LƯỢC SỬ TÁC GIẢ (tt)
B. GIẢNG (tt)
10. HỎI:
Hoà Thượng nhơn đâu phải phát tâm? Mộ pháp gì mà xuất gia? Nay tu hành
pháp gì? Ðược pháp vị gì? Chỗ tu hành đến địa vị nào? Là trụ tâm tu tâm?
Nếu trụ tâm thì ngại tu tâm, nếu tu tâm thì động niệm không an làm sao
được gọi là học đạo? Nếu tâm an nhất định thì đâu khác gì môn đồ của định
tánh (định tánh Thanh văn)? Cúi mong Ðại Ðức vận dụng đại từ bi theo thứ
lớp nói đúng lý như như.
ÐÁP:
Biết tứ đại như mộng huyễn, hiểu lục trần như không hoa, ngộ tâm mình là
tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh là nguyên nhơn phát tâm. Biết tâm
không trụ tức là tu hành; không trụ mà "biết" tức là pháp vị. Trụ trước
nơi pháp đây là động niệm, như người vào tối thì không thấy vật; nay không
có chỗ trụ, không nhiễm không trước, như người có mắt và có ánh sáng mặt
trời thấy rõ các vật. Thế thì đâu thể đồng môn đồ của định tánh, đã không
có chỗ trụ trước thì đâu luận xứ sở?
- Biết tứ đại như mộng huyễn, hiểu lục
trần như không hoa, ngộ tâm mình là tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh
là nguyên nhơn phát tâm. Ngài phát
tâm như thế, trước hết là biết rõ thân tứ đại như mộng huyễn, sáu trần như
hoa đốm giữa hư không. Ngay nơi tâm mình nhận ra cái không sanh không
diệt, đó là tâm Phật. Biết rõ tất cả pháp tự tánh là không, duyên hợp
huyễn có, đólà thấy bản tánh tức pháp tánh. Nguyên nhân phát tâm của ngài
là như vậy. Xét lại nếu người tu ai cũng phát tâm như ngài thì tu rất mau
ngộ đạo. Nhưng những điều ngài thấy biết để phát tâm, điều nào chúng ta
cũng chưa có, nên tu một thời gian rồi cũng kẹt cũng dính, rối thối tâm.
Nếu chúng ta thấy thân như mộng huyễn, thấy ngoại cảnh như không hoa, thấy
tâm mình là tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh thì còn gì nhiễm trước,
còn gì thối tâm tu. Ngài trả lời là dạy chúng ta cách phát tâm. Muốn tu
hành chơn chánh, không lui sụt, và kết quả thành Phật thì phải thấy được
như vậy. Nhưng muốn thấy được như vậy, trước hết phải vận dụng trí Bát nhã
thấy thân như mộng huyễn, sáu trần như không hoa. Từ đó mới ngộ tâm mình
là tâm Phật và bản tánh tức pháp tánh. Từ cửa Bát nhã là cửa Không, bước
vào nhà mới thấy ông chủ (tâm Phật) và hằng sống được với ông chủ, mới
mong được giải thoát sanh tử. Vì vậy, trong Thiền tông có câu: "Dĩ tâm vi
tông", lấy tâm làm chủ. "Dĩ vô môn vi pháp môn", lấy cửa không làm cửa
pháp. Ðó là chủ yếu của Thiền tông. Tất cả người tu đều phải thấy và phát
tâm như ngài mới khỏi bị lầm lạc và sẽ thành Phật đạo.
- Biết tâm không trụ tức là tu hành.
Ở trước, ngài nói biết vọng không theo tức là tu. Ðây, ngài lại nói biết
tâm không trụ tức là tu hành, tâm không trụ tức là tâm hư vọng, chỉ đổi
danh từ. Tâm hư vọng là sanh diệt luôn luôn không dừng, biết rõ nó như vậy
thì nó lặng dứt. Thay vì nói biết vọng là tu thì nói biết tâm không trụ là
tu cũng vậy thôi. Vì tâm không trụ là tâm hư vọng.
- Không trụ mà "biết" tức là pháp vị.
Chữ trụ ở trên và chữ trụ trong câu này nghĩa khác nhau. Chữ trụ ở trên là
chỉ cho tâm sanh diệt không dừng. Còn chữ trụ ở câu này là dính mắc, nói
một cách khác là tâm không dừng là trụ ở một nơi nào. Như Lục Tổ khi nghe
câu "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" trong kinh Kim Cang, ngài liền ngộ
đạo. Vì ngài thấy không còn chỗ trụ tâm, nghĩa là đối với sáu trần tâm
không dính mắc. Tôi đưa một ví dụ cho dễ hiểu: Như mắt tôi nhìn cái đồng
hồ, tức là nhãn căn tiếp xúc với sắc trần. Khi ấy tâm tôi không khởi niệm
phân biệt cái đồng hồ đẹp hay xấu, nên không có khởi niệm thủ xả, tôi chỉ
biết đây là cái đồng hồ. Như vậy là tâm tôi không dính mắc vào sắc trần.
Các trần kia cũng vậy. Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không chạy
theo sáu trần, ấy là tâm không trụ. Không trụ mà biết, chớ không phải
không trụ mà loạn, đó là pháp vị. Nếu vị nào tu thiền hơi khá khá là biết
điều này. Ngồi thiền chừng năm mười phút, không có một vọng tưởng nào dấy
khởi, tâm yên tỉnh, lúc ấy tâm không trụ vào sáu trần. Tuy yên tĩnh mà tâm
hằng biết, phải hiểu chỗ này cho kỹ, nếu không thì sẽ lầm lẫn. Khi tâm
không có một vọng tưởng dấy lên, tức là không dính mắc vào sáu trần để
phân biệt ngoại cảnh, nhưng chúng ta vẫn lặng lẽ thường biết. Nhà thiền
còn gọi là "Liễu liễu thường tri" đó là pháp vị. Nhưng có người tu tới chỗ
yên lặng, mà không biết rồi hoảng hốt đó là bịnh. Người tu mà tới đó thì
an nhiên tự tại lắm, vì đó là pháp vị.
- Trụ trước nơi pháp đây là động niệm, như
người vào tối thì không thấy vật; nay không có chỗ trụ, không nhiễm không
trước, như người có mắt và có ánh sáng mặt trời thấy rõ các vật. Trụ trước
nơi pháp tức là tâm duyên theo sự vật, đó là động niệm. Người trụ trước
nơi pháp, chẳng khác nào người đi vào nhà tối không thấy gì hết. Khi tâm
không duyên theo cảnh lặng lẽ an nhiên, chẳng khác nào người có mắt lại có
ánh sáng mặt trời thấy rõ các vật. Nên biết, người tu khi tâm thanh tịnh
thì trí tuệ phát sáng là vậy. Thông thường chúng ta tu là mong được trí
tuệ, nhưng tâm đang loạn tưởng lăng xăng, làm sao trí tuệ phát sáng được?
Cho nên, khi tâm chưa thanh tịnh thì phải dùng huệ huân, tức là dùng trí
Bát nhã chiếu soi để phá mê lầm, khi tâm dứt hết vọng tưởng thì trí tuệ
hiên bày. Ðó là cái sáng từ tâm, do định mà phát huệ, điều đó rõ ràng
không lầm lẫn.. Giả sử khi tâm chúng ta đang lo lắng, rối rắm, có ai đem
một vấn đề gì bàn bạc thì chúng ta không thể nào có được sự nhận xét và
góp ý chính xác. Cho nên muốn quyết định điều gì chính xác thì tâm phải
yên lặng tĩnh táo. Sự yên tĩnh tạm dụ cho tâm định, do định mới phát sáng.
Sự tu hành của đạo Phật không có gì huyền bí mà lại có diêụ dụng. Khi nào
tâm chúng ta không còn trụ trước nơi sáu trần, thì lúc đó có đủ thần thông
diệu dụng. Nhưng có lắm người tu quen theo lối chất chứa, cả đời cứ lo
chất chứa đầy đầu, học cái này, nghiên cứu cái kia. Khi ngồi lại thì tính
đủ chuyện, nhớ câu luận này, câu kinh nọ, khi nói thì dẫn chứng danh ngôn,
danh cú. Thông minh quá nên coi thiên hạ không ra gì. Ở đây, Phật Tổ dạy
khi ngồi thiền chúng ta phải bỏ hết mọi nhớ tưởng từ hồi nào đến giờ, để
cho tâm được yên tĩnh. Nhưng có lắm người sợ bỏ hết rồi ngu. Chúng ta đừng
sợ ngu, mà chỉ sợ chúng ta không bỏ hết được. Khi buông bỏ hết rồi thì lúc
đó tâm chúng ta sẽ sáng suốt. Trong nhà Phật có câu "Bỏ tất cả là được tất
cả". Vì vậy, chúng ta phải biết bỏ vọng tưởng không phải là ngu "Ngu mà
không ngu".
Thuở xưa, Sư cụ pháp chủ chùa Phước Hậu
(tôi gọi là sư ông), mỗi lúc rãnh rỗi, ngài hay kể chuyện khi ngài còn ở
ngoài Trung. Tại Phú Yên, có một vị hòa thượng, bình thường ngài không để
ý gì hết, lâu lâu tới bữa tắm chú thị giả thưa:
-
Bạch Hòa thượng bữa nay tắm.
-
Ngài hỏi:
-
Tắm hả? Ngài gật đầu rồi đi tắm. Ðến bữa cơm, chú thị giả thưa:
-
Bạch Hòa thượng dùng cơm.
Ngài gật đầu rồi đi dùng cơm, ngoài ra
không còn nhớ gì hết. Một hôm có vị trụ trì ở chùa trên triền núi, thỉnh
ngài đến làm Hòa thượng, chứng minh lễ an cư. Ðường đi đến chùa đó phải
lội qua nhiều suối. Khi đi ngang qua một dòng suối cạn, nước tới lưng
quần. Sợ ướt đồ, hai thầy trò cởi trần người qua suối. Qua suối lên bờ
ngài cứ đi thẳng không mặc đồ. Chú thị giả thưa:- Bạch Hòa thượng mặc đồ
vô.
Hòa thượng đứng lại mặc đồ vô, rồi đi tới
chùa làm lễ an cư. Thầy trụ trì tổ chức rất lớn, đông đảo tín đồ, chư Tăng
tụ họp an cư cũng đông. Làm lễ xong, ngài chỉ vùng kiết giới, bảo chư
Tăng:
- Các ông phải đắp chung quanh lên cao
chừng năm tấc, kẻo ngập nước.
Các thầy nghe không tin, vì ngoài Trung ba
tháng an cư chưa có mưa lớn, làm gì có nước ngập. Nhưng vì nể ngài nên chư
Tăng cũng dạ, dạ...
Lễ an cư ngày trước thì ngày sau có một số
lính (trào Pháp) vô làm tiền, đòi giấy tờ làm khó mấy thầy. Chư Tăng lúng
túng không biết làm sao mới trình bạch việc ấy với Hòa thượng. Hòa thượng
nói:
- À, thôi để tôi coi.
Ngài vô liêu, xổ mùng ngồi một hồi, trở ra
bảo:
- Thôi, không sao đâu, các ông an tâm, một
lát có Hộ pháp đuổi nó.
Quả thực, chừng nửa giờ sau có ông Quận
trưởng đến, các chú lính hoảng sợ đi mất.
Ở trong hạ, nửa tháng sau có một cơn mưa
lũ, nước lên bốn tấc, tràn ngập hết, các thầy kinh ngạc mới biết là Hòa
thượng nói không sai.
Chúng ta thấy hiện tại ngài khờ khạo, coi
như không biết gì, nhưng cần gì thì biết, biết được chuyện gần chuyện xa.
Còn chúng ta lại khôn quá, biết đủ thứ hết, ngồi lại thì nhớ đông nhớ tây,
cho nên muốn biết cái cần biết lại không biết được. Thành ra coi như biết
nhiều mà thật không biết. Còn ngài, coi như không biết mà biết, đó là điều
đặc biệt của nhà thiền. Ở đây tôi thường tuyên bố với chư Tăng ni:
- Chủ trương của tôi là ngu dân. Quí vị có
sợ không? Vì bao nhiêu kiến thức, tôi bảo gạt đuổi ra ngoài hết đừng nhớ,
đừng tưởng, đó là ngu rồi chứ gì? Nhưng, qua cái ngu đó, chúng ta mới vĩnh
viễn hết ngu. Còn nếu chúng ta cứ theo cái khôn vặt đó, thì chúng ta sẽ
ngu suốt kiếp.
Vì vậy, nên ở đây tôi nói rằng:
- Khi tâm không trụ nơi các pháp, không
nhiễm không trước, cũng như người có mắt mà thêm ánh sáng thấy rõ hết mọi
vật không có nghi ngờ.
Do đó, nên ngài xác định:
- Thế thì đâu thể đồng môn đồ của định
tánh, đã không có chỗ trụ trước thì đâu luận xứ sở?
Ý này là đáp lại câu hỏi:"Nếu tâm an nhất định thì đâu khác gì môn đồ của
định tánh (định tánh Thanh văn)?"
Chỗ này, tôi sẽ giải thích cho quý vị hiểu
sự sai biệt giữa định của Thiền tông và định của Thinh văn. Các vị Thinh
văn, khi tu tới Diệt tận định hay Diệt thọ tưởng định thì chứng quả A La
Hán, trong kinh A Hàm có kể một câu chuyện:
Một hôm, có vị Tỳ kheo đi khất thực về,
thọ thực xong, ngài vào rừng ngồi nhập định. Khi ấy có mấy người tiều phu
đi ngang qua thấy ngài ngồi bất động, đến rờ lỗ mũi ngài, thấy không còn
thở nữa. Họ cho là ngài đã chết, nên động lòng thương bèn đi kiếm củi dồn
lại và đốt lửa lên thiêu, rồi họ tiếp tục đi kiếm củi. Hôm sau, họ gặp vị
Tỳ kheo ấy đi khất thực, thấy y ngài mặc cháy khá nhiều chỉ còn cái viền
là không cháy. Họ lấy làm lạ, hỏi ra mới biết lúc đó ngài đang nhập Diệt
tận định. Nhập Diệt tận định thì không còn hơi thở, chỉ còn hơi ấm trong
người. Lúc đó thân thể như đá, như cây, ai làm gì cũng không hay biết,
chừng nào muốn xả thì xả. Nhập Diệt tận định có khi cả mấy chục năm hoặc
mấy trăm năm.
Cũng trong kinh A Hàm, có câu chuyện:
Tối hôm nọ, ngài Xá Lợi Phất mới cạo tóc,
ngài ngồi thiền trên tảng đá lớn, đối diện với ngài là Mục Kiền Liên. Khi
ngài Xá Lợi Phất đang nhập định, ngài Mục Kiền Liên thấy một con quỷ ở xa
đi lại, nó lấy tay đấm vô đầu ngài Xá Lợi Phất một cái. Ngài Mục Kiền Liên
thấy như vậy mới kêu:
- Sư huynh, nãy giờ thấy trên đầu có sao
không?
Ngài Xá Lợi Phất xả thiền đáp:
- Nghe trên đầu hơi ê ê.
Ngài Mục Kiền Liên nói:
- Cái sức đấm của con quỷ ấy rất nặng, nó
đấm quả núi nầy cũng nát, mà sư huynh chỉ thấy trên đầu hơi ê ê, như vậy
là sức định của sư huynh cao lắm.
Ðức Phật nghe câu chuyện này, Ngài cũng kể
lại câu chuyện như sau:
Một hôm vào mùa hạ, ngài tọa thiền trong
lều của những người làm ruộng, khi ấy có một cơn mưa giông rất lớn, sét
đánh chết người và trâu. Ngài không hay gì hết, khi xả thiền thấy người ta
xôn xao kéo trâu ra mổ. Ngài mới hỏi lý do. Họ trả lời:
- Lúc nãy mưa to, sét đánh chết người và
trâu. Khi ấy Ngài ngồi ở đâu?
Ðức Phật trả lời:
- Như Lai ngồi trong lều cỏ nầy.
- Ngài ngủ hay thức?
- Như Lai không ngủ.
- Không ngủ sao Ngài không nghe?
Thì ra lúc đó Ngài đang nhập định.
Qua ba câu chuyện trên, cho chúng ta biết:
khi nhập Diệt tận định là quên hết mọi chuyện bên ngoài. Nhưng ngược lại,
Thiền tông chủ trương định trong bốn oai nghi đứng, đi, nằm, ngồi. Gặp
việc thì nói, không có việc thì nín mà an nhiên tự tại, đó là đại định của
Ðại thừa. Cho nên, các Bồ tát luôn luôn làm lợi ịch cho chúng sanh mà các
ngài vẫn ở trong chánh định. Với người tu tập định này, khi ngồi thiền
không cần không biết gì hết của Diệt tận định Thinh văn và chỉ cần không
theo vọng tưởng, không theo vọng tưởng là Biết tất cả. Vọng tưởng dấy lên
biết, vọng tưởng lặng xuống cũng biết, biết như thế từ từ vọng tưởng hết,
vọng tưởng hết tâm nhất như. Rồi thì lúc đó đi nhổ cỏ, hái rau, bẻ củi,
trong tất cả trường hợp làm gì cũng ở trong định cả. Người tu theo Thiền
tông. ngồi thiền mà quên hết chuyện bên ngoài là bị ăn gậy. Như ở Nhật,
người ngồi thiền mà đến giờ đánh kẻng xả thiền, tất cả mọi người đều xả,
nếu có vị nào quên xả là bị giám thiền lôi ra đánh đòn. Tại sao vậy? Vì
thiền của Ðại thừa là chủ trương sống trong thực tại, nếu quên thực tại
chìm trong cái không tịch là bị ăn đòn. Lục Tổ ngày xưa, thấy chư Tăng
ngồi thiền là ngài quở. Ngài bảo phải thiền trong mọi sinh hoạt hàng ngày.
Ðó là chỗ sai biệt giữa định Tiểu thừa và định Ðại thừa.
- Khi tâm không trụ mà biết thì đâu thể
đồng với định tánh Thinh văn, mà nếu không có chỗ trụ thì đâu luận xứ sở.
Khi tâm chúng ta không trụ mà biết, tức là tâm yên lặng mà biết chứ không
phải mê. Như vậy làm sao đồng với Thinh văn là quên hết tất cả? Biết nhưng
không trụ trước, nên nói không có xứ sở. Như vậy, người tập tu theo định
này không còn sợ ngồi thiền mà biết tất cả. Có một số thiền sinh tu trong
thiền viện, khi ngồi thiền tâm lặng lẽ, cái gì xảy ra chung quanh cũng
biết, rồi phát sợ rằng tu như vậy không tiến. Cái gì xảy ra chung quanh
đều phải biết, biết mà không để tâm phân biệt, ấy mới là sống với cái hiện
hữu. Quý vị phải hiểu kỹ sự sai biệt giữa định Thinh văn và định Ðại thừa
để khỏi lầm lẫn trong khi tu.
11. HỎI:
Người ngộ lý dứt vọng thì không kết nghiệp, sau khi mạng chung linh tánh
sẽ nương vào đâu?
Câu này là cái nghi chung của đại đa số
người. Có người hỏi chúng tôi:
- Người tu Tịnh độ, chết về Cực Lạc, quý
thầy tu thiền chết về đâu?
Chúng ta nghe ngài Khuê Phong đáp:
ÐÁP:
Tất cả chúng sanh đều có tánh giác linh minh không tịch, không khác với
Phật, chỉ do từ vô thủy kiếp đến nay chưa từng liễu ngộ, vọng chấp thân là
tướng của ta, cho nên sanh tình yêu ghét. Theo tình tạo nghiệp, theo
nghiệp thọ báo sanh, già, bệnh, chết luân hồi nhiều kiếp. Nhưng, giác tánh
trong thân chưa từng sanh tử. Như mộng thấy bị xua đuổi mà thân vẫn nằm
yên trên giường. Vốn tự vô sanh thì đâu có chỗ nương gá.
Tánh giác là cái vô sanh mà hỏi chỗ nương
gởi thì làm sao trả lời? Nó là:
- Tinh lanh không mờ mịt, rõ ràng thường
biết, không từ đâu đến cũng không đi đâu.
Nếu chúng ta ngộ được chân tánh, thì không
nói đi đâu và đến đâu, vì chân tánh trùm khắp, nói đi đâu là có chỗ nơi
nhất định. Chúng ta tu là mong được Niết bàn vô sanh mà còn nghĩ đến có
chỗ để sanh, thật là mâu thuẫn. Mâu thuẫn tại chỗ dốt của chúng ta, hễ tu
là mong đời sau giàu sang để hưởng sung sướng. Tu mà không nói sanh về cõi
nào thì buồn lắm. Chủ yếu của đạo Phật, tu là để dứt sanh tử, mà nếu còn
mong có đời sau, có chỗ sanh, tức là còn tiếp nối dòng sanh tử. Người đặt
câu hỏi này chứng tỏ họ chưa hiểu gì về thiền.
Lại có người thắc mắc:
- Người tu Tịnh độ, nếu chưa hết nghiệp
thì đới nghiệp vãng sanh. Tức là mang nghiệp về Cực lạc tu tiếp. Còn người
tu thiền, nghiệp chưa hết, khi chết phải làm sao?
Ðây, ngài trả lời:
- Song, vọng chấp nhiều đời huân tập thành
tánh mừng, giận, vui, buồn, trôi chảy nhỏ nhiệm, tuy đã đốn ngộ chơn lý mà
tình này không thể dứt liền, cần phải hằng xét nét dần dần tổn giảm. Như
gió dừng thì sóng dần dần lặng. Ðâu thể tu hành một đời mà đồng lực dụng
của chư Phật, chỉ nên lấy không tịch làm thể của mình, chớ nhận sắc thân
này, lấy linh tri là thân của mình, đừng nhận vọng niệm, vọng niệm nếu
khởi không nên theo nó, tức là khi sắp mạng chung tự nhiên nghiệp không
thể ràng buộc. Tuy có thân trung ấm mà đi đâu tự do, tùy ý đến cõi người,
cõi trời thọ sanh.
Vì vọng chấp nhiều đời huân tập thành
tánh, nào là mừng, giận, thương, ghét, vui, buồn v.v... Không thể một đời
dứt hết, cần phải xét nét để cái nghiệp chúng ta huân lâu đời dần dần tổn
giảm. Và, chỉ nên nhận tánh không của tứ đại làm thể của mình, chớ đừng
nhận sắc thân tứ đại này là của mình. Lấy cái linh tri làm tâm mình, chớ
đừng nhận vọng niệm làm tâm mình. Hàng ngày chúng ta hằng sống với cái
linh tri, vọng tưởng dấy lên không theo nó, thì khi sắp mạng chung, tự
nhiên nghiệp không thể ràng buộc được. Như vậy, tuy chưa dứt nghiệp mà
chúng ta vẫn tự do, tùy ý đến cõi trời, cõi người thọ sanh. Lúc ấy, chúng
ta muốn về Cực Lạc cũng không ai ngăn cản.
Có người lại thắc mắc:
- Người niệm Phật, lúc sắp mạng chung họ
có câu niệm Phật buộc tâm nên tâm không loạn. Còn chúng ta tu thiền khi
thân thể khỏe mạnh, dùng trí Bát nhã quán chiếu thấy tánh không của tứ đại
là thể của mình, và vọng niệm dấy lên không theo, thì có thể tu được.
Nhưng khi hấp hối, sợ chết quá, luýnh quýnh, làm sao quán nổi?
- Chính vì vậy, nên Phật Tổ dạy hàng ngày
người tu thiền phải dùng trí Bát nhã quán chiếu để thấy thân tứ đại này là
giả. Hằng quán như vậy, thì chết đến chúng ta vẫn tỉnh táo, mạnh dạn đón
tiếp cái chết một cách bình thản, chớ không sợ hãi khủng khiếp như người
không tu. Cho nên các thiền sư khi chết, ngồi an nhiên mà tịch, không phải
co tay, giật chân, miệng méo như người thường. Chúng ta thấy cũng đồng
thời đau, như đau bụng chẳng hạn, với người trí huệ kém, nuông chiều thân
này, khi đau nhào lộn khóc lóc, kêu người này réo người nọ. Người trí huệ
mạnh, coi thường cái thân, khi đau họ gan dạ chịu đựng, nên họ không rên
la. Ðó là trí huệ mạnh, làm chủ được thân nên tâm tịnh, còn trí huệ yếu
tình cảm nhiều, không làm chủ được thân nên tâm loạn. Vì vậy, tôi thường
nhắc quý vị hàng ngày phải dùng trí Bát nhã chiếu soi luôn, để thấy thân
này là tạm bợ, sự mất còn của nó như trò chơi, chẳng có gì quan trọng, thì
không lo sau khi mạng chung không biết chỗ đi. Chừng đó tùy ý, chỗ nào đủ
duyên thì đến làm lợi ích cho chúng sanh. Còn nếu bình thường nuông chiều
thân này quá, đau chút ít không chịu nổi, khổ một chút thì kêu than. Tâm
không buông xả vọng tình, còn đầy ấp buồn, vui, thương, ghét... thì chắc
chắn khi mạng chung tâm sẽ loạn, và theo nghiệp thọ sanh, nặng đâu sa đó.
- Nếu niệm yêu ghét đã hết, tức không thọ
nhận thân phần đoạn (thân còn ăn uống thô) tự hay đổi dở thành hay, đổi
thô thành diệu.
Trường hợp này, nếu niệm yêu ghét hết tức
là tình chấp hết, thì không còn thọ thân thô tháo ăn uống như chúng ta
nữa. Khi bỏ thân này rồi, muốn thân nào cũng được, từ cái thân thô biến
thành thân đẹp, chừng đó tùy ý đến các cõi lành để tu tiến thêm.
- Nếu phần trôi chảy nhỏ nhiệm lắng sạch
tất cả, chỉ riêng còn Viên giác Ðại trí sáng suốt, tùy cơ ứng hiện trăm
ngàn ức thân độ chúng sanh hữu duyên, gọi đó là Phật.
Nếu người trong tâm không còn một niệm vi
tế nào hết chỉ còn tánh Viên giác Ðại trí sáng suốt tức là chứng được pháp
thân. Lúc ấy, tùy duyên ứng hiện trăm ngàn hóa thân để độ chúng sanh, gọi
đó là Phật.
Ngài đã giải rõ như vậy, chúng ta tùy sức
mà tu hành, đừng thắc mắc lo sợ. Nếu tu viên mãn thì thành Phật, nếu chưa
viên mãn thì thành Bồ tát hạnh, vì nguyện lực mà ra đời độ sanah, còn thấp
hơn nữa thì cố gắng hàng ngày thường tỉnh giác, để lúc chết tỉnh táo thì
chẳng bị nghiệp lôi, đi đâu tùy ý. Chúng ta cũng đừng sợ cõi Ta Bà này,
cho là ô nhiễm mà phải lựa cõi khác để tái sanh, ô nhiễm hay thanh tịnh
gốc cũng tại tâm, chuyển được nghiệp thì ô nhiễm biến thành thanh tịnh,
ngài có làm tám câu kệ diễn bày ý này:
Tác hữu nghĩa sự,
Thị tỉnh ngộ tâm.
Tác vô nghĩa sự,
Thị cuồng loạn tâm.
Cuồng loạn tùy tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp khiên.
Tỉnh ngộ bất do tình,
Lâm chung năng chuyển nghiệp.
Dịch:
Làm việc có nghĩa,
Là tâm tỉnh ngộ.
Làm việc vô nghĩa,
Là tâm cuồng loạn.
Cuồng loạn theo tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp lôi.
Tỉnh ngộ không theo tình,
Lâm chung hay chuyển nghiệp.
Qua tám câu kệ này, chúng ta thấy ai giải
thoát, ai trầm luân rõ ràng:
Tác hữu nghĩa sự,
Thị tỉnh ngộ tâm.
Tác vô nghĩa sự,
Thị cuồng loạn tâm.
Chữ nghĩa này không phải là chữ nghĩa theo
thế gian. Ở thế gian, người có nghĩa là người biết phải quấy, biết ăn ở
hiếu nghĩa với cha mẹ, anh em quyến thuộc, biết thương yêu người nghèo khổ
láng giềng v.v... Chữ nghĩa ngài Khuê Phong dùng trong bài kệ này ý khác.
Làm việc có nghĩa là làm việc phù hợp với lý chân thật, mà làm việc phù
hợp với lý chân thật thì tâm tỉnh ngộ. Vậy, thế nào là làm việc phù hợp
với lý chân thật? Như người tu tại gia thọ tam quy, ngũ giới, hoặc bát
quan trai giới thì phải giữ đúng theo đó mà tu; còn người xuất gia giữ
đúng giới luật của người xuất gia mà tu. Người tu theo Thinh văn thì giữ
đúng theo tinh thần của Tứ đế, hằng quán lý vô thường, khổ, không,vô ngã;
người tu theo Bồ tát hạnh thì tu hạnh Lục độ Ba la mật... Như vậy, hợp với
lý chân thật thì tâm tỉnh ngộ, còn nếu ngược lại, làm việc vô nghĩa thì
tâm cuồng loạn. Mà tâm cuồng loạn thì:
Cuồng loạn tùy tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp khiên.
Nếu tâm cuồng loạn thì chết bị nghiệp lôi,
mà bị nghiệp lôi là còn luân hồi. Nếu:
Tỉnh ngộ bất do tình,
Lâm chung năng chuyển nghiệp.
Tức là tỉnh ngộ không theo tình niệm, thì
khi lâm chung chuyển được nghiệp, chuyển được nghiệp thì giải thoát, rõ
ràng như vậy không sai. Nhưng không theo tình niệm là sao? Mục đích ngồi
thiền là để tỉnh ngộ, tức là tập sống với cái chân thật của mình. Ngồi
thiền nếu trọn giờ không theo vọng niệm là trọn giờ tỉnh giác và giải
thoát. Biết như vậy, chúng ta cố gắng làm chủ đừng chạy theo tình niệm,
uổng một đời tu! Ban đầu tập làm chủ trong giờ tọa thiền, sau tập làm chủ
trong mọi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm và trong lúc làm việc. Quen dần
chúng ta làm chủ mình trong hai mươi bốn giờ trong một ngày, rồi suốt
tuần, suốt tháng, suốt năm. Làm chủ được tâm không chạy theo tình niệm,
thì chắc chắn chuyển được nghiệp, sau khi chết không bị nghiệp lôi. Và tùy
ý, thấy chỗ nào có duyên thì ứng thân đến đó để giáo hóa, cha mẹ, quyến
thuộc, thí chủ ở nơi nào cũng hóa độ được. Biết rõ như vậy, khi tu chúng
ta mới an lòng. Bằng không biết giá trị của sự tu hành, khi đang tu bị chê
là tiêu cực, ích kỷ thì lúng túng, muốn ra làm Phật sự. Nhưng khi ra làm
việc, mà còn đầy ắp tình niệm thì vẫn còn luân hồi, vì nhơn luân hồi là
tình niệm thì quả cũng là luân hồi.
] |