LƯỢC SỬ TÁC GIẢ (tt)
B. GIẢNG
Về
phần lịch sử của ngài Khuê Phong, có những điểm đáng lưu ý:
Ðiểm thứ nhất:
"Khi tịch, ngài ngồi kiết già yên lặng, mà dáng mạo lại nghiêm trang, vui
vẻ hơn ngày thường". Người đời khi gần tắt thở thì tay co, chân giật,
miệng méo, thở hổn hển... còn ngài thì ngồi kiết già yên lặng, vui tươi,
điều này cho chúng ta thấy: Ngài tu ngộ đạo làm chủ được thân tâm, nên khi
chết tự tại nhẹ nhàng, không bị khổ đau bức bách như người đời.
Ðiểm thứ hai
đáng lưu ý hơn nữa là: Chủ trương của ngài Khuê Phong là Thiền Giáo song
tu. Thiền là Thiền tông, Giáo là Kinh điển. Tuy dạy tu thiền mà ngài vẫn
giảng kinh luận. Vì Thiền và Giáo không hai, nên ngài dùng Thiền và Giáo
để giáo hóa môn đồ. Và Thiền viện Chơn Không, chúng tôi cũng chủ trương
tương tợ là Thiền Giáo song hành. Bởi muốn sống được với Thiền là phải
nương nhờ kinh điển, hiểu được thâm ý của Phật Tổ dạy, rồi mới áp dụng tu
hành.
Ngài Khuê Phong sống trong thời phế giáo
của Ðường Võ Tôn ở Trung Hoa. Bây giờ Tăng Ni bị hoàn tục, kinh sách bị
đốt, chùa bị lấy làm trụ sở chính quyền. Bộ Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập
của ngài bị đốt mất, chỉ còn sót lại có bài tựa là tập Thiền Nguyên Chư
Thuyên Ðô Tập Tự tức là quyển Nguồn Thiền này. Tuy là bài tựa, nhưng nói
lên được ý nghĩa tổng quát toàn bộ sách một trăm quyển. Khi dịch, chúng
tôi thấy tên Thiền Nguyên Chư Thiên Ðô Tập Tự quá dài, e người đọc khó
nhớ, nên chúng tôi lấy hai chữ đầu Thiền Nguyên dịch là Nguồn Thiền.
Ngài ở đời thứ năm sau Lục Tổ Huệ Năng,
thuộc dòng:
1. Thần Hội.
2. Pháp Như.
3. Duy Trung.
4. Ðạo Thuyên.
5. Khuê Phong Tông Mật.
Mười một câu hỏi được ngài trả lời rất
quan trọng, nếu không giải thích, e người mới học thiền, đọc rồi cũng như
chưa đọc. Vì quyển Nguồn Thiền này ra đời từ năm 1969, tới nay là năm
1971, nó vẫn nằm im trong tủ. Có người thỉnh về để đó, có người đọc ít
đoạn không hiểu, cũng để đó. Chính quyển sách này, giúp chúng tôi rất
nhiều trong thời gian nhập thất tu tập, được tôi coi là bảo vật. Nên khi
ra thất, tôi dịch ngay, vì tôi nghĩ rằng người nào được quyển sách này là
được phước lớn. Nhưng không ngờ, từ ngày cuốn sách ra đời đến nay, chẳng
mấy người biết được giá trị của nó. Vì vậy, hôm nay chúng tôi phải giảng
cho quý vị hiểu, để biết đường lối tu hành.
1. HỎI:
Thế nào là đạo? Lấy cái gì để tu? Phải do tu mới thành hay chẳng cần dụng
công?
- ÐÁP:
Không ngại là đạo, biết vọng là tu, đạo tuy vốn tròn, vọng khởi phiền lụy,
vọng niệm hết sạch tức là tu thành công.
Tôi tạm chia câu hỏi và câu trả lời làm ba
phần để giải thích cho dễ hiểu:
a. Hỏi:
Thế nào là đạo?
- Ðáp:
Không ngại là đạo.
Ví dụ: Cái bàn có hình tướng, có kích
thước, phải cần có một khoảng trống không gian bằng, hoặc lớn hơn nó mới
chứa được nó. Cho nên nói: cáigì có hình tướng đều chướng ngại. Còn đạo
thì không hình, không tướng, không có vị trí chỗ nơi, nên không bị ngăn
ngại. Không hình, không tướng đây không có nghĩa là hư không, quý vị hiểu
cho kỹ chỗ này, không khéo sẽ lầm lẫn rơi vào ngoan không.
Xưa, có một vị khách đến hỏi một thiền sư:
- Thế nào là đạo?
Ngài đáp:
- Vô tâm tức thị đạo
Có nhiều người học Phật nói: Tôi đi cầu
Ðạo". Vậy đạo ở đâu mà cầu? Ðạo là chỉ cho "Cái hằng giác" sáng suốt sẵn
có nơi mỗi người, còn được gọi là Phật tánh, pháp thân, chân như... Nghe
nói đạo, người ta tưởng cái gì ở bên ngoài nên đi tìm cầu. Nhưng thật ra
khi nào chúng ta hết vọng niệm là đạo hiện tiền, nếu còn vọng niệm là còn
chướng ngại. Vô tâm là tâm không vọng tưởng, vì khi ý thức vừa khởi thì
liền có pháp trần duyên theo, hễ có pháp trần là có hình tướng, cho nên
chướng ngại. Như vừa dấy niệm nghĩ về người là có bóng dáng người, vừa dấy
niệm về cảnh là có hình ảnh cảnh v.v... Vô tâm là tâm trong suốt như mặt
gương, có người thì hiện ảnh người, có cảnh thì hiện ảnh cảnh; không người
không cảnh thì mặt gương trong suốt. Vậy, tâm không còn dấy niệm nghĩ
tưởng là hết chướng ngại, là vô tâm, là đạo.
b. Hỏi:
Lấy cái gì để tu?
- Ðáp:
Biết vọng là tu.
Từ lâu, chúng ta quen chấp nhận vọng tưởng
là tâm mình, nên vọng tưởng khởi liền theo, theo vọng tưởng tức là theo
sáu trần, theo sáu trần là theo chướng ngại sanh diệt. Chạy theo chướng
ngại sanh diệt, kinh Lăng Nghiêm nói là nhận giặc làm con. Bây giờ, chúng
ta biết vọng tưởng là hư dối, không theo thì vọng tưởng lặng; vọng tưởng
lặng thì tâm lặng lẽ trong suốt, là vô tâm, là trở về với đạo, là tu. Vì
chúng ta chấp nhận vọng tưởng là tâm mình, nên bị hình ảnh, sắc tướng
v.v... làm chướng ngại, mà chướng ngại thì không thấy đạo. Bây giờ, vọng
tưởng dấy khởi, chúng ta biết nó là vọng tưởng, không chấp nhận, không
theo thì nó lặng, mà vọng tưởng lặng là trở về với vô ngại, tức là tu.
Thông thường chúng ta hiểu tu là sửa. Như vậy, sửa đồng hồ, sửa xe máy
cũng là tu sao? Hoặc như các cô sửa mắt, sửa mũi cũng là tu nữa à? Hiểu
như vậy, không thấy được chủ yếu của sự tu hành mà Phật Tổ đã dạy. Chúng
ta xét xem những phương pháp tu trong kinh luận có ngoài chủ yếu Biết vọng
là tu của ngài không? Ví dụ tu Tịnh Ðộ niệm Nam Mô A Di Ðà Phật để chi
vậy? Niệm Phật tuy không cần biết vọng, nhưng buộc tâm vào câu niệm Phật
để những vọng niệm khác không dấy khởi, không dẫn đi xa. Có người dùng
phương pháp tụng kinh để tu, vậy tụng kinh gõ mõ để làm chi? Ðể vọng tưởng
dấy khởi không theo, chỉ nhớ lời kinh để cho tâm được thanh tịnh. Tu theo
Mật tông thì dùng câu thần chú để đàn áp vọng niệm. Như vậy, tụng kinh,
niệm Phật, trì chú để đàn áp vọng tưởng. Vì người mới tu, vọng niệm dấy
khởi mạnh như dòng bạo lưu khó điều phục. Còn tu thiền thì ngay nơi vọng
tưởng biết vọng tưởng, không theo tức là dùng trí tuệ nhìn thẳng vọng
tưởng, không dùng phương tiện để đàn áp hay kềm chế, nên gọi là trực chỉ.
Tôi xin đơn cử một ví dụ cho dễ hiểu: Có một tên ăm trộm vào nhà mà chủ
nhà không biết, nhưng người hàng xóm trông thấy. Vì biết tánh ông chủ nhà
nhát, sợ ông ấy hốt hoảng, người hàng xóm không dám nói có ăn trộm vô nhà
ông, nên kêu ông chủ nhà thắp đèn lên, người hàng xóm bước vô nhà, tên ăn
trộm sơ chạy mất. Lại có trường hợp tương tự, ông chủ nhà dạn dĩ nên người
hàng xóm kêu ông chủ nhà nói thẳng; "Này anh, thức dạy mau, có ăn trộm vô
nhà anh đó!". Ông chủ nhà thức dậy, thấy ăn trộm liền đuổi nó chạy mất.
Ðó là hai trường hợp: một là dùng phương
tiện, hai là chỉ thẳng, cũng đều đưa được chú ăn trộm ra khỏi nhà. Cũng
thế, niệm Phật, tụng kinh, trì chú là dùng phương tiện để đàn áp vọng
tưởng. Còn tu thiền chỉ thẳng cái làm cho con người luân hồi sanh tử, đau
khổ triền miên, đó là vọng tưởng. Và khi ứng dụng tu, thì vọng tưởng khởi,
không theo, quá đơn giản! Nên người nặng về hình thức, thì xem thường, đâu
biết rằng những phương pháp tu mà Phật Tổ dạy nhằm đập tan "Con khỉ ý
thức", để trở về với tâm thể thanh tịnh nhất như. Lại cũng có trường hợp:
tuy chúng ta tu, nhưng vì bản ngã mà tu, nghe nói tụng kinh có phước thì
ham, trì chú linh hiển tiêu tai chướng, được lợi lộc thì thích. Còn tu
thiền thì chỉ thẳng không dấu diếm, không dùng phương tiện, quá đơn giản,
như lời đáp của ngài Khuê Phong: "Biết vọng là tu" thì thấy thường.
c. Hỏi:
Phải do tu mới thành hay chẳng cần dụng công?
- Ðáp:
Ðạo tuy vốn tròn, vọng khởi phiền lụy, vọng niệm hết sạch tức là tu thành
công.
Ðạo
vốn tròn đầy, nhưng vì vọng tưởng làm phiền lụy, lôi chúng ta đi trong
luân hổi sanh tử. Nếu vọng tưởng dấy lên không theo thì vọng tưởng hết,
khi hoàn toàn sạch vọng tưởng thì Ðạo hiện tiền, nói cách khác là tu thành
công. Cũng như đêm rằm có trăng, bầu trời không mây thì trăng sáng rỡ. Nếu
biết Ðạo có sẵn mà không chịu dừng vọng tưởng, thì có thấy Ðạo được không?
- Không. - Thành thử phải có tu; tu mà không tu, vì Ðạo vốn sẵn có. Cũng
như mặt trăng nguyên là sáng, không cần thêm sáng cho nó mà chỉ cần hết
mây. Cũng vậy, Ðạo là tâm thanh tịnh trùm khắp, vì vọng tưởng che lấp làm
mờ đi, bây giờ chỉ cần buông vọng tưởng, vọng tưởng sạch hết thì tâm thanh
tịnh hiện, tạm gọi là thành công, chớ thực ra có gì thành đâu? Như vậy,
khi tu chúng ta có cần cầu Phật tới chứng minh hay điểm đạo gì không? Nếu
người ngồi thiền mà còn mong Phật tới xoa đầu thọ ký là còn vọng tưởng, mà
còn vọng tưởng là còn mê không thấy Ðạo. Chúng ta tu trong bốn oai nghi:
đi, đứng, ngồi, nằm. Không còn một vọng niệm và hằng sống được như vậy, dù
không muốn thành công, cũng tự thành. Trong kinh A Di Ðà, Phật nói:
- Hoặc một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm
bất loạn, thì Phật hiện tiền. Cũng như đi, đứng, ngồi, nằm tâm hằng thanh
tịnh, không một chút niệm khởi thì Phật tánh hiện tiền.
Phật tánh tức là tự tánh A Di Ðà. A Di Ðà
là vô lượng thọ, vô lượng quang, nghĩa là tuổi thọ vô lượng, ánh sáng vô
lượng. Tuổi thọ vô lượng là chỉ cho bất sanh bất diệt, ánh sáng vô lượng
là chỉ cho tánh giác hằng sáng. Vì vậy, Phật A Di Ðà là chỉ cho tự tánh
thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng ta.
Ở Nhật Bổn, có hai vị tu sĩ. Một vị tu
Thiền và một vị tu Tịnh độ. Một hôm, sư tu Thiền hỏi sư tu Tịnh độ:
- Thầy tu theo pháp nào?
- Dạ, tôi tu theo Tịnh độ.
Sư tu Thiền liền hỏi tiếp:
- Phật A Di Ðà bao nhiêu tuổi?
- Phật A Di Ðà bằng tuổi tôi.
- Thầy năm nay bao nhiêu tuổi?
- Tuổi của tôi bằng tuổi Phật A Di Ðà.
Mới nghe, coi như vị sư ấy ngạo mạn, hỗn
láo; vì chúng ta nặng về hình thức, thấy đức Phật A Di Ðà là bậc tôn kính
ở ngoài tâm. Phật A Di Ðà ở đây chỉ cho tánh giác sáng suốt bất sanh bất
diệt hiện hữu nơi mỗi người, nên hỏi: "Phật A Di Ðà bao nhiêu tuổi?" Trả
lời: "Bằng tuổi tôi" tức là bằng tuổi tánh giác của tôi. Hỏi: "Ông bao
nhiêu tuổi" Trả lời: "Tuổi tôi bằng tuổi Phật A Di Ðà". Tánh giác là cái
bất sanh bất diệt (Vô lượng thọ), sáng suốt trùm khắp (Vô lượng quang) mà
lâu nay chúng ta lầm lẫn cho nó ở ngoài mình, nên mãi dong ruổi tìm cầu.
Tu Thiền hay tu Tịnh độ, tới chỗ cứu cánh không khác, chỉ vì chúng sanh
mắc kẹt trên hình thức nên thấy có sự sai biệt. Nếu chúng ta hiểu như vị
sư tu Tịnh độ thì không bao giờ có sự chống báng lẫn nhau. Chúng ta phải
biết rõ, tuy có muôn ngàn kinh Phật dạy, muôn ngàn pháp môn tu, nhưng
không ngoài bốn chữ Biết vọng là tu.
2. HỎI:
Ðạo nếu nhơn tu mà thành tức là tạo tác, tạo tác thì đồng pháp hư ngụy
không thật ở thế gian, thành rồi lại hoại, sao gọi là xuất thế?
ÐÁP:
Tạo tác thì kết nghiệp gọi pháp thế gian hư ngụy, không tác (làm) là tu
hành tức pháp xuất thế chơn thật.
Ý câu hỏi: Ðạo là cái bất sanh bất diệt
nếu nói nhơn tu mới thành, thì có tạo tác, có tạo tác thì có sanh diệt.
Như vậy, cũng đồng với cái hư giả, có thành có hoại, đâu thể gọi là xuất
thế gian bất sanh bất diệt được!
Ngài trả lời: Tạo tác là kết nghiệp, không
tạo tác mới là tu hành, là pháp xuất thế chân thật. Tại sao tạo tác là kết
nghiệp? - Ví dụ như xây chùa, đúc tượng Phật, làm việc phước thiện là để
hưởng phước hữu lậu ở cõi người, cõi trời, còn sanh tử trong tam giới, vì
còn nghiệp thiện, chưa giải thoát. Ngài nói: "Không tạo tác là tu hành",
tức là vọng tưởng dấy lên, biết nó là vọng tưởng không theo là đủ rồi.
Không gầy dựng, không tạo lập, nên nói không tạo tác. Như vậy, đâu có gì
gọi là tu hành, nên nói : Tu vô tu tu" (Tu mà không tu ấy mới là tu). Tu
như vậy gọi là tu vô vi. Nhớ đừng lầm với lối tu vô vi uống nước lạnh mà
bây giờ mọi người đang theo. Vô vi đây có nghĩa là vọng tưởng dấy khởi,
biết nó là vọng tưởng không theo, không theo vọng tưởng là trở về với cái
bất sanh bất diệt sẵn có nơi mình. Ðó là vô vi, mới là Ðạo xuất thế chân
thật.
3. HỎI:
Kia tu là đốn hay tiệm? Tiệm thì quên trước mất sau, lấy cái gì tập hợp mà
thành? Ðốn thì muôn hạnh nhiều môn, đâu thể một thời đầy đủ?
ÐÁP:
Chợt ngộ chơn lý là viên đốn, dứt vọng cần phải tiệm tu (tu dần dần) mới
hết. Viên đốn ví như trẻ con sơ sanh trong một ngày các cơ thể đầy đủ.
Tiệm tu ví như nuôi dưỡng đến thành nhân, phải nhiều năm mới lập chí khí.
"Kia"
là chỉ cho người tu Thiền. Pháp môn đốn là pháp tu tắt không thứ lớp, pháp
môn tiệm là pháp tu từ từ có thứ bậc. Ví như đi từ Vũng Tàu đến Saigon,
nếu đi đường hàng không thì máy bay cất cánh bay thẳng một mạch tới Saigon
đáp xuống, không chạy qua một thành phố nào hết, đó là dụ cho pháp tu đốn.
Nếu đi đường bộ, xe phải chạy tuần tự qua cầu Cỏ May, Bà Rịa, Long Thành,
Biên Hòa, Thủ Ðức, rồi mới tới Saigon, đó là dụ cho pháp tu tiệm.
"Tiệm thì quên trước mất sau, lấy cái gì
tập hợp mà thành?". Ý câu này muốn
hỏi: ví như leo thang, bước lên bậc hai thì phải bỏ bậc một, bước lên bậc
ba thì phải bỏ bậc hai, đó là quên trước mất sau. Tới bậc này phải bỏ bậc
kia, bậc qua rồi thì mất, bậc chưa tới thì chẳng biết. Như vậy làm sao nói
chúng hợp mà thành được?
"Ðốn thì muôn hạnh nhiều môn, đâu thể một
thời đầy đủ?". Kinh dạy phải tu lục
độ vạn hạnh mới đầy công phu thành Phật, nếu chỉ tu pháp môn đốn, thì chỉ
trong thời gian chốc lát làm sao thực hành đầy đủ những công hạnh ấy được/
Khi đọc một câu kinh, hay nghe một câu đạo
lý, chợt nhận ra nơi mình có "cái không sanh diệt" đó là ngộ chân lý. Tuy
trong một thoáng qua là ngộ được chân lý, nhưng vọng tình lâu đời, đâu
phải một lúc đã sạch hết, nên cần phải tiệm tu, nghĩa là hằng giờ hằng
phút phải buông bỏ vọng tưởng từ từ, một thời gian lâu sau mới hết sạch.
Khi vọng tưởng sạch rồi thì "cái không sanh không diệt" mà chúng ta nhận
ra khi trước mới tròn sáng. Vì vậy trong nhà thiền chia ra giải ngộ và
chứng ngộ. Như Lục Tổ khi nghe người khách tụng kinh Kim Cang, đến câu
"Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" thì ngài giải ngộ. Và đến khi nghe Ngũ Tổ
giảng cũng đến câu đó, thì ngài liền chứng ngộ, bèn thốt lên; "Nào ngờ tự
tánh vốn thanh tịnh. Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt..."Tôi lấy thêm
một thí dụ cho dễ hiểu:
- Ðêm rằm trời có nhiều mây che khuất mặt
trăng. Có người muốn chỉ mặt trăng cho đứa bé, phải chờ cho mây bay qua để
lộ mặt trăng ra mới chỉ cho đứa bé thấy được. Nhưng đứa bé vừa thấy mặt
trăng, thì mây bay tới che khuất mặt trăng trở lại như cũ. Bấy giờ đứa bé
đã biết trên bầu trời có mặt trăng tròn sáng đấy, nhưng phải chờ mây tan
hết thì mặt trăng mới lộ nguyên hình tròn sáng. Sự tu hành của chúng ta
cũng vậy, khi đọc một câu kinh hay nghe một câu đạo lý, chợt nhận ra nơi
mình có cái "không sanh không diệt". Nhưng nhận ra rồi không phải sống
được với nó liền, mà phải buông bỏ từ từ các vọng tình chấp trước cho sạch
hết, thì "tánh bất sanh bất diệt" mới hiển hiện tròn sáng. Cũng như đứa bé
sanh ra chỉ khoảng nửa tiếng đồng hồ, nhưng muốn nó thành người lớn có đầy
đủ sự hiểu biết thì ít ra cũng phải vài chục năm.
4. HỎI:
Phàm tu phát tâm địa khi ngộ tâm là xong, hay riêng có hạnh môn? Nếu riêng
có hạnh môn thì sao gọi là đốn chỉ
Nam tông (đốn tu)? Nếu ngộ liền đồng chư Phật, sao không phóng quang hiện
thần thông?
Câu này tạm chia ra ba phần để giải thích:
a. Phàm, tu phát tâm địa khi ngộ tâm là
xong, hay riêng có hạnh môn khác?
Tâm địa
là chỉ cho pháp môn Thiền tông. Khi ở hội Linh Sơn, Phật truyền cho ngài
Ca Diếp là truyền pháp môn tâm địa này. Ðịa là đất, tất cả người, vật, nhà
cửa, núi sông... đều nương nơi đất mà có. Cũng thế tất cả các pháp từ
người đến vạn vật, gốc từ tâm mà ra. Pháp môn tâm địa là pháp môn tu ngộ
thẳng bản tâm mình.
b. Nếu riêng có hạnh môn thì sao gọi là
đốn chỉ Nam tông (đốn tu)?
Ðốn chỉ Nam tông
là chỉ cho thiền đốn giáo của Lục Tổ Huệ Năng, đối lại với Bắc tông của
ngài Thần Tú, chủ trương tiệm tu. Khác với Nam tông Phật giáo là chỉ cho
hệ Phật giáo Ấn Ðộ được truyền về phương
Nam,
còn hệ truyền về phương Bắc thì gọi là Bắc tông.
c. Nếu ngộ liền đồng chư Phật, sao không
phóng quang hiện thần thông?
Ý câu này muốn hỏi: nếu đốn ngộ thì liền
đồng với chư Phật, sao không thấy các ngài phóng quang và hiện thần thông?
ÐÁP:
Biết băng trên mặt hồ nguyên là nước, nhờ ánh nắng mặt trời dần dần tan,
ngộ phàm phu tức chơn, nhờ sức pháp để tu tập. Băng tiêu thì nước trôi
chảy, công phương trình tẩy rửa vọng hết thì tâm linh thông, mới có ứng
hiện phát quang. Ngoài việc tu tâm không có hạnh môn riêng.
Tuy biết băng trên mặt hồ, nguyên thể của
nó là nước. Nhưng vì đã đóng thành khối (băng) thì không dùng xài được, mà
phải nhờ ánh sáng mặt trời chiếu soi thì băng mới tan dần dần. Khi băng đã
tan thành nước thì mới đem ra dùng vào việc nấu ăn, uống, giặt rửa, tắm
gội... Cũng vậy, nhận ra nơi mình có tánh bất sanh bất diệt, nhưng không
phải nhận ra là viên mãn quả Phật, mà phải nhờ tu từ từ mới dứt hết vọng
tưởng. Khi vọng tưởng hoàn toàn sạch rồi, mới thể nhập được tâm thể bất
sanh bất diệt và khởi ra vô lượng diệu dụng. Tóm lại ngoài việc tu tâm
không có hạnh môn riêng khác, và đốn chỉ Nam tông chỉ có một môn là biết
vọng tưởng. Khi vọng tưởng hết sạch thì đồng với chư Phật.
5. HỎI:
Nếu chỉ tu tâm mà được thành Phật, cớ sao các Kinh lại nói: "Cần phải
trang nghiêm Phật độ, giáo hóa chúng sanh mới gọi thành đạo".
Nếu chỉ tu tâm là được thành Phật, thì tại
sao trong kinh dạy phải trang nghiêm Phật độ, giáo hóa chúng sanh mới được
thành Phật? Vậy, nếu chúng ta cứ ngồi tu hoài không độ ai hết thì làm sao
thành Phật? Câu này đối với người tu niềm tin chưa vững sẽ lúng túng,
không biết nên lo tu hay nên đi giáo hóa chúng sanh?
ÐÁP:
Gương sáng thì hiện muôn ngàn hình bóng sai khác, tâm tịnh thì ứng hiện
muôn ngàn thần thông. Hình bóng ví trang nghiêm Phật độ, thần thông ví
giáo hóa chúng sanh, trang nghiêm tức phi trang nghiêm, hình bóng là sắc
mà phi sắc.
Ví dụ một tấm gương sáng, tất cả mọi hình
bóng sai khác đều hiện rõ trong gương không ảnh nào làm ngăn ngại nhau.
Cũng thế, khi tâm thanh tịnh thì cũng một tâm này ứng hiện muôn ngàn thần
thông không chướng ngại. Hình bóng hiện rõ ràng trong gương là dụ cho
trang nghiêm Phật độ, không bóng nào làm ngại bóng nào là thần thông diệu
dụng, dụ cho giáo hóa chúng sanh. Trang nghiêm tức phi trang nghiêm là do
tu, mọi vọng niệm lắng xuống thì tâm thể thanh tịnh sáng suốt. Tâm thể vốn
tự sáng suốt chỉ vì vọng tưởng che nên nó mờ khuất. Vọng tưởng sạch, tâm
thể thanh tịnh sáng suốt hiện bày, tạm gọi là trang nghiêm. Theo thế
thường, trang nghiêm là tạo tác, sửa sang, cái gì hư xấu thì sửa chữa
trang hoàng lại cho đẹp đẽ khang trang, gọi đó động tác sửa sang có hình
tướng, là trang nghiêm. Còn tâm thể thì không có hình tướng, vốn nó đã tự
sáng khi hết vọng tưởng là nó hiện rõ ràng, không có sửa chữa trang hoàng
chi cả, nên gọi là trang nghiêm tức phi trang nghiêm. "Hình bóng là sắc mà
phi sắc", bóng ở trong gương là bóng người, bóng vật... tức là sắc. Tuy là
sắc, nhưng là bóng không thật nên nói là phi sắc.
Người tu thiền buông hết vọng tưởng, tâm
được thanh tịnh sáng suốt là trang nghiêm Phật độ. Người tu Tịnh độ niệm
Phật nhất tâm bất loạn mới là trang nghiêm cõi Cực lạc.
Vấn đề giáo hóa chúng sanh, có nhiều vị
hiểu lầm cho rằng những vị ẩn tu là tiêu cực, yếm thế, không làm lợi ích
cho chúng sanh, người nào làm Phật sự này, từ thiện nọ là tích cực hành
Lục độ giáo hóa chúng sanh. Chúng ta nên hiểu giáo hóa như thế nào mới
đúng với chân tinh thần của đạo Phật? Trong kinh Phật dạy:
- Cái khổ ở trong địa ngục bị thiêu đốt
cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỷ bị đói khát cũng chưa phải là
khổ, cái khổ làm súc sinh kéo cày, bị đánh cũng chưa phải là khổ. Cái khổ
Vô minh không biết đường đi mới là khổ.
Vô minh là mờ mịt, tạo tội lỗi, trầm luân
vĩnh viễn trong sáu đường không biết lối ra, đó mới là cái khổ lớn của
chúng sanh. Cho nên, đạo Phật chủ trương cứu khổ là dạy cho chúng sanh phá
được cái ách vô minh mà họ đã đeo từ ngàn muôn kiếp tới nay. Khiến cho họ
được tỉnh giác biết đường tu, để thoát vòng sanh tử luân hồi. Ðó mới thực
là cứu khổ. Còn dạy cho họ biết ăn ở hiền lành hoặc giúp đỡ cho họ bớt đói
lạnh, chỉ là yếu tố cứu khổ nho nhỏ. Cũng như ông thầy thuốc, muốn trị hết
bệnh thì phải trị tận gốc, nếu trị nơi ngọn, chỉ làm giảm cơn đau trong
cấp thời, chớ không hết bệnh.
Ví như người cờ bạc, rượu chè, nhà nghèo,
vợ con đói rách, chúng ta động lòng từ đem cho họ năm ba lít gạo, họ đỡ
đói được vài hôm, nhưng cái bệnh cờ bạc, rượu chè không bỏ thì họ vẫn còn
đói khổ. Chỉ có cách là chúng ta cho họ một lần, hoặc không cho cũng được,
mà phải giảng cho họ hiểu sự tai hại của cờ bạc, rượu chè là gốc làm cho
họ và gia đình họ đói khổ. Chỉ ngay cái gốc, nếu họ tỉnh giác bỏ được bịnh
ấy thì họ mới hết khổ. Ðó là việc làm cứu khổ lâu dài, cho một vài lít gạo
chỉ là việc cứu khổ cấp thời, sau đó họ sẽ khổ nữa. Mục đích của chúng ta
là tu là chứng đạo giải thoát, một câu nói, một lời giảng của chúng ta có
thể đưa bao nhiêu người thoát ra khỏi biển sanh tử luân hồi. Ðức Phật sau
khi thành đạo, với trí huệ sáng suốt, dùng nhiều phương tiện tùy cơ giáo
hóa vô số chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử.
Tuy nhiên, việc giáo hóa cao thấp cũng còn
tùy ở trình độ tu học của hành giả, có người vừa tu vừa giáo hóa, có người
tu viên mãn rồi mới ra giáo hóa. Việc làm nào cũng tốt. Giống như người
học trò đi học, học tới Trung học, thấy dân dốt quá, ra làm thầy, dạy cho
dân học đỡ dốt. Lại, cũng có người tuy thấy dân dốt, nhưng cứ chăm chỉ học
đến Ðại học mới ra giảng dạy. Như vậy, chúng ta chớ vội cho rằng người thứ
hai là ích kỷ, phải hiểu chỗ này cho rõ, để khỏi lầm lẫn.
6. HỎI:
Các Kinh đều nói độ thoát chúng sanh, chúng sanh tức phi chúng sanh, tại
sao lại nhọc nhằn độ thoát?
Ðây là y cứ theo kinh Kim Cang: tất cả
chúng sanh hiện có đây, là do ngũ uẩn tứ đại hòa hợp mà thành, nên huyễn
hóa không thật (chúng sanh tức phi chúng sanh), đã là huyễn hóa, thì chúng
sanh chẳng phải là chúng sanh, tại sao phải nhọc nhằn độ thoát?
ÐÁP:
Chúng sanh nếu thật độ được tức là nhọc nhằn, đã nói "tức phi chúng sanh",
sao không so sánh độ mà không độ?
Nếu còn thấy chúng sanh là thật thì mới
độ, vì thật độ nên mới nhọc nhằn. Nếu thấy chúng sanh không thật, sao
không thấy độ mà không thật độ? Câu hỏi này có cái lỗi là chúng sanh không
thật, mà thấy người độ thật, nên mới thấy độ sanh là nhọc nhằn. Có lắm
người học đạo lầm lẫn, thấy tất cả không thật mà thấy mình thật nên khởi
niệm thụ hưởng, không lo tu, không chịu làm lợi ích cho người. Nếu thấy
mình giả, người giả, họ khổ mình cứu giúp, đem thân giả làm việc giả có gì
là nhọc nhằn? Nên ngài nói: "Ðộ mà không độ". Kinh Kim Cang nói: "Ðộ tất
cả chúng sanh mà không thấy mình là người hay độ, chúng sanh là kẻ được
độ". Thấy người giả mà thấy mình thật, là chưa hiểu kinh Kim Cang. Vì mắc
kẹt chỗ này nên mới có quan niệm như vậy. Nếu thấy người giả, mình cũng
giả thì cứ lăn vô mà làm, cái giả làm cho cái giả cũng giống như trò chơi,
có gì là mệt mỏi nhọc nhằn?
7.- HỎI:
Các Kinh nói "Phật thường trụ" hoặc nói "Phật diệt độ". Thường tức không
diệt, diệt tức không phải thường, như vậy là mâu thuẫn nhau.
Theo kinh A Hàm nói: Phật nhập Niết bàn
lúc tám mươi tuổi, các kinh Ðại thừa thì nói tuổi Phật vô lượng vô biên.
Như vậy, có kinh nói Phật diệt độ, có kinh nói Phật thường trụ, nói vậy có
mâu thuẫn nhau không? Nếu thường trụ thì không diệt, diệt thì không
thường, tại sao kinh nói mâu thuẫn nhau vậy?
ÐÁP:
Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật thì đâu có thật ra đời hay nhập diệt?
Thấy ra đời hay nhập là tại cơ duyên. Cơ duyên ứng hợp thì xuất hiện dưới
cội Bồ đề. Cơ duyên hết thì nhập Niết bàn giữa hai cây Sa La. Cũng như
nước trong, không tâm không hình tượng, không hiện hình tượng không phải
có ngã. Bởi vì tướng ngoại chất có đến đi, không phải thân Phật. Ðâu thể
nói Như Lai có xuất nhập.
Nói Phật diệt độ là căn cứ Hóa thân, nói
Phật thường trụ là căn cứ Pháp thân. Hóa thân thì tùy duyên ứng hiện, hết
duyên thì tan rã nên có sanh diệt. Pháp thân thì không hình tướng, nên
không sanh diệt gọi là thường trụ, nên đây nói: "Lìa tất cả tướng gọi là
chư Phật", như vậy đâu có ra đời hay nhập diệt. Pháp thân lìa tất cả tướng
nên không sanh không diệt. Thấy có ra đời hay nhập diệt là tại cơ duyên;
cơ duyên hợp thì thành đạo dưới cội Bồ đề, cơ duyên hết thì nhập Niết bàn
dưới hai cây Sa La, đó là hóa thân Phật. Nếu hiểu rõ chỗ này thì đọc kinh
không còn nghi ngờ. Kinh Tiểu thừa thì luôn luôn nói đến Hóa thân Phật,
tức là đức Phật Thích Ca, có lịch sử ở Ấn Ðộ; kinh Ðại thừa nói đến Pháp
thân Phật. Như kinh Pháp Hoa nói: "Tuổi thọ Phật vô lượng vô biên", đó là
chỉ cho pháp thân bất sanh bất diệt sẵn có nơi mỗi người. Rồi nói: "Chư Bồ
tát từ đất vọt lên râu tóc bạc phơ, trò già hơn thầy". Ðiều này rất khó
tin! Nhưng Bồ tát nào không từ pháp thân hiện? Nên mới nói tất cả Bồ tát
đều là đệ tử của Phật (Pháp thân). Ngài ví dụ: "Cũng như nước trong không
tâm không hình tượng, không hiện hình tượng, không phải có ngã". Khi chúng
ta nhìn xuống hồ nước trong, thấy có bóng chúng ta trong ấy. Nhưng hồ nước
có tâm muốn hiện hình bóng chúng ta không? - Không. - Vì sao? Vì nó không
có ngã chấp. Nước trong vô tâm, hình tượng đến tùy duyên hiện. Cũng vậy,
chúng ta tu khi ngộ đạo, tâm hoàn toàn thanh tịnh (nước trong), lúc đó mới
hoàn toàn sống với pháp thân, từ đó mới tùy cơ duyên mà ứng hiện ra hóa
thân. Ngài nói thêm: "Bởi vì tướng ngoại chất có đến có đi, không phải
thân Phật, đâu thể nói Như Lai có xuất nhập". Tướng ngoại chất thì có đến
có đi không phải thân Phật; thân Phật là pháp thân, mà pháp thân thì không
đi không đến, pháp thân dụ cho hồ nước trong, còn sự đến đi là ngoại vật,
ngoại vật đến thì bóng hiện, ngoại vật đi thì không bóng. Cũng thế, khi
nào có duyên thì từ pháp thân liền ứng hóa thân độ sanh, hết duyên thì trở
về pháp thân, thường gọi là bọt tan về biển. Nên không thể nói Như Lai có
xuất nhập.
8. HỎI:
Thế nào là Phật hóa sanh như chúng sanh kia sanh? Phật đã vô sanh thì là
nghĩa gì? Nếu nói tâm sanh pháp sanh, tâm diệt pháp diệt, thì do đâu được
Vô sanh pháp nhẫn?
Phật hóa sanh, là Phật cũng sanh ra như
những chúng sanh khác, có cha mẹ như Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ; đã nói Phật vô
sanh tại sao lại sanh? Vô sanh pháp nhẫn là không sanh không diệt, mà nói
tâm sanh pháp sanh, tâm diệt pháp diệt thì chừng nào được vô sanh pháp
nhẫn.
ÐÁP:
Ðã nói như hóa, hóa tức là không, không tức là không sanh, sao lại hỏi
nghĩa sanh? Sanh diệt diệt rồi thì tịch diệt là chơn, nhận được pháp vô
sanh này gọi là Vô sanh pháp nhẫn.
Huyễn hóa là không thật, đã không thật nên
tuy có sanh cũng như không sanh, tại sao nói nghĩa sanh? Hỏi như vậy là
chưa thấy "như huyễn như hóa". Kinh Ðại thừa nói: "Ðức Phật Thích Ca rời
cung trời Ðâu Suất vào thai mẹ v.v..." mà lúc nào cũng không rời pháp thân
thanh tịnh. Cho nên nói Phật sanh là chỉ cho hóa thân, hóa thân thì không
thật, không thật thì sanh cũng như không sanh.
Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là chơn,
câu này trích từ kinh Niết bàn, nghĩa là vọng niệm dấy lên là sanh, vọng
niệm lặng xuống là diệt. Vọng niệm cứ sanh diệt, nối tiếp nhau không
ngừng. Khi nào cái sanh diệt đó vắng lặng (tịch diệt), lúc đó là chơn tâm
hiển hiện, tức là chơn, là Niết bàn.
Vậy, Niết bàn là khi tâm chúng ta sạch hết
vọng tưởng, nó không hình tướng mà lặng lẽ thường sáng. Ðừng có hiểu lầm
Niết bàn là một cõi an lạc, một cảnh giới rực rỡ ngoài tâm để đi tìm cầu.
Ðây là bản chỉ đường đi trở về ngôi nhà pháp thân, quá rõ ràng không còn
phải nghi ngờ. Khi nhận được pháp vô sanh này, gọi là: "Vô sanh pháp
nhẫn". Chính cái "Tịch diệt là chơn" là vô sanh pháp nhẫn. Có nhiều cho
rằng ở cõi Ta Bà này tu lai rai, chết về Cực lạc tiếp tục tu nữa, khi
thành Phật được vô sanh pháp nhẫn, rồi trở lại cõi Ta bà độ sanh. Hiểu như
vậy là quá lầm lẫn. Ngài Khuê Phong nói: "Nhận được pháp vô sanh này gọi
là vô sanh pháp nhẫn". Nghĩa là ngay nơi thân tứ đại này mọi vọng niệm dứt
sạch, thì "cái vô sanh" hiện tiền, đó là vô sanh pháp nhẫn, lúc ấy tùy
duyên độ sanh chớ không đi tìm đâu xa.
9. HỎI:
Chư Phật thành đạo thuyết pháp chỉ
vì độ chúng sanh giải thoát, chúng sanh thì có lục đạo, tại sao Phật chỉ
hóa hiện ở trong nhơn đạo? Lại Phật sắp diệt độ, trao pháp cho Tổ Ca Diếp
dùng tâm truyền tâm cho đến phương này (Trung Hoa), bảy vị Tổ mỗi đời chỉ
truyền một người, đã nói rằng đối tất cả chúng sanh coi như con một, tại
sao truyền dạy không khắp?
Phật nói độ hết tất cả chúng sanh, mà
chúng sanh thì gồm cả lục đạo, tại sao Phật chỉ hóa độ ở cõi người (nhơn
đạo)? Như vậy làm sao độ khắp, nếu độ không khắp thì đức Phật thiếu từ bi?
Chư Tổ cũng vậy, từ Tổ Ca Diếp tới các vị Tổ Trung Hoa, một vị truyền cho
một người thì đâu có độ khắp, cũng như đức Phật, chư Tổ cũng thiếu từ bi.
ÐÁP:
Mặt trời, mặt trăng lên cao đều soi sáng khắp sáu phương mà người mù không
thấy, chậu úp không biết, không phải mặt trời, mặt trăng soi chẳng khắp,
tại lỗi che đậy ngăn cách. Ðộ cùng không độ nghĩa giống như vậy, không
phải hạn cuộc nơi người trời bỏ các loài quỷ súc. Chỉ vì nhơn đạo hay kiết
tập truyền trao không dứt, nên biết Phật hiện trong nhơn đạo. Sắp diệt độ
Phật trao pháp cho Tổ Ca Diếp, lần lượt truyền nhau một người, chính vì
nhằm vào vị chủ Thiền tông trong một đời. Như trong nước không có hai vua,
không phải người được độ chỉ có số dường ấy.
Nghi vấn về đức Phật giáo hóa chúng sanh
không khắp hết. Ngài Khuê Phong đáp bằng một ví dụ: như mặt trời mặt trăng
khi lên cao thì không chỗ nào là không soi đến. Nhưng dưới chậu úp không
có ánh sáng, người mù không thấy sáng, lỗi ấy là tại chậu úp ngăn che,
người mù không thấy, chớ không phải mặt trời mặt trăng không chiếu sáng.
Cũng vậy, Phật độ tất cả chúng sanh, nhưng ai có duyên thì tương ứng được
độ, ai không có duyên thì không tương ứng tự ngăn ngại, chớ Phật đâu có tư
vị. Vả lại, chúng ta ở trong cõi người, chỉ thấy biết trong phạm vi loài
người, nên thấy Phật chỉ giáo hóa cõi người. Chúng ta đâu có ở trong loài
ngạ quỷ, súc sanh... mà biết Phật có hiện hay không hiện. Câu hỏi này cho
thấy người hỏi, người nhớ tiền thân đức Phật đã từng làm thân loài này,
loài kia để độ chúng.
Về chư Tổ, ngài nói: "Mỗi vị Tổ truyền
trao cho một vị" là nhằm vào vị đó để làm chủ Thiền tông, ngoài ra còn
nhiều vị khác nữa. Cũng như một nước không có hai vua, chỉ có một vua đứng
ra lãnh đạo cả nước, còn những người khác là quần thần phụ với vị vua ấy
trị dân. Nghĩa là một vị Tổ dạy rất nhiều đồ đệ, nhưng chỉ chọn một người
truyền trao y bát, để giữ gìn giềng mối của tông môn. Như Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
sang Trung quốc, ngài truyền cho Tổ Huệ Khả, nhưng ngoài Tổ Huệ Khả ra còn
có ngài Tăng Dục, Ni Tổng Trì... Cũng như Ngũ Tổ, đâu phải chỉ dạy riêng
cho Lục Tổ mà còn bao nhiêu vị nữa như ngài Thần Tú..., như vậy không phải
chư Tổ truyền trao chỉ có một người, mà các ngài chọn một người nổi bật
nhất truyền y bát để người sau tin tưởng và dễ giáo hóa họ.
* |