PHÁN ĐỊNH KINH GIÁO TỔNG HỢP
Kế
đây phán định kinh giáo tổng hợp làm ba thứ:
Kinh điển của Phật giáo rất nhiều, nhưng ở
đây theo chỗ phán định của ngài Khuê Phong, kinh Phật được chia làm ba
giáo. Sau đây ngài trình bày từng giáo một.
1.- Giáo mật ý y tánh nói tướng: Trong
giáo này có chia ba loại:
a.- Giáo nói về nhơn quả người, trời: Nói
nghiệp báo thiện ác cho người biết nhơn quả không sai, sợ khổ ba đường dữ,
cầu cái vui cõi người, cõi trời; tu bố thí, trì giới, thiền định... tất cả
hạnh lành được sanh cõi trời, người cho đến cõi Sắc và Vô Sắc.
Mật ý là thầm ý căn cứ vào tánh, nhưng
không nói tánh, một bề nói tướng, gọi là "Mật ý y tánh nói tướng".
Trong phần (a) của giáo thứ nhất, nói gần
và cạn, tức là dạy cho chúng ta biết rõ nghiệp báo thiện ác, nhơn quả
không sai. Biết để chúng ta sợ khổ ở ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, cố gắng tu các hạnh lành như bố thí, trì giới v.v... để được sanh
vào các cõi lành. Phần này trước đã nói, tu trên tâm sanh diệt và hưởng
quả sanh diệt, nghĩa là tâm thiện làm cho tăng trưởng, tâm xấu ác bỏ đi.
Kết quả sẽ được sanh cõi trời, người hưởng phước báu. Trong bốn bộ A Hàm
nói nhiều về nhân quả, nghiệp báo.
b.- Giáo nói dứt mê diệt khổ: Nói ba cõi
không an đều là khổ như trong nhà lửa, khiến dứt tập nghiệp mê lầm, tu đạo
chứng diệt. Vì tùy cơ nên nói pháp số một bề sai biệt để giản trạch tà
chánh, biện rõ phàm thánh, phân biệt ưa chán, nhận rõ nhân quả. Nói chúng
sanh do năm uẩn kết hợp, trọn không có cái ta làm chủ, nên đều là sắc chất
hình hài và tâm suy tính, từ vô thủy đến nay do sức nhân duyên nên niệm
niệm sanh diệt tiếp nối không cùng như nước chảy, như đèn sáng. Thân tâm
giả hợp in tuồng một, in tuồng thường, phàm ngu không biết chấp là ngã
(ta), nên khởi ba độc tham, sân, si. Ba độc kích thích ý thức phát động
thân miệng tạo tất cả nghiệp. Nghiệp thành khó trốn, thọ thân trong năm
đường chịu khổ vui... lăn lộn trong ba cõi có hơn kém... thọ thân rồi trở
lại chấp làm ngã (ta), lại khởi tham v.v... tạo nghiệp thọ báo.
Phần (b) của giáo này căn cứ vàp pháp Tứ
Ðế trong bốn bộ A Hàm. Trong pháp Tứ Ðế, đức Phật nói tất cả chúng sanh
đều chịu bốn khổ sanh, già, đau, chết. Muốn hết khổ phải tu dứt mê lầm và
được Niết bàn an lạc.
Trong giáo lý Tứ Ðế, phần Tập đế, đức Phật
chỉ rõ cho chúng ta nguyên nhân con người chịu đau khổ là do chấp thân là
ngã. Nhưng thân này do năm uẩn kết hợp, trọn không có cái ta làm chủ. Ðức
Phật phân tích cho thấy: thân là phần vật chất thì có tứ đại, phần tinh
thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tâm suy tính. Hai phần này kết hợp với
nhau thành con người. Thân tâm này sanh diệt tiếp nối không cùng, thay đổi
từng sát na, vì thay đổi quá nhanh chóng, phàm phu không biết tưởng như
thường còn, tưởng như nguyên vẹn. Giống như một dòng nước chảy xiết, chúng
ta chỉ thấy là một dòng nước, chứ thật ra do từng hạt nước nối liền nhau
mà thành. Khi chúng ta cầm cây nhang quay tròn thật nhanh, người ở ngoài
thấy có một vòng lửa. Song, vòng lửa đó không thật, do sự quay quá nhanh
của cây nhang mà thấy in tuồng như có vòng lửa. Cũng vậy, thân tâm hiện có
của chúng ta do năm uẩn giả hợp thấy như thường có. Thật ra nó là một vòng
sanh diệt biến đổi từng phút giây.
Xét kỹ, từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi
xuống mồ, thân tâm này thay đổi không biết bao nhiêu lần, mỗi sát na các
tế bào thay đổi, mỗi sát na tâm niệm đổi thay. Nhưng phàm ngu không biết,
cho thân tâm này là của ta. Do si mê chấp thân là thật nên khởi tham, tóm
thâu của cải vật chất để bồi đắp cho thân. Nếu tham không được thì nổi
sân, khi sân thì thân, miệng, ý tha hồ tạo nghiệp, tạo nghiệp rồi thì chịu
quả khổ. Vòng xúc xích có ba khoen: Hoặc (si mê) - Nghiệp - Khổ - trói
buộc lôi kéo chúng sanh lăn trong năm đường, ba cõi, chịu đủ các thứ khổ
vui. Tất cả người xấu đẹp, lành lặn, tật nguyền cho đến loài súc sanh đều
chấp thân cho là thật. Nói chung hễ mang thân nào là bám vào đó cho là ta.
Như quỷ thần gá vào cây bèn cho cây ấy là mình, ai động tới là bắt bớ,
quấy phá v.v... Do chấp thân này là thật, nên khi mất thân vội tìm thân
khác và vòng luân hồi tiếp nối không dừng.
- Thân có sanh, già, bệnh, chết; chết rồi
trở lại sanh. Thế giới có thành, trụ, hoại, không; không rồi lại thành.
Kiếp kiếp đời đời luân hồi không dứt, không trước không sau, như cánh quạt
nước lăn.
Thân người trải qua bốn giai đoạn sanh,
già, bệnh, chết. Ngoại cảnh (thế giới) cũng có bốn giai đoạn thành, trụ,
hoại, không. Con người chết rồi trở lại sanh. Thế giới không rồi trở lại
thành, vòng luân hồi không dứt. Ví như cái quạt nước lăn, chúng ta thấy nó
chạy cuồn cuộn hết vòng này tới vòng kia không dứt.
- Bởi do không hiểu thân này vốn không
phải là ngã (ta). Không phải là ngã vì thân này nhơn sắc và tâm hòa hợp
làm thành hình tướng, tìm xét phân tích thì sắc có bốn loại là đất, nước,
gió, lửa; tâm có bốn loại là thọ, tưởng, hành, thức. Nếu mỗi cái đều là
ngã tức thành tám cái ngã (ta).
Phân tích thân tâm này có bốn đại và bốn
uẩn, nếu mỗi cái đều là ngã thì ta có tám cái ngã sao? Xét kỹ chúng ta
nhận thấy thân tâm này là một vật thể tổng hợp chứ không có cái "Ta" thật.
- Huống là trong sắc có ba trăm sáu chục
lóng xương, mỗi lóng đều riêng, da, lông, thịt, tim, gan, phổi, thận, mỗi
phần đều khác nhau. Các thứ tâm sở cũng mỗi thứ không đồng, thấy không
phải là nghe, mừng không phải là giận. Ðã có những vật này nhiều như thế,
không biết định lấy cái nào làm ngã (ta)? Nếu nói đều là ngã, thì ngã có
đến trăm ngàn ở một thân, chủ nhiều sanh rối loạn. Lìa ngoài những cái
này, lại không có pháp nào riêng. Lật sấp ngửa tìm cái ngã đều không thể
được, nên ngộ thân tâm này do các duyên hòa hợp, có tướng tương tợ, nguyên
không phải một thể, in tuồng như tướng ta tướng người, nhưng không phải ta
người? Vì cái gì sanh tham, sân? Vì cái gì sát sanh, trộm cắp? Cái gì tu
giới? Cái gì sanh cõi người, trời?
Trong kinh Ðệ Nhất Tối Không (Tăng Nhất A
Hàm), đức Phật phân tích cho các vị Tỳ kheo thấy rằng: trong thân người có
ba trăm sáu mươi lóng xương, năm trăm mạch, năm trăm sợi gân, chín mươi
ngàn lỗ chân lông, tám mươi ngàn hộ trùng. Ðức Phật dạy các Tỳ kheo quán
sát kỹ như vậy thì sẽ chứng được quả A Na Hàm cho đến quả A La Hán.
Chia chẻ cho kỹ, chúng ta thấy rõ ràng
không có gì là ta và của ta. Như chúng ta nhìn một ngón tay thấy nó là một
ngón tay nguyên vẹn, nhưng xuyên qua lớp da bọc ngoài thì thấy các lóng
xương cột lại bởi các sợi dây gân, chung quanh bọc một mớ thịt bầy nhầy và
bên ngoài được phủ lên một lớp da. Sự thật là vậy, mà chúng ta quên, thấy
ngón tay dài thon thì khen đẹp, ngón tay to thô thì chê xấu v.v... Bởi
chúng ta chỉ nhìn trên giả tướng, mà không nhìn suốt thật thể của nó. Như
các bác sĩ đáng lẽ họ giác ngộ hơn ai hết, vì hàng ngày họ nhìn rất tường
tận biết bao nhiêu thân thể của bệnh nhân. Nhưng họ đâu có chán chê thân
mình thân người, họ cũng như bao nhiêu người khác, vẫn đắm say sắc dục và
đau khổ như mọi người.
Nghiệm cho kỹ, chúng ta thấy rõ sự giả hợp
của thân này chúng ta mới tỉnh giác. Như khi ngồi thiền lâu, chân tê cứng
coi như chân chết. Tại sao? Vì máu không lưu thông đến chỗ đó, nên nó
không hoạt động. Vậy máu lưu thông thì thân sống, máu ngừng chạy thì thân
chết. Chúng ta không làm chủ được nó, nó còn hay mất hoàn toàn do sự hợp
tan của các duyên bên ngoài. Ðức Phật ví nó như hòn bọt ngoài biển, rất dễ
tan vỡ. Hơn nữa, chúng ta cho rằng máu rất quý đối với sự sống, như vậy
rút một ít máu rồi bảo chúng ta uống vô, chúng ta uống được không, hay
phải truyền vô cơ thể bằng đường khác? Nói chung những gì ở trong cơ thể
này chúng ta đều quí, nhưng khi loại ra khỏi cơ thể rồi thì xem như đồ bỏ.
Thật là mâu thuẫn vô cùng. Nếu nhìn bằng con mắt trí huệ, khi nó đang mạnh
khỏe hoạt động thì chẳng có gì đáng quí mà nó là một ổ chứa nhóm các thứ
bệnh hoạn, hay một cái đãy da chứa đựng các thứ bất tịnh. Thấy rõ như vậy,
chúng ta hết đắm trước thân này, hết vì nó tạo nghiệp, dứt nghiệp thì
không còn khổ, phá vỡ được xích: Hoặc - Nghiệp - Khổ. Vậy tu không khó,
chỉ khó ở chỗ chúng ta hay quên, không chịu đổi cái nhìn. Ðó là phân tích
phần sắc chất. Bây giờ phân tích phần tinh thần. Hằng ngày hằng giờ, tâm
chúng ta thay đổi biết bao nhiêu lần: mừng giận, buồn vui, thương ghét
v.v... Vậy cái nào là ta? Buồn là ta hay vui là ta? Nếu buồn là ta thì vui
là ai? Nếu hết thảy những cái đó đều là ta, thì trong một tâm nhiều cái ta
quá. Trong một tâm nhiều cái ta thì tâm ấy sẽ điên cuồng, cũng như trong
một nhà có nhiều ông chủ thì nhà ấy sẽ rối loạn.
Phân tích kỹ như vậy, để cho chúng ta nhận
ra thân tâm này không thật, không phải của ta, nó giả dối tạm bợ, nó là
tổng hợp của những sự mâu thuẫn. Nhận ra rồi, chúng ta mới hết chấp "Ngã",
dừng tạo nghiệp, đến chỗ giải thoát.
- Tâm không mắc trong ba cõi thiện ác, hữu
lậu, chỉ tu trì quán vô ngã (không ta) để đoạn tham... dứt bặt các nghiệp,
chứng ngã không chơn như, đắc quả Tu Ðà Hoàn (chứng dòng thánh) cho đến
diệt hết hoạn lụy đắc quả A La Hán (không còn sanh tử), thân trí vắng bặt
hằng xa lìa các khổ. Các kinh A Hàm đến 168 quyển, Luận Tỳ Bà Sa. Luận Câu
Xá 98 quyển, nói lý không ngoài ý này.
Ðọc kỹ kinh A Hàm, chúng ta thấy chủ ý của
đức Phật là nhằm phá vở bản ngã, để đưa chúng sanh đến chỗ giải thoát. Khi
người tu đạt đến chỗ ngã không rồi thì được vô sanh, không còn mong sanh
lại cõi này hay cõi kia để hưởng sự sung sướng v.v... Tôi nói rộng hơn,
người chứng được ngã không, khi ra làm việc lợi ích cho chúng sanh thì làm
với một tâm niệm vô tư, không dính mắc. Còn người chưa chứng được ngã
không, làm việc gì cũng vì bản ngã. Cho đến tu cũng vì bản ngã mà tu. Như
quý Phật tử đi chùa lạy Phật, cúng ít tiền hay hoa trái, thường cầu nguyện
cho con trai thi đậu, con gái có chồng sang, thân mình được sung túc, mua
may bán đắt, bà con quyến thuộc đều bình an mạnh giỏi v.v... Phật tử đi
chùa với tinh thần đó là vì bản ngã! Phật dạy tu vô ngã mà chúng ta đi
chùa cầu cho bản ngã và ngã sở là trái lời Phật dạy. Tu thì phải bớt tham
mà chúng ta đi chùa lại tham hơn lúc chưa đi chùa. Nếu là người Phật tu
chơn chánh, muốn học đạo giải thoát nên đặt lại hướng đi chùa cho đúng để
được lợi lạc. Chúng ta học đạo vô ngã thì đừng vì bản ngã mà chìm đắm
trong mê lầm. Nếu Phật tử đi chùa với tâm niệm như trên thì lâu ngày biến
đạo Phật thành đạo mê tín dị đoan, giáo lý Phật sẽ lu mờ. Tăng Ni chịu
trách nhiệm lớn trong việc này, phải hướng dẫn Phật tử tu theo chánh kiến.
Ðừng dẫn Phật tử đi thập tự, vô chùa đốt một nén hương, cúng vài ba mươi
đồng, lạy ba lạy, cầu khẩn lung tung, chẳng được lợi ích gì. Vì cầu không
được như ý, lâu ngày họ nản lòng, nghe đồn chỗ nào linh ứng cầu chi được
nấy, họ sẽ bỏ chùa tìm đến nơi đó, như dinh Cô, dinh Cậu, miếu Bà, miếu
Ông v.v... rơi vào mê tín. Nếu Tăng Ni hướng dẫn Phật tử có chánh kiến và
đủ niềm tin với Tam Bảo thì họ sẽ được lợi ích và không lạc tà đạo. Kinh
Phật dạy: "Phật tử cúng dường Tam Bảo phước đức vô lượng vô biên". Nhưng
quý vị nên nhớ vì Tam Bảo cúng dường chớ không phải cúng dường vì mình.
Như tôi đã nói:
- Tăng Ni là người mồi ngọn đuốc chánh
pháp từ nơi đức Phật, thắp sáng để soi đường cho chúng sanh đang đi trong
đêm tối mê lầm.
Phật tử đi chùa cúng dường Tam Bảo là vì
chánh pháp, quý vị góp vào một ít tài vật để nuôi dưỡng Tăng Ni, giúp Tăng
Ni bớt lo phần kinh tế, có đủ thì giờ tu học và hoằng pháp lợi sanh, đem
đạo giác ngộ phổ biến, thức tỉnh cho người bớt mê, bớt khổ. Cúng dường với
tâm niệm như vậy là vì Tam Bảo và được phước vô lượng vô biên. Nếu Phật tử
cúng dường vì cầu riêng cho mình, cho quyến thuộc thì phúc đức không đáng
kể. Cho nên người Phật tử học đạo giải thoát, đi chùa trước hết là học
giỏi đạo lý để biết đường tu, nếu có cúng dường tài vật cho Tăng Ni và
được hỏi muốn cầu điều gì, nên trả lời:
- Con cúng dường quý thầy, cô chút ít
phương tiện sống để tu hành, mở mang đạo pháp để dạy dỗ chúng sanh hết mê
lầm.
Bấy nhiêu đó là quá đầy đủ ý nghĩa của sự
cúng dường. Cúng dường mà bắt quý thầy đọc nửa tiếng đồng hồ mới hết tên
họ quyến thuộc mình, Tam Bảo không thể nào chứng, không thể nào đáp ứng
lại sở cầu của quý Phật tử được.
Vậy từ nay, Phật tử đi chùa nên thay đổi
quan niệm. Trước hết học giáo lý để áp dụng tu hành, sau nếu có người muốn
tu theo đạo Phật, quý vị biết để hướng dẫn họ. Ðừng đi chùa chỉ lo cầu
cúng, biến đạo Phật thành đạo mê tín, không lợi ích cho mình, cho người.
Phật tử đi chùa quy y hai ba mươi năm, không hiểu giáo lý, không biết tu
hành thật đáng tiếc thay!
c.- Giáo đem thức phá cảnh: Nói trên pháp
sanh diệt... không quan hệ gì đến chơn như. Chỉ vì chúng sanh từ vô thủy
đến nay sẵn có tám thứ thức, ở trong đó Tàng thức (thứ tám) là cội gốc. Nó
biến ra chủng tử căn thân (con người) và khí giới (thế giới), chuyển sanh
bảy thức, mỗi thức hay biến hiện cảnh sở duyên của tự phần, ngoài tám thức
này trọn không có cái gì thật.
Phần này đem thức phá cảnh. Chúng ta lâu
nay cho rằng tất cả đều thật, nhưng Duy Thức học cho rằng tất cả đều do
thức biến.
- HỎI: Biến như thế nào?
- ÐÁP: Vì ngã (ta), pháp (sự vật) do sức
phân biệt huân tập, khi các thức sanh biến trông như ngã pháp. Vì thức thứ
sáu, thức bảy bị vô minh che đậy nên duyên nơi đây (thức thứ tám) chấp làm
thật ngã, thật pháp. Như người bịnh, người nằm mộng, vì sức bịnh sức mộng
nên tâm hiện tướng giống như các cảnh ngoài. Khi mộng chấp là thật có
ngoại vật, lúc thức mới biết chỉ do mộng biến ra. Thân tướng của ta và
cảnh bên ngoài cũng như thế, chỉ là thức biến ra, vì mê lầm chấp có ta và
các cảnh, khi ngộ vốn không có ta và sự vật, chỉ có tâm thức.
Ðây nói tổng quát cách thức biến (muốn
hiểu rõ chi tiết, hãy xem Duy Thức). Sở dĩ chúng ta thấy có cảnh và thân
tâm là vì thức thứ sáu, thứ bảy bị vô minh che mờ nên chấp có thật ngã
(ta), thật pháp (cảnh). Ta và cảnh là gốc từ thức thứ tám biến ra, vì thức
thứ sáu, thứ bảy mê nên chấp có ta thật và cảnh thật.
Ví dụ khi nằm mộng thấy có cảnh và người,
trong lúc đang mộng, không ai biết rằng do mình mê, nên hiện ra cảnh và
người, khi hoàn toàn tỉnh thức mới biết cảnh, người trong mộng là giả do
ngủ mê hiện ra. Cũng vậy, khi còn mê lầm nói cảnh do tâm biến hiện không
ai tin hết, chỉ khi nào giác ngộ như Phật, Bồ Tát, chúng ta tự biết. Như
mắt thấy cái đồng hồ, chúng ta tưởng cái đồng hồ thật, nhưng đó chỉ là
bóng đồng hồ phản ảnh vào mắt, rồi mắt tự biến ra tướng tương tợ để thức
duyên theo, chúng ta gọi đó là thấy cái đồng hồ. Tướng cái đồng hồ chúng
ta thấy là do thức biến hiện chứ không có tướng thật. Các căn kia cũng
vậy. Tất cả cảnh chúng ta duyên theo đều phản ảnh vào trong các căn, căn
biến ra hình tương tợ rồi duyên theo hình tương tợ đó sanh phân biệt. Ðó
là nói tổng quát tất cả cảnh thấy, nghe, hiểu, biết đều do thức biến không
ngoài mình mà có pháp. Khi chúng ta biết tất cả cảnh là giả, do thức biến,
nên không còn chạy theo cảnh, trở về tự tánh là lặng yên chơn như. Ðó là
chuyển thức thứ tám (A Lại Da thức) thành trí. Còn chứa chủng tử nhiễm
tịnh tức là còn hòa hiệp nên gọi là A Lại Da thức, khi phá được phần hòa
hiệp gọi đó là chơn như. Tuy một thể mà hai tên, theo duyên hòa hiệp gọi A
Lại Da là tướng, tánh bất sanh bất diệt gọi là thể chơn như. Duy Thức tuy
nói khác nhưng rốt rồi cũng trở về chỗ đó.
Kinh Phật nói thế, nhưng thực ra không
ngoài ý chính là chỉ cho chúng ta thấy ngã không thật, pháp không thật.
Biết ngã không thật thì phá được mê lầm chấp ngã, biết pháp không thật thì
tâm không còn duyên theo cảnh để khởi phân biệt, không phân biệt thì hết
vọng tưởng, tâm nhất như.
- Nương trí nhị không này (ngã, pháp
không) tu quán Duy Thức và hành Lục độ, Tứ nhiếp pháp... dần dần đoạn dẹp
hai thứ chướng phiền não và sở tri, chứng chơn như do nhị không hiển bày,
viên mãn Thập địa, chuyển tám thức thành tứ trí Bồ đề; chướng chơn như đã
hết, thành thân pháp tánh đại Niết bàn. Các kinh Giải Thâm Mật, Luận Du
Già, Duy Thức... nói lý không ngoài ý này.
Dùng thức phá cảnh thuộc về giáo nói nhiều
về tướng, nên duy Thức gọi là Pháp Tướng tông.
- Ba thứ trên đây đều là phần thứ nhất
"Giáo mật y tánh nói tướng". Nhưng chỉ có giáo thứ ba "Giáo đem thức phá
cảnh" cùng với thiền môn "Tông dứt vọng tu tâm" phù hợp nhau. Do biết
ngoại cảnh đều không, nên không tu sự tướng ngoại cảnh, chỉ dứt vọng tu
tâm. Dứt vọng là dứt vọng ngã pháp. Tu tâm là tu tâm Duy thức. Cho nên
đồng với kinh giáo Duy Thức.
Trong giáo thứ nhất chia làm ba phần, phần
thứ ba "Ðem thức phá cảnh" mới phù hợp với "Tông dứt vọng tu tâm" (Tông 1)
của Thiền tông.
- Ðã cùng Phật giáo đồng tại sao chê bai
người tu môn tiệm, dứt vọng, quán tịnh, luôn luôn lau chùi, dừng tâm, trụ
tâm, chuyên chú một cảnh, ngồi kiết già điều thân, điều hơi thở v.v... các
phương tiện này đều là Phật khuyến khích khen ngợi. Kinh Tịnh Danh chép:
"Không hẳn ngồi, không hẳn chẳng ngồi, ngồi cũng chẳng ngồi tùy theo cơ
nghi, dừng tâm hay vận tâm mỗi thứ xét theo tánh đã tập".
Tất cả các pháp môn tu trong kinh Phật
dạy, sau này các Tổ tùy theo căn cơ linh động thêm bớt phương tiện, chứ
không phải tự ý đặt ra. Bây giờ có một số người tu căn cứ trên hình tướng
phê bình lẫn nhau. Thấy vị nào ngồi thiền nhiều thì cho vị đó tu giỏi, vị
nào không ngồi thiền thì cho rằng vị đó không biết tu. Những vị không ngồi
thiền, đi đứng quán chiếu thì nói những vị ngồi thiền như người chết không
lợi ích gì. Cả hai đều có chỗ nêu ra để chỉ trích lẫn nhau. Kinh Tịnh Danh
nói: "Không hẳn ngồi, không hẳn chẳng ngồi". Nếu tâm chúng ta phóng túng
chạy theo cảnh thì cần phải ngồi để dễ điều phục tâm. Khi tâm đã thuần rồi
thì ngồi hay không ngồi cũng được. Ðức Phật thành đạo rồi mà ngài vẫn ngồi
thiền là để an dưỡng thân tâm và làm gương cho Tăng chúng. Ở thiền viện
Chơn Không, tôi chủ trương năm thứ nhất ngồi thiền một giờ, năm thứ hai
ngồi thiền một giờ ba mươi phút, năm thứ ba ngồi hai giờ. Từ đó về sau
muốn ngồi hay không ngồi cũng được. Chủ trương của tôi không lấy ngồi
thiền làm trên mà cũng không bỏ ngồi thiền.
Tôi thường ví dụ: chúng ta là người đang
bị giặc bên trong nổi loạn, giặc bên ngoài bao vây. Trước hết phải chặn
giặc bên ngoài bằng cách ngồi lại, để tâm không chạy theo ngoại cảnh, và
tận dụng sức mạnh của trí tuệ để dẹp giặc bên trong. Ðang dẹp giặc bên
trong, sáu cửa thành (sáu căn) đóng bít thì giặc bên ngoài không có nội
ứng, không có đường tiến vào thì phải rút lui. Khi giặc trong ngoài đều
hết, chúng ta mặc tình thung dung tự tại ngồi cũng tốt, không ngồi cũng
tốt.
Triều Cao Tông đại đế cho đến Huyền Tông,
bổn tông viên đốn chưa lưu hành đất Bắc, chỉ có đại sư Thần Tú nêu cao
Tiệm giáo là vị pháp chủ hai kinh đô, thầy của ba vua, hoàn toàn nói là
tông của Tổ Ðạt Ma, mà không hiển bày ý chỉ "tức Phật".
Tuy ngài Thần Tú truyền theo tông chỉ của
Tổ Ðạt Ma, nhưng ngài không nói "tức tâm tức Phật". Như vậy, ngài chỉ
truyền pháp tiệm tu chớ không truyền môn đốn giáo.
- Tào Khê, Hà Trạch sơ e tông viên đốn
diệt mất, nên chê trách việc trụ tâm, dẹp tâm v.v... chỉ vì trừ bịnh không
phải trừ pháp.
Tào Khê chỉ cho Lục Tổ, Hà Trạch chỉ ngài
Thần Hội đệ tử của Lục Tổ. Hai vị sợ tông viên đốn không được truyền bá,
nên mới chê người tu tiệm còn bịnh. Chê như vậy là chủ ý: người muốn đến
chỗ cứu cánh, cần phải nhận ra nơi mình có thể tánh bất sanh bất diệt. Ðó
là dùng thuốc trừ bịnh chớ không phải các ngài nói tiệm tu là sai.
- Huống là, phương tiện này vốn là Ngũ Tổ
đại sư chỉ dạy, mỗi vị đều ấn khả làm thầy một phương. Tổ Ðạt Ma ngồi xoay
vô vách, dạy người an tâm, ngoài dừng các duyên, trong tâm không động, tâm
như tường vách khả dĩ vào đạo, đâu không chính là pháp tọa thiền.
Chẳng phải chỉ có ngài Thần Tú chủ trương
ngồi thiền. Sử ghi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma chín năm ở chùa Thiếu Lâm, ngài ngồi
xoay mặt vào vách. Ngài cũng chủ trương ngồi thiền để điều thân và tâm,
thân không động tâm theo đó an. Ví như có một cơn gió thổi mạnh, chúng ta
thấy bức tường không rung rinh, nhưng tấm màn vải treo lay động theo. Cũng
vậy, khi tâm chúng ta lặng lẽ không bị gió ngoại cảnh làm xao động như bức
tường thì khả dĩ vào đạo. Nếu bị gió ngoại cảnh lay động như bức màn treo
thì chưa vào đạo. Như vậy, ngài Thần Tú chủ trương ngoầi thiền để trụ tâm
đâu có lỗi gì. Vả lại, ngài cũng là một vị được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ấn khả
cho làm thầy ở một phương, đâu phải ngài dạy tu lệch lạc với ý Phật, Tổ.
- Lại, ngài Viễn Công ở Lô Sơn cùng Phật
Ðà Da Xá, hai vị Phạm Tăng dịch hai quyển kinh Thiền của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
trong đó nói phương tiện thứ lớp tọa thiền của thiền môn rất đầy đủ, cùng
đồ đệ Thiên Thai, Trí Săn, Thần Tú ý thú không khác.
Chẳng những ngài Bồ Ðề Ðạt Ma dạy ngồi
thiền mà hai quyển sách của các ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn và Phật Ðà Da Xá
dịch cũng là sách thiền của Tổ Ðạt Ma. Hai quyển kinh này dạy phương pháp
tọa thiền như ngài Thiên Thai, Thần Tú, ý thú không khác. Ðoạn này, hai
chữ "Phạm Tăng" không phải chỉ riêng cho chư Tăng Ấn Ðộ mà chỉ chung cho
những vị Tăng đầy đủ đức hạnh, tâm hồn trong sạch, sống đời phạm hạnh.
- Cho nên, Tổ thứ tư trong vài mươi năm,
hông không dính chiếu. Thế nên biết, tông đốn và không đốn mỗi bên do kiến
giải sâu hay cạn, không phải do hạnh điều cùng không điều mà đoán định
pháp nghĩa. Thiên lệch hay tròn đầy chỉ tại mình tùy bịnh đối trị, không
nên khen đây chê kia.
Tổ thứ tư là Ðạo Tín, trong vài mươi năm
ngồi thiền không nằm. Ngài là Tổ mà còn ngồi thiền như vậy, huống là phàm
phu chúng ta; ngồi thiền không có lỗi mà lỗi do chúng ta chấp cho ngồi
thiền như người chết. Nếu chúng ta không chấp thì càng ngồi càng tỉnh táo,
càng khỏe người thì có lỗi gì? Khi các vị tâm được nhất như, thì ngồi
thiền thân tâm khỏe khoắn, không phải như chúng ta ngồi lâu đau chân, xuất
mồ hôi, xả thiền đi không nổi. Vậy, tu đốn hay tiệm là do kiến giải sâu
hay cạn chớ không phải do ngồi hay không ngồi. Người tu thiên lệch hay
toàn vẹn là tùy chấp hay không chấp, nên tùy theo bịnh dùng thuốc đối trị,
không nên khen đây chê kia, vì khen chê là manh mối của sự cãi vã tranh
chấp.
Học xong, quý vị kiểm lại xem có thực hành
được không? Học mà không hành sẽ không có lợi ích cho sự tu, cũng như ăn
vô mà không tiêu hóa sẽ không bổ dưỡng cho cơ thể. Phật dạy:
- Thanh kiếm trí tuệ không rời tay, đó mới
là chiến sĩ. Một chiến sĩ vào trận mà bỏ kiếm, đi tay không thì bị giặc
bắt liền.
Chúng tôi đã trang bị cho quý vị thanh
kiếm trí tuệ, quý vị hãy mang nó theo bên mình, xử dụng trong cuộc sống
hàng ngày để chiến đấu với ma quân, nếu quý vị hữu sự mà không biết xử
dụng thanh kiếm trí tuệ thì sẽ bị ma quỷ bắt.
Ví dụ: khi lên một chiếc xe đầy khách hết
chỗ ngồi, có một người ngồi trên bắp đùi quý vị, nếu dùng trí Bát nhã quán
chiếu thân này không thật, họ ngồi đau bắp vế một chút không sao! Như vậy
là thanh kiếm trí huệ còn cầm trên tay. Nếu quý vị nổi nóng, hất họ xuống
thì đã bị ma sân dẫn đi rồi.
Nếu quý vị có cửa hàng buôn bán, sáng mở
cửa khách tới mua, món hàng giá một ngàn, họ trả năm trăm rồi bỏ đi. Nếu
quý vị nổi sân cự lại là thanh kiếm đã rơi. Còn thản nhiên bình tĩnh đó là
thanh kiếm vẫn còn trong tay.
Nếu là học trò trong khi học bài chỉ biết
học bài. Khi học bài, phóng tâm đi chỗ khác là bị ma vọng tưởng lôi. Cho
nên người học trò học bài chỉ biết học bài, anh thư ký cộng sổ chỉ biết
cộng sổ, thợ may chỉ biết may, người bán hàng chỉ biết bán hàng v.v...
không để tâm vào việc khác ngoài bổn phận của mình. Ðó là cột tâm vào một
việc, khi đã quen rồi thì lúc ngồi thiền quý vị chỉ biết ngồi thiền.
Nếu quý vị không tập cột tâm cho quen, thì
khi đang ngồi làm việc hay học bài, nghe bên kia có tiếng động, liền quay
lại thấy có bóng người đi ngoài đường liền ngó ra. Như vậy là không làm
chủ được tâm, bị vọng tưởng lôi đi từ chỗ này tới chỗ khác. Quý vị phải
tập điều khiển tâm mình như thầy thuốc Bắc xử dụng tủ thuốc, cần lấy thuốc
ngăn nào thì kéo ngăn đó ra.
Quý vị thấy người thợ may, chăm chú vào
đường kim, mối chỉ, không có một ý nghĩ nào ngoài việc may thì may rất
khéo. Người học trò chỉ biết học bài không suy nghĩ gì khác thì học bài
rất mau thuộc. Chúng ta làm việc gì chỉ biết việc đó, không "lo ra" thì
việc được hoàn hảo và tâm mình cũng an ổn. Như vậy, coi như không tu mà
tu, làm chủ được tâm mình không cho nó chạy đông, chạy tây là đã có tu.
Ða số người có trọng bịnh "lo ra", làm
việc này tâm nghĩ việc khác nên hay bị sai trật, kết quả không tốt. Nếu để
hết tâm trí vào việc làm là quý vị đã tu được trong khi làm việc và việc
làm được thành công tốt đẹp. Trong công việc hàng ngày, quý vị biết tu thì
khi ngồi thiền cũng chỉ biết có ngồi thiền. Nếu không tập như vậy thì khi
làm tâm chạy lung tung, khi ngồi thiền tâm cũng tán loạn, lúc nào cũng
lăng xăng, lộn xộn.
Người Nhật, họ trầm tỉnh hơn người Việt
Nam là do họ biết ứng dụng thiền trong mọi sinh hoạt hàng ngày, như nghệ
thuật uống trà, đấu kiếm v.v... Chúng ta không biết áp dụng thiền cho nên
thân ở đây mà tâm ở tận đâu đâu. Tới giờ ăn thì nghĩ tới việc làm, tới giờ
ngủ thì tính toán sinh kế... tâm luôn luôn bận rộn, không phút nào yên.
Nếu chúng ta làm chủ được tâm thì khi ngủ chỉ biết ngủ, ăn chỉ biết ăn,
làm việc chỉ biết làm việc, chơi chỉ biết chơi... Tập được như vậy là
chúng ta tập làm chủ tâm mình, mà cũng là yếu tố chính để chúng ta thành
công trong mọi lãnh vực.
Ðó là tu trong việc làm, lúc ngồi thiền
vọng tưởng dấy lên, quý vị dùng trí biết là vọng tưởng không theo. Biết
vọng tưởng không theo, vọng tưởng lặng xuống, tâm lặng lẽ đó là định. Ðịnh
huệ đầy đủ trong khi tu, nếu gặp những duyên sự gì làm bận lòng, quý vị
dùng trí Bát nhã quán chiếu thân tâm và cảnh không thật, tập buông xả hết
thì tâm được an ổn. Như vậy, ngoài dùng kiếm Bát nhã để dứt các duyên,
trong tâm không theo vọng niệm, tu trong bốn oai nghi: đứng, đi, ngồi, nằm
chứ không nên một ngày tu hai ngày nghỉ thì sự tu không viên mãn, đời này
bê trễ biếng nhác, biết đời nào xong.
Tóm lại, quý vị cần nhớ ba điểm quan trọng
để thực hành:
1.- Giữ thanh kiếm trí tuệ không cho rời
tay.
2.- Áp dụng thiền trong mọi sinh hoạt hàng
ngày.
3.- Ứng dụng trí biết vọng tưởng trong lúc
ngồi thiền.
Sau đây, tôi nói hơi xa đề một chút. Theo
tôi nhận thấy pháp tu thiền rất có lợi ích cho quốc gia. Tại sao vậy? Vì
pháp tu rất ảnh hưởng đến tư tưởng và đời sống của con người. Ngày xưa,
nước Việt Nam bị lệ thuộc ngoại quốc, nên mất chủ quyền, con người cũng
mất tự tin; mất tự tin thì pháp tu nào trông cậy vào tha lực là phù hợp
với quần chúng. Hiện nay phong trào quần chúng đang hướng về pháp tu
thiền. Lòng tự tin rất cần thiết cho người tu thiền, khi đã tin chắc mình
có khả năng thành Phật thì mới khắc phục được những phiền não nghiệp
chướng và lý tưởng tu hành không có gì làm lay động. Tự tín cũng cũng là
một yếu tố làm cho một quốc gia hùng cường. Vì có tự tín con người mới gan
dạ vượt qua hết mọi khó khăn và dồn hết mọi khả năng của mình đóng góp vào
việc xây dựng đất nước. Cho nên ở Trung Hoa vào đời Ðường, Thiền tông rất
hưng thạnh, lúc đó đất nước Trung Hoa cũng hưng thạnh về mọi mặt như văn
hóa, xã hội, đạo đức v.v... Ở Việt Nam đời Lý, Trần, Phật giáo thiền tông
thịnh hành thì đất nước Việt Nam cũng giàu mạnh. Thời gian qua, Nhật Bổn
duy trì pháp tu thiền nên Nhật Bổn độc lập, có chủ quyền. Tâm hồn người
dân Việt rất tự chủ, rất giàu mạnh. Việt Nam hơn một trăm năm Thiền tông
bị chìm trong quên lãng, nên con người trở nên yếu đuối, việc gì cũng
trông cậy ở bên ngoài. Chúng ta áp dụng lại phương pháp tu thiền thì chúng
ta sẽ có tự tín, mà có tự tín là tâm hồn con người trở nên mạnh mẽ, tự
lập, đó là yếu tố làm cho quốc gia hùng cường. Hơn nữa nếu mỗi người dân
là một Phật tử biết tu thiền, biết áp dụng thiền trong mỗi lãnh vực sinh
hoạt hàng ngày thì mọi việc làm đều tinh xảo và thành công tốt đẹp. Như
vậy, họ đã đóng góp rất nhiều cho xứ sở và nhờ đó quốc gia trở nên giàu
mạnh.
Hơn nữa, Thiền là lối tu bao dung tất cả
pháp tu khác, không phân hóa, không chia rẻ đố kỵ, người niệm Chúa, người
niệm Phật, người trì chú đều là dùng phương tiện để hàng phục vọng tưởng.
Dưới cái nhìn của một người tu thiền, tất cả những vị tu theo các tôn giáo
bạn và những tông phái khác đều là anh em thân thiết với nhau, không có gì
ngăn cách. Cho nên ở đây (tu viện Chơn Không), lớp học của chúng tôi có
một vi Linh mục đến học, tôi với người xử với nhau rất thâm tình, không bị
ngăn cách bởi lớp áo bên ngoài, bởi danh từ Chúa, Phật. Vì tất cả đều là
giả danh, giả tướng, phương tiện tuy nhiều nhưng cứu cánh không hai. Ở đời
Trần, thiền tông bao dung cả Khổng và Lão gọi là Tam giáo đồng nguyên.
Tóm lại, phong trào quần chúng thích tu
thiền càng ngày càng phát triển, tôi thấy đó là một cơ duyên tốt cho Phật
giáo và quốc gia.
2.- Giáo mật ý phá tướng hiển tánh: Ðây
nói: Cảnh biến ra trong giáo trước, đã là hư vọng thì thức hay biến đâu
thể riêng chơn thật? Tâm cảnh đều nương nhau, nói không in tuồng có vậy.
"Mật ý phá tướng hiển tánh" đức Phật có
cái thầm ý muốn phá tất cả tướng chúng sanh đang mê chấp, để cho họ không
còn kẹt nơi tướng mà thấy được bản tánh thanh tịnh.
Mở đầu giáo này nói rằng: như giáo trước
(giáo đem thức phá cảnh) nói thân cảnh đều do thức biến, giả dối không
thật. Giáo này nói thêm, không những cảnh ngoài do thức biến là hư vọng mà
cái thức hay biến ấy cũng hư vọng luôn. Như quý vị thấy một chai dầu, một
ly nước v.v... chai dầu, ly nước do con người làm ra, trước khi làm ra
phải dụng tâm để suy nghĩ. Tất cả mọi sự vật có hình tướng, có tên gọi đều
do tư tưởng của con người suy tính, sắp đặt, chế biến mà thành. Sự vật
được làm ra, chúng ta biết nó không thật, tâm hay suy nghĩ tính toán để
làm ra sự vật cũng không thật. Quý vị thấy những sự vật được chế tạo ra
đều do duyên hợp thì chính cái tâm suy nghĩ để chế tạo ra sự vật cũng do
duyên hợp.
Cho nên ở đây nói "Tâm cảnh nương nhau,
nói không in tuồng có vậy". Nói "Không" là căn cứ trên tánh, nói "In tuồng
có" là nhìn trên giả tướng duyên hợp không thật.
- Vả lại, tâm không riêng khởi, nương cảnh
mới sanh, cảnh không tự sanh, do tâm nên hiện. Tâm không tức cảnh mất,
cảnh mất tức tâm không, chưa từng có tâm mà không cảnh, chưa từng có cảnh
mà không tâm. Như mộng thấy vật hình như có, khác biệt giữa người hay thấy
và vật bị thấy, kỳ thật đồng một hư vọng, trọn không thể có.
Tâm không riêng khởi, phải có cảnh tâm mới
khởi. Nếu cảnh mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thì không thể nghĩ
tưởng được. Ví dụ tôi vừa thấy bình hoa, bình hoa được cất không còn để
trước mặt tôi, nhưng tôi vẫn hình dung được hình ảnh bình hoa nơi tâm. Sở
dĩ hình ảnh bình hoa hiện ra nơi tâm là do tâm gá vào cảnh (bình hoa), nếu
không nương gá thì hình ảnh bình hoa không khởi lên nơi tâm. Cảnh không tự
sanh mà do tâm hiện. Cái bình hoa có ra là do tâm chúng ta muốn có bình
hoa để trên bàn cho đẹp mắt, nên đi cắt hoa cắm vào bình. Nếu tâm không
điều khiển thì hoa vẫn ở ngoài vườn chứ tự nó không đi vào trong bình
được. Ðó là chuyện trước mắt quý vị có thể tin được. Còn chuyện xa xôi như
nói quả núi do tâm hiện, chắc chắn quý vị không tin. Trong kinh Phật dạy:
Y báo (cảnh), Chánh báo (thân) của chúng sanh đều do nghiệp thành. Nếu
chúng ta chưa có mắt trí tuệ thì không thể tin được. Như cái nhà hiện có
là do tâm chúng ta phác họa ra, rồi thợ hồ, thợ mộc cùng với vật liệu hợp
lại tạo thành. Ðó là do nghiệp hiện tại, chúng ta dễ tin. Còn quả địa cầu,
núi, sông, biển, chúng ta ra đời đã thấy có rồi, thì khó tin là do nghiệp
của chúng ta tạo ra. Nhưng xét theo lý nhân quả thì nghiệp đâu phải chỉ có
một đời mà có từ vô lượng kiếp. Bởi vô lượng kiếp xa xưa, chúng sanh tạo
ra những nghiệp tương tợ, nên mới đồng sanh trong cảnh tương tợ. Chúng ta
sống chung trong một ngôi nhà hay một làng xã, nói rộng ra là một quốc
gia, đó là do cộng nghiệp với nhau chứ không phải ngẫu nhiên. Nhưng trong
Cộng nghiệp còn có Biệt nghiệp (học kinh Lăng Nghiêm sẽ hiểu rõ hơn). Ví
dụ người nằm mộng thấy cảnh núi sông, người ấy tưởng như cảnh bị thấy khác
với mình. Nhưng khi thức giấc thì biết do mộng nên có cảnh núi sông... kỳ
thật đó là hư vọng.
- Các thức, các cảnh cũng như thế, đều gá
nương các duyên, không tự tánh. Chưa từng có một pháp không phải từ nhân
duyên sanh, thế nên tất cả pháp đều là Không. "Phàm có tướng đều là hư
vọng" (kinh Kim Cang).
Thức là tâm thức, cảnh là ngoại cảnh đều
không thật, nương nhau mà có, tự tánh là không, cái Không này là chỉ cho
các pháp không cố định, chứ không phải là giả tướng không. Muốn thấu suốt,
chúng ta phải học kỹ kinh Bát Nhã và ứng dụng trí Bát Nhã để quán chiếu,
phân tích thì thấy rõ. Ví dụ cái bàn nhìn trên giả tướng, chúng ta thấy có
cái bàn. Nhưng thật ra do nhiều duyên như gỗ, đinh, công thợ v.v... hợp
lại mới thành cái bàn. Gỗ có phải là cái bàn không? - Không. Nếu chỉ có gỗ
mà thiếu đinh, công thợ... thì không thành cái bàn được. Nên nói tự tánh
là không, do duyên hợp giả có. Các pháp đều do nhân duyên sanh, đủ nhơn,
đủ duyên thì thành, thiếu nhơn, thiếu duyên thì hoại. Lý duyên khởi là
giáo lý căn bản của Phật giáo, do đức Phật tu chứng rồi nói ra cho chúng
ta biết. Nếu thấu suốt được lý nhân duyên thì chúng ta hết mê lầm chấp
trước. Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng, giả dối không thật. Biết
như vậy thì còn cái gì bám vào để chấp trước.
Dưới đây là một tràng phủ định của kinh
Bát Nhã. Nếu chúng ta không thấu suốt lý này thì sẽ hoang mang vô cùng.
- Thế nên trong "Không": không sắc, không
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không mười tám giới, không mười hai nhân
duyên, không Tứ đế, không trí cũng không đắc, không nghiệp, không báo,
không tu, không chứng; sanh tử và Niết bàn bình đẳng như huyễn.
Khi hiểu được chữ Không của Bát Nhã thì
đọc đoạn này chúng ta không ngại, nếu không hiểu, thấy kinh Phật nói sao
mâu thuẫn, rồi nghi vấn tại sao đức Phật dạy :"Con người sanh ra là do
nghiệp", nhưng kinh này lại nói không nghiệp, không báo, không tu, không
chứng? - Nói có nghiệp là đứng trên sự tướng, còn nói không nghiệp v.v..
là đứng trên thể thánh. Ví dụ A dùng lời nói thô tục chọc tức B, B giận và
chửi lại. A nghe chửi liền dùng trí Bát nhã phân tích : Lời nói là do lưỡi
động, hơi phát ra thành tiếng chạm vào lỗ tai, đó là một luồng khí biến
động sanh diệt không thực. Do đó khi bị chửi, A không thấy mình là người
bị chửi, tiếng chửi của B đối với A không thành vấn đề nên xem như không
nghiệp, không báo.
Tinh thần của Phật giáo Ðại thừa và Nhị
Thừa khác nhau ở chỗ đó. Kinh A Hàm nói có nghiệp báo. Chính đức Phật còn
bị quả báo "Kim thương mã mạch" (bị cây thương chích lên bắp đùi và ăn lúa
mạch của ngựa), chúng ta phàm phu còn chấp, cái gì cũng cho là thật nên
xem như đức Phật bị quả báo. Ðối với đức Phật, thấy thân, cảnh như huyễn,
thì coi như trả mà không trả. Chúng ta phải hiểu kỹ chỗ này, nếu không sẽ
bị rơi vào hai cực "Thật có nghiệp báo" và"Thật không nghiệp báo", rồi mất
niềm tin đối với Phật pháp và không nỗ lực tu hành.
Nếu rơi vào kiến chấp "Thật có nghiệp báo"
thì nghi tu mong thoát nghiệp chứng quả như đức Phật, nhưng đắc A La Hán
thần thông đệ nhất như ngài Mục Kiền Liên vẫn không tránh khỏi nghiệp thì
tu làm gì?
Nếu rơi vào kiến chấp "Thật không nghiệp
báo" thì cũng không chịu tu, lại càng dễ đọa lạc hơn. Trong sử của ngài Bá
Trượng có kể câu chuyện nói về "Bất lạc nhân quả" và "Bất muội nhân quả":
Một hôm, Tổ Bá Trượng thượng đường giảng
pháp xong, chúng giải tán hết, có một ông già đứng mãi ngoài cửa không
chịu đi, Tổ hỏi:
-
Tại sao chúng giải tán hết mà ông còn đứng đó?
Ông già thưa:
-
Con không phải là người, thời quá khứ con làm một vị phạm Tăng tu ở
núi này. Một hôm có người hỏi: "Phàm là bậc đại tu hành có rơi vào nhân
quả không?" Con đáp: "Chẳng rơi vào nhân quả" (Bất lạc nhân quả). Do đó
con bị đọa làm thân chồn đã năm trăm kiếp. Nay xin Hòa thượng từ bi nói
cho một chuyển ngữ để con được thoát kiếp súc sanh.
Tổ bảo:
- Ông hỏi đi.
Ông già thưa:
-
Phàm bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?
Tổ đáp:
-
Chẳng lầm nhân quả (Bất muội nhân quả).
Ngay câu nói ấy, ông già đại ngộ, làm lễ
thưa:
- Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi
này, trong kẹt đá, ngày mai xin Hòa thượng khều xác con ra và cúi xin Hòa
thượng từ bi táng xác con theo lễ táng của một vị Tăng.
Thọ trai xong, Tổ dẫn chúng Tăng đến kẹt
đá sau núi, quả thật có một xác chồn vừa chết.
Chúng ta thấy, vì không hiểu lý nhân quả
nên đáp lầm một câu hỏi, vị Tăng ấy phải đọa làm thân chồn mấy trăm kiếp.
Tôi xin nhắc lại: với tinh thần Phật giáo Nhị thừa khẳng định có nghiệp
báo là đứng trên sự tướng. Còn tinh thần Phật giáo Ðại thừa thì đứng trên
thể tánh nói không nghiệp báo. Nghĩa là đã gây nghiệp thì phải trả báo,
nhưng dùng trí Bát nhã nhìn tất cả tướng đều như huyễn hóa nên tuy có trả
nghiệp là huyễn trả chứ không phải thật trả.
Cho đến "Sanh tử và Niết bàn đều bình đẳng
như huyễn". Nghĩa là khi còn mê lầm thì chúng ta có sanh tử thật, nên đức
Phật dạy cho chúng ta phương pháp tu để dứt khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn.
Khi còn sanh tử khổ đau thì thấy Niết bàn là an lạc, vì Niết bàn đối với
sanh tử mà lập. Nhưng dùng trí Bát nhã thấy sanh tử không thật, thì Niết
bàn cũng như huyễn. Chúng ta thấy có khổ thật nên mong cầu được vui, sở dĩ
mong cầu được vui vì cho cái vui là thật. Còn người đối với khổ vui không
bận lòng, an nhiên tự tại, không cần Niết Bàn mà Niết bàn hiện tiền. Ví dụ
có người bị thân bịnh đau đớn rên rỉ, khi gặp được thầy thuốc, uống thuốc
hết bịnh, người ấy vui vẻ sung sướng, đó là khổ vui trong vòng đối đãi.
Cũng có người bị thân bịnh, họ biết thân này là tứ đại duyên hợp như
huyễn, thân bịnh là do tứ đại không điều hòa. Tuy thân đau mà họ không
thấy buồn khổ, và khi hết bịnh thì biết hết bịnh cũng không mừng, đó là
người thoát khỏi vòng đối đãi, sống an nhiên tự tại.
- Chỉ do không trụ tất cả, không chấp
trước mà hành đạo. Các bộ kinh Bát nhã hơn một ngàn quyển và Trung Luận,
Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, Quảng Bích Luận...đều nói lý này.
Hành đạo ở đây theo tinh thần thiền là sáu
căn tiếp xúc với sáu trần không dính mắc, không kẹt trong vòng đối đãi có
không, phải quấy, tốt xấu v.v... chỉ do điều phục tâm không chạy theo
cảnh, trên hình tướng thì không thấy có hành gì cả. Còn hành đạo theo các
tu sĩ thời đại là phải rày đây mai đó, đổi cảnh thay người, làm đủ thứ
Phật sự như giáo hóa độ sanh, làm việc xã hội từ thiện, hoặc cầu an, cầu
siêu v.v... trên sự tướng thấy được việc làm mới là hành đạo. Cách hành
đạo trước là vận dụng trí Bát nhã thấy tất cả như huyễn nên tâm không
chấp, thuộc về nội tâm vi tế, tuy có hành mà khó thấy, nên nói hành mà
không hành. Cách hành đạo sau thuộc về thân và miệng, bộc phát ra hành
động, dễ thấy và dễ làm hơn.
Kinh Bát nhã nói: "Tất cả các pháp lành
đều nhiếp vào Bát nhã Ba la mật sâu thẳm", nghĩa là nếu chúng ta sống được
với trí Bát nhã thì coi tất cả mọi người như nhau, ai khổ thì giúp, ai mê
thì gọi cho tỉnh, tâm không mong cầu đền đáp nên làm việc được viên mãn.
Còn nếu chưa sống được với trí Bát nhã, tuy có làm Phật sự trên hình tướng
nhưng làm một lúc không sao tránh kbỏi sự thiên chấp thân sơ, thương ghét
v.v... nên việc làm không viên mãn.
Các bộ kinh Bát nhã, Trung Luận v.v... đều
nói lý phá tướng hiển tánh.
- Giáo này cùng với "Tông dứt bặt không
nương" của thiền môn hoàn toàn đồng. Ðã đồng lời dạy của Thế Tôn, chỗ
hoằng truyền của Bồ tát, tại sao thiền chủ môn tiệm và đồ đệ những nhà
giảng kinh mỗi khi nghe thuyết này liền chê rằng: "Bác không nhân quả".
Phật tự nói: "Không nghiệp", "Không báo" đâu thể nói là tà kiến.
Ngài Khuê Phong đối chiếu giáo "Phá tướng
hiển tánh" phù hợp với tông "Dứt bặt không nương" của Thiền tông để chứng
minh cho người sau thấy chủ trương của Thiền tông không khác với lời dạy
của đức Phật, và cũng giải thích cho những người trọng giáo khinh thiền,
cho rằng các thiền sư "Bác không nhân quả".
- Nếu bảo Phật nói lời này tự có thâm ý,
thì thiền môn nói lời này không thâm ý sao? Nếu bảo tôi từng suy gẫm biết
không có thâm ý thì chính ông là kẻ không hiểu. Nhưng người có thể trách,
chớ không thể bài xích pháp.
Ðức Phật nói "Không nghiệp, không báo,
không tu, không chứng v.v... là thầm ý phá tướng để hiển tánh". Các thiền
sư nói cũng có thâm ý muốn cho người tu không còn chỗ bám, để nhận ra bản
tánh bất sanh bất diệt. Người sau không nên vội cho rằng đó là tà kiến, là
"quái thai" của Phật giáo. Người chưa đối chiếu ý kinh với chỗ hoằng
truyền của các thiền sư, cho rằng các ngài nói như vậy không có thâm ý gì.
Ðó là lời nói bừa bãi của kẻ không hiểu chớ không phải là lời phê phán
chân chính. Hơn nữa, người có nhiều tình chấp thì có thể chê trách, chứ
"Pháp" thì không nên bài xích. Nếu chúng ta chưa thông lý sự mà phát ngôn
bừa bãi, bài xích pháp thì e rằng không tránh khỏi tội hủy báng chánh
pháp. Một khi đã phạm lỗi hủy báng chánh pháp thì đời đời kiếp kiếp dù có
tu, chúng ta cũng khó gặp được chánh pháp. Phải nên cẩn thận!
- Hai giáo trên đây căn cứ bản ý của Phật
tuy không trái nhau, nhưng kẻ hậu học truyền bá phần nhiều chấp văn mê ý
chỉ, hoặc mỗi bên chấp một chỗ thấy, rồi kia đây bài bác nhau, hoặc cả hai
bên đều tin bừa, hỗn độn không hiểu. Thế nên Bồ tát Long Thọ, Ðề Bà... y
giáo phá tướng nói rộng nghĩa "không", phá chấp "hữu" để hiểu suốt chơn
không. Chơn không là cái không chẳng trái với hữu. Bồ tát Vô Trước, Thế
Thân... y giáo Duy Thức nói rộng danh tướng, phân tích tánh tướng không
đồng, nhiễm tịnh sai biệt, phá chấp không kia để hiển rõ diệu hữu. Diệu
hữu là hữu chẳng trái với không.
Hai giáo Bát Nhã và Duy Thức đều căn cứ
vào bản ý của đức Phật, tuy Duy Thức nói Có; Bát nhã nói Không mà không
trái nhau. Người sau phần nhiều chấp văn tự, quên bản ý của đức Phật nói
Không nói Có để hiển bày lý "Chơn không diệu hữu". Hoặc mỗi người chấp
theo cái thấy thiên lệch của mình rồi bài bác lẫn nhau, hoặc cả hai đều
không hiểu rồi tin bừa. Ðó là hai cái bệnh của người học Phật. Một là chấp
văn tự rồi hiểu theo cái thấy thiên lệch nông cạn của mình và cho cái thấy
của kẻ khác là sai. Hai là nghe sao tin vậy, nghe kinh nói Có tin có, nghe
nói Không tin thật không, hoặc nghe người nói rồi tin theo, không chịu
nghiên cứu cho sâu cho kỹ. Ví dụ nghe người đồn "Tu thiền điên", Phật tử
liền tin, không dám tu thiền. Ðó là nghe nói rồi tin, nói theo, chứ không
chịu nghiên cứu kỹ xem tu thiền như thế nào là điên, tu thiền như thế nào
là hợp với chánh pháp của Phật và có lợi ích, được giải thoát. Hoặc nghe
kinh Bát nhã nói "Tánh không", không hiểu lý kinh cho rằng Bát nhã nói cái
gì cũng không: không chứng, không đắc v.v... rồi buông lung phóng túng
không chịu tu, đó là tai họa.
Ðể phá hai căn bịnh chấp Không và Có của
người học Phật, nên ngài Long Thọ và Ðề Bà căn cứ vào giáo phá tướng (kinh
Bát nhã) nói rộng nghĩa không để phá bịnh chấp Có. Ngài Vô Trước và Thế
Thân y giáo Duy Thức nói rộng danh tướng v.v... hiển bày lý diệu hữu để
phá bịnh chấp Không. Do đó, Phật giáo có hai tông là Không tông và Tướng
tông. Không tông là tông Bát nhã, Tướng tông là tông Duy Thức, còn gọi là
Hữu tông.
Hữu tông phá chấp Không của phàm phu nên
nói các pháp do huyễn hợp nên có hình tướng, như hư giả. Duy Thức tuy
không nói tánh Không, chỉ phân biệt giả tướng nhưng chủ ý cũng muốn cho
người nhận ra bản tánh các pháp là không. Ví dụ cái bàn, Duy Thức phân
tích là do gỗ, đinh, thợ mộc, cưa, đục v.v... hợp lại giả có, không thật
nên tự tánh là không. Nói diệu hữu nhưng rốt là hiển bày lý chơn không.
Không tông nói các pháp tự tánh không,
không phân tích như Duy Thức, nhưng ngầm ý nói do nhân duyên sanh giả có.
Trên văn tự chúng ta thấy có khác, Hữu tông nói Có, Không tông nói Không,
Nhưng trên chỗ dung hội thì tuy hai mà một. Nói có cũng để rõ nghĩa duyên
hợp, nói không cũng hiển bày nghĩa duyên hợp.
Hiểu thấu suốt rồi, chúng ta thấy giáo lý
của Phật không mâu thuẫn. Nói Không thì chỉ biết cái không của Diệu hữu,
nói Có thì biết chỉ cái Diệu hữu của chơn không, không nghi ngờ.
* |