước những người hơn mình, chớ đừng học theo những kẻ thua mình. Như ở trong chúng, chúng ta thích học theo người trên mình, hay học theo người dưới? Thí dụ người trên tu hành miên mật, ngày giờ rất khít khao. Còn một hai người dưới khi rảnh thì cười giỡn nói dóc. Kiểm tra lại coi chúng ta thích học theo người nghiêm chỉnh tu hành hay người đùa cợt ca hát? Ngồi yên tu có vẻ cực quá, lúc nào bị kềm chế bắt tu thì tu, buông ra thì nhập vào đám ca hát dễ hơn, bệnh của chúng ta là ở chỗ đó. Lý đáng chúng ta phải học với người trên, chớ không theo kẻ tầm thường. Nhìn theo người trên để học những điều hay thì nhất định chúng ta sẽ tiến lên. Còn nếu nhìn theo kẻ tầm thường thì chắc là đi xuống. Người trên ngoài giờ tu chánh, khi rảnh thì ngồi thiền, đó là người hơn mình. Còn người tầm thường, ngoài giờ ngồi thiền bắt buộc thì tìm chỗ vắng để cười giỡn nói dóc, chúng ta chớ nên bắt chước.

“Đời nay phải quyết đoán ngay, toan tính chẳng do người khác.” Tổ Qui Sơn nhắc chúng ta tu, ngay đời này phải quyết đoán cho xong, không để chần chờ kéo dài nhiều đời, toan tính chẳng do người khác mà chính chúng ta phải quyết định, chớ không cầu cứu với ai được.

Hoặc chỗ phồn hoa, huyên náo phải tránh xa; hoặc chỗ quán rượu, lầu ca, chỗ ân nghĩa quen thuộc dạo chơi, chỗ thi đàn, văn xã, hơn thua chữ nghĩa, chỉ trích xưa nay, so sánh hay dở; hoặc chỗ đạo học giảng nói đâu đâu không ý nghĩa gì, chỗ nhà nghĩa giải đua tranh danh tướng, khoe khoang tiểu trí, chỗ cuồng giải về tông thừa, vọng bàn đốn ngộ mà xem thường giới luật, mỗi mỗi đều phải tránh xa. Vì sao? Vì những nơi đó làm cho rối đạo, cùng với ma khác gì. Tránh xa những chỗ như trên thì tất cả đạo nghiệp sẽ thành tựu xong.

Đến đây ngài Quảng Trí giải thích thêm. Chúng ta cần phải tránh: một là chỗ phồn hoa đô hội, hai là chỗ huyên náo ồn ào. Kế đó là tránh quán rượu lầu ca, chỗ ân nghĩa quen thuộc dạo chơi tức là chỗ tiệc tùng đãi đằng bè bạn lâu ngày gặp lại. Cũng cần tránh chỗ thi đàn văn xã, chỗ hơn thua chữ nghĩa, chỉ trích xưa nay là chỉ trích người xưa người nay, ai mình cũng chê cũng chỉ trích, so sánh hay dở tức là so sánh người này hay người kia dở v.v...

“Hoặc chỗ đạo học giảng nói đâu đâu không ý nghĩa gì” tức là giảng dạy đạo mà nói trên trời trên mây không đúng với nghĩa đạo. “Chỗ nhà nghĩa giải đua tranh danh tướng” là những người học kinh học sách rồi đem các danh từ ra chia chẻ theo danh tướng làm cho rối bời lên. “Khoe khoang tiểu trí” là khoe khoang trí thông minh của mình.

“Chỗ cuồng giải về tông thừa, vọng bàn đốn ngộ mà xem thường giới luật.” Những người tu thiền có những cuồng giải và cho rằng tôi ngộ nên không cần giữ giới luật gì cả.

“Mỗi mỗi đều phải tránh xa”, những nơi đó người tu phải tránh xa. “Vì sao? Vì những nơi đó làm cho rối đạo, cùng với ma khác gì?” Nghĩa là những nơi đó làm cho tâm mình bận rộn điên đảo, như vậy chúng ta cũng không khác gì ma. “Tránh xa những chỗ như trên thì tất cả đạo nghiệp sẽ thành tựu xong.” Biết tránh xa những chỗ đó thì dễ thành tựu đạo nghiệp. Bằng không tránh thì đạo nghiệp sẽ tan hoang.

Lại người xưa cũng nói: “Tất cả cơ ngộ, chẳng phải bạn lành thì chẳng phát được. Tất cả pháp ác, chẳng phải bạn lành thì chẳng ngăn dừng được.”

Người xưa có nói: Tất cả cơ ngộ nếu chẳng phải thiện hữu tri thức hướng dẫn thì khó mà ngộ được. Còn tất cả những pháp ác nếu không phải thiện hữu tri thức gần gũi để nhắc nhở thì cũng khó mà ngăn dừng được. Cho nên gọi thiện hữu tri thức là người bạn lành.

Như nhà Nho nói: “Do văn mà gặp bạn, do bạn mà giúp cho lòng nhân”, là ý đó. Do được nghe giảng giải về sách vở mà gặp được bạn lành. Do bạn lành giúp cho mình tăng trưởng lòng thương yêu, là lý do đó.

Ví như tánh gió tuy rỗng, từ rừng chiên-đàn thổi mùi hương tới, thì gió có mùi thơm lạ; hoặc do thổi qua đám phân nhơ mà bay tới, thì gió liền hôi thúi. Với bạn thì cũng như vậy.

Như gió có mùi gì? Nếu từ chỗ thơm thổi tới thì có mùi thơm, từ chỗ hôi thổi tới thì có mùi hôi. Gió nguyên không có mùi, miễn thổi qua chỗ nào thì nó mang mùi của chỗ đó đi. “Với bạn thì cũng như vậy.” Khi trước chúng ta chưa huân tập cái tốt hay cái xấu. Nếu bây giờ gần được bạn lành thì chúng ta huân tập được cái tốt, gần bạn dữ thì chúng ta huân tập cái xấu. Thế thì bạn lành hay bạn dữ có tác dụng chuyển chúng ta từ xấu thành tốt hay từ tốt thành xấu. Ngài răn nhắc thêm:

Do đó người tu hành tìm bạn phải phân biệt thật kỹ giữa nhơ và sạch. Ngài chỉ bạn lành có rất nhiều hạng:

Một là bạn bè ở chốn rừng núi thảnh thơi, vì hay ngăn được tâm nóng bức. Hai là bạn bè giữ kỹ giới luật, vì hay lợt lạt về ngũ dục. Ba là bạn bè trí tuệ rộng lớn, vì hay ra khỏi bến mê. Bốn là bạn bè nhớ giỏi hiểu rộng, vì hay giải quyết những nghi ngờ nạn vấn. Năm là bạn bè sống yên vắng khắc khổ, vì hay nương nhờ để tiến thủ. Sáu là bạn bè khiêm hạ nhẫn nhục, vì hay làm tiêu mòn ngã mạn. Bảy là bạn bè lòng thẳng nói ngay, vì hay đè bẹp các lỗi. Tám là bạn bè dõng mãnh tinh tấn, vì hay thành tựu đạo quả. Chín là bạn bè xem nhẹ của cải ưa bố thí, vì hay phá lòng keo kiệt to. Mười là bạn bè nhân từ che trùm các vật, vì hay xô dẹp những chấp ngã nhân.

“Một là bạn bè ở chốn rừng núi thảnh thơi, vì hay ngăn chận được tâm nóng bức.” Những người ở chốn rừng núi thảnh thơi, nếu chúng ta ở gần những bạn lành này thì họ có thể ngăn chận được tâm nóng bức của mình.

“Hai là bạn bè giữ kỹ giới luật, vì hay lợt lạt về ngũ dục.” Những người khéo giữ giới luật, gần gũi những người bạn này chúng ta sẽ được họ nhắc nhở mà lợt lạt đối với ngũ dục thế gian.

“Ba là bạn bè trí tuệ rộng lớn, vì hay ra khỏi bến mê.” Những người bạn có trí tuệ rộng lớn luôn luôn nhắc chúng ta khéo tu để ra khỏi chỗ mê lầm, bước lên bờ giác.

“Bốn là bạn bè nhớ giỏi hiểu rộng, vì hay giải quyết những nghi ngờ nạn vấn.” Gần gũi được người hiểu rộng nhớ nhiều thì những gì chúng ta nghi ngờ đều được họ chỉ cho giải quyết không còn nghi ngờ nữa.

“Năm là bạn bè sống yên vắng khắc khổ, vì hay nương nhờ để tiến thủ.” Những người sống khắc khổ nơi vắng vẻ không có buông lung là người bạn tốt, gần họ thì càng ngày chúng ta càng tiến thêm.

“Sáu là bạn bè khiêm hạ nhẫn nhục, vì hay làm tiêu mòn ngã mạn.” Trong chúng nếu thấy người nào khiêm hạ nhẫn nhục thì chúng ta phải làm bạn thân, vì gần những người đó thì ngã mạn của mình lần lần tiêu mòn.

“Bảy là bạn bè lòng thẳng nói ngay, vì hay đè bẹp các lỗi.” Trong chúng có những người bạn lòng thẳng nói ngay, thấy cái gì dở thì rầy, thấy cái gì sai thì nhắc, không vị nể, cũng không bỏ qua. Gần những vị này lần lần những lỗi lầm của mình bị đè bẹp, bị sửa đổi hết.

“Tám là bạn bè dõng mãnh tinh tấn, vì hay thành tựu đạo quả.” Trong chúng có những người tu hành dõng mãnh tinh tấn, luôn luôn chuyên cần, nếu chúng ta gần gũi làm bạn với những vị ấy thì lần lần cũng được thành tựu đạo quả.

“Chín là bạn bè xem nhẹ của cải ưa bố thí, vì hay phá lòng keo kiệt to.” Ở trong chúng, người bạn nào coi nhẹ của cải, thích làm việc bố thí, gần được họ thì lâu ngày lòng keo kiệt của mình cũng hết.

“Mười là bạn bè nhân từ che trùm các vật, vì hay xô dẹp những chấp ngã nhân.” Những người bạn hiền lành nhân từ, đối với mọi người trong chúng, họ đều thương mến giúp đỡ, không phân biệt kia đây. Gần được họ lâu ngày thì phá được cái chấp ngã chấp nhân của mình.

Ngài Quảng Trí nhắc bảo chúng ta ở trong chúng tu hành phải lựa những người bạn lành trong mười hạng như vừa kể. Gần được những người này chúng ta dễ thành tựu đạo quả.

Nếu không có bạn trong sạch như thế, tức phải lui về ở một mình, tự lo cho xong đạo nghiệp. Nếu không chọn được bạn lành thì tốt hơn ở một mình cho yên. Như vậy thì hay, nhưng không khéo thành dở. Nếu không có người hơn mình, chỉ bằng mình hay dưới mình thì ở gần lâu ngày mình tuột xuống dốc. Cho nên người có ý chí thà ở một mình để giữ nguyên vị trí của mình, còn nếu người không có ý chí mà đi ở riêng một mình thì một thời gian sau ma dẫn đi lúc nào không hay. Đây là điều phải rất dè dặt.

Dùng tượng Phật làm thầy, dùng kinh luận làm bạn, ngoài ra những kẻ đùa chơi khác, thà dứt tuyệt chớ kết giao. Nếu trường hợp ở một mình thì phải dùng tượng Phật làm thầy, dùng kinh luận làm bạn, ngoài ra những kẻ đùa chơi khác, thà dứt tuyệt chớ kết giao.

Như vào trong vườn, dù không có hoa đẹp, cũng chẳng trồng thứ cỏ hôi, không ích gì cho tâm thưởng ngoạn, chỉ luống thêm sự chán ghét thôi. Như ở trong vườn nếu không trồng được hoa đẹp thì thôi, còn cỏ hôi thì trồng làm chi cho vô ích.

Nên Hòa thượng Vĩnh Minh nói: “Thân ở trong biển khổ, cậy có Thiết La-hán. Đã ra khỏi biển khổ, thì bỏ bè lên bờ kia.” Nên nói: “Nếu người bên trong mang Thánh thai thì nói ra lời quả cảm, khác thường, lời nói không do dự.”

Ngài dẫn lời của Hòa thượng Vĩnh Minh: Thân mình đang lang thang trong biển khổ, cậy có Thiết La-hán tức là La-hán sắt. Nghĩa là nếu chúng ta đang ở trong biển khổ thì cần phải có ý chí quả cảm cũng như tượng La-hán sắt mọt mối không đục nổi. Thế nên, nếu chúng ta không có bạn bè, mà đang trong hoàn cảnh tu hành khó khăn, chúng ta phải lập chí vững chắc như Thiết La-hán thì không cái gì phá mình được.

“Đã ra khỏi biển khổ thì bỏ bè lên bờ kia.” Khi chúng ta ra khỏi biển khổ thì mới bỏ bè, vì đã đến được bờ kia.

“Nên nói: Nếu người bên trong mang Thánh thai, thì nói ra lời quả cảm, khác thường, lời nói không do dự.” Nếu chúng ta có được thai Thánh ở trong rồi thì nói lời khẳng định, chớ không có do dự. Người nào còn nói do dự, dè dặt, đó là họ chưa có cái thật ở trong. Ngài bàn thêm:

Hoặc giả có người xem qua luận này, cho lời tôi nói là xác đáng, thì chóng nên ăn năn sửa đổi, sanh lòng rất hổ thẹn, phát đại dõng mãnh, tự nhận gánh vác lấy. Đời nay chẳng rõ xong, còn đợi đến bao giờ? Nên nói: “Từ phàm vào Thánh chưa có ai chẳng tu mà được.” Nếu muốn sáng được việc trên bổn phận, đời nay chẳng nhận lấy xong xuôi, thì hãy xem văn dưới đây, giải thẳng mười bài tụng rành rẽ cả đầu đuôi.

Từ trước đến đây là phần “Luận Thẳng Về Mới Điều Phục” của Thiền sư Quảng Trí, chớ chưa giải thẳng Mười bài tụng tranh chăn trâu.

Qua bài luận này, chúng ta thấy rõ ngài Quảng Trí chí tình nói với người tu phải ráng tu cho chân chánh, đừng tu lừng chừng, đừng tu ở miệng mà không có trong lòng. Tu như vậy thì không đến đâu chẳng lợi cho mình, còn hại cho người khác, cho nên phải ráng tu cho đúng. Đồng thời phải ráng tìm bạn lành bạn tốt để nương cậy. Nếu không có bạn lành bạn tốt hơn mình thì phải lập chí cho vững, tu hành cho đến nơi đến chốn, như vậy mới thành tựu được kết quả tốt đẹp.  

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM