ĐOẠN 2
CHÁNH VĂN:
Hỏi:
Phật độ chúng sanh chăng?
Đáp:
Thật không chúng sanh Như Lai độ, ngã còn không
thể có, phi ngã làm sao có? Phật cùng chúng sanh đều
không thể có.
Hỏi:
Hiện có ba mươi hai tướng và độ chúng
sanh, làm sao nói không?
Đáp: Phàm có tướng
đều là hư vọng, nếu thấy các tướng
phi tướng là thấy Như Lai. Phật cùng chúng sanh đều
do ông khởi vọng kiến, chỉ vì không biết
bản tâm, dối khởi thấy biết, vừa
khởi thấy Phật liền bị Phật chướng,
vừa khởi thấy chúng sanh liền bị chúng sanh chướng,
khởi thấy phàm, thánh, tịnh, uế… thì cái thấy
thành những chướng ấy. Vì chướng tâm ông
trọn thành luân hồi, ví như con khỉ chân này buông,
chân kia nắm, không khi nào dứt. Nhất đẳng là
học, cần phải không học, không phàm không thánh,
không sạch không nhơ, không nhỏ không lớn, vô
lậu vô vi. Như thế trong một tâm, phương
tiện khuyên trang nghiêm. Dù ông học được ba
thừa mười hai phần giáo, tất cả cái
thấy biết thảy nên dẹp bỏ, nên nói “dẹp bỏ sở hữu,
chỉ để một giường nghỉ bệnh mà
nằm”.
Chỉ là không khởi các kiến
chấp, không một pháp có thể được, không
bị pháp chướng, vượt khỏi tam giới và
cảnh vức phàm thánh mới được gọi là
Phật xuất thế. Nên nói “đảnh
lễ như hư không chẳng chỗ nương, vượt
hơn ngoại đạo, tâm đã chẳng khác, pháp
cũng chẳng khác, tâm đã vô vi, pháp cũng vô vi”.
Muôn pháp trọn do tâm biến nên nói: “tâm ta không, nên các pháp không, ngàn phẩm muôn loại
thảy đều đồng. Tột không pháp giới mười
phương đồng một tâm thể”. Tâm vốn
không khác, pháp cũng không khác. Chỉ vì ông thấy biết
chẳng đồng nên có sai biệt. Ví như chư thiên
đồng bát ăn bằng bảy báu, mà tùy phước
đức mỗi vị, cơm có màu sắc khác. Mười
phương chư Phật thật không có một chút pháp
khá được gọi là A Nậu Bồ Đề.
Chỉ là một tâm, thật không có tướng khác,
cũng không ánh sáng, không có hơn thua. Vì không hơn nên không
tướng Phật. Vì không thua nên không tướng chúng
sanh.
GIẢNG:
Hỏi: Phật độ chúng sanh chăng? Câu này nghe
rất thường. Nếu hỏi chúng ta thì mình đáp
thế nào? Phật thành Phật rồi bốn mươi
chín năm đi giáo hóa khắp nơi, để lại
ba tạng kinh điển, độ vô lượng chúng sanh.
Nhưng ở đây ngài không trả lời như
vậy.
Đáp: Thật không chúng sanh Như Lai độ, ngã còn
không thể có, phi ngã làm sao có? Thật không chúng sanh Như
Lai độ, tại sao? Vì Như Lai là Phật, Phật
không thấy có mình thật là ngã. Ngã còn không thấy
huống là phi ngã tức chúng sanh làm sao có. Như vậy chư
Phật làm tất cả mà không thấy có gì để
làm. Vì Phật không thấy có ngã, không thấy có ngã thì không
thấy chúng sanh. Như vậy Ngài độ hay không độ?
Dường như là không độ, không độ mà
không phải không độ. Tại sao? Vì không ngã, không
chúng sanh, không thọ giả thì lấy gì mà độ, nhưng
Ngài chỉ cho mọi người biết cái không ngã, không
nhân đó, nên gọi là độ.
Phật cùng
chúng sanh đều không thể có. Đứng trên chân
lý, trên lẽ thật thì Phật và chúng sanh đều
không thật có.
Phàm có tướng
đều là hư vọng, nếu thấy các tướng
phi tướng là thấy Như Lai. Ở đây
dẫn kinh Kim Cang “phàm sở
hữu tướng giai thị hư vọng, nhược
kiến chư tướng, phi tướng tức
kiến Như Lai”. Chư Phật phá được
ngã chấp về thân, ngã chấp về tâm cho nên các Ngài
không còn ngã. Nếu nói Ngài độ chúng sanh thì còn thấy
mình là người hay độ, chúng sanh là kẻ bị độ
nên còn ngã còn nhân. Phật không còn ngã nhân thì Ngài nói độ
hay không độ? Độ tất cả mà không độ
người nào hết. Cho nên nói: “thật không chúng sanh Như Lai độ. Tại
sao? Ngã còn không thể có, phi ngã làm sao có”. Ngã là mình, mình đã
không thật thì người làm sao thật mà nói độ.
“Phàm có tướng đều
hư vọng, nếu thấy các tướng phi tướng
là thấy Như Lai”, thấy tất cả tướng
đều không thật, đó là thấy được
Phật.
Phật cùng
chúng sanh đều do ông khởi vọng kiến, chỉ
vì không biết bản tâm, đối khởi thấy
biết, vừa khởi thấy Phật liền bị
Phật chướng, vừa khởi thấy chúng sanh
liền bị chúng sanh chướng, khởi thấy phàm,
thánh, tịnh, uế… thì các cái thấy thành những chướng
ấy. Vì chướng tâm ông trọn thành luân hồi, ví như
con khỉ chân này buông, chân kia nắm, không khi nào dứt.
Nhất đẳng là học, cần phải không
học, không phàm không thánh, không sạch không nhơ, không
nhỏ không lớn, vô lậu vô vi. Như thế trong
một tâm, phương tiện khuyên trang nghiêm. Dù ông
học được ba thừa mười hai phần
giáo, tất cả cái thấy biết thảy nên dẹp
bỏ, nên nói “dẹp bỏ sở hữu, chỉ để
một giường nghỉ bệnh mà nằm”.
Đoạn này nói tất cả chấp đều
là vọng kiến, đã là vọng kiến thì không bao
giờ thấy được tâm Phật. Không thấy
tâm Phật làm sao gọi là Phật. Vì vậy phải
chừa bỏ tất cả vọng kiến. Nếu
chấp có Phật thật liền bị chướng
về Phật, nếu chấp chúng sanh liền bị chướng
về chúng sanh, cho tới khởi cái chấp nào cũng
bị chướng hết, vì tất cả các pháp đều
hư dối không thật. Càng bị chướng chúng ta
càng chìm sâu trong luân hồi, như con khỉ buông chân này
nắm chân kia không bao giờ dừng.
Nhất đẳng
là học, cần phải không học, câu này ý gì? Thường
thường trong nhà Thiền hay nói bậc nhất đẳng
là bậc thông minh, học giỏi, là cấp trên hết.
Nhưng nhà Phật dạy không học. Không học
tại sao nghe kinh, nghe kinh là có học. Ở đây
học mà không học. Học cái gì? Học buông. Học
buông sao gọi là học. Ngoài đời học là đem
vô, thu thập nhiều thi cử mới đậu. Người
tu không như thế, ở thiền viện không có thi
cử, chỉ xem người nào phiền não còn nhiều
hay ít thôi. Ai phiền não ít thì cho làm Phật sự, ai còn
nhiều thì thôi. Ở đây cho đi làm Phật sự
không do bằng cấp, học vị cao, mà
chỉ là buông giỏi. Người nào buông giỏi thì cho
làm Phật sự, người buông không giỏi thì chưa
cho làm. Vậy thôi.
Chúng ta tu là buông bỏ tất cả
niệm sanh diệt, những phân biệt phải quấy
hơn thua. Nếu ai chưa chịu buông mấy thứ đó,
thì dù học giỏi tới đâu cũng chưa phải
người giỏi. Cho nên ở đây nói: Nhất đẳng là học,
cần phải không học, không phàm không thánh, không
sạch không nhơ, không nhỏ không lớn, vô lậu vô
vi, tức là chỗ chân thật không có tất cả đối
đãi.
Như thế
trong một tâm, phương tiện khuyên trang nghiêm.
Tức là tâm chân thật phương tiện nói trang
nghiêm.
Dù ông học được
ba thừa mười hai phần giáo, tất cả cái
thấy biết thảy nên dẹp bỏ, nên nói “dẹp
bỏ sở hữu, chỉ để một giường
nghỉ bệnh mà nằm”. Dẹp hết tất
cả sự nghiệp của cải, chỉ để
một giường nghỉ bệnh ở giữa nhà
thôi. Đó là để chỉ cho tất cả kiến
thức lượm lặt được bên ngoài
phải buông hết, chỉ an trú
chỗ chân thật.
Chỉ là không
khởi các kiến chấp, không một pháp có thể được,
không bị pháp chướng, vượt khỏi tam
giới và cảnh vức phàm thánh mới được
gọi là Phật xuất thế. Chừng nào thấy
Phật xuất thế? Chừng nào không khởi tất
cả kiến chấp, không một pháp thật, không
cảnh giới nào thật mới ra khỏi tam giới,
ra khỏi các cảnh phàm thánh. Tới chỗ ấy
mới gọi là Phật ra đời.
Nên nói “đảnh
lễ như hư không chẳng chỗ nương, vượt
hơn ngoại đạo, tâm đã chẳng khác, pháp
cũng chẳng khác, tâm đã vô vi, pháp cũng vô vi”.
Ngài dẫn kinh nói đảnh lễ như hư không
chẳng chỗ nương, vượt hơn ngoại đạo,
tức là Phật pháp thân không có tướng mạo nên nói
như hư không. Pháp thân chân thật đó không có
ngoại đạo nào đuổi theo kịp, so sánh được.
“Tâm đã
chẳng khác, pháp cũng chẳng khác, tâm đã vô vi, pháp
cũng vô vi”, tâm không dấy một niệm nào thì
tất cả pháp cũng như, nên tâm như thì pháp như,
tâm vô vi thì pháp vô vi. Tất cả pháp từ tâm sanh, là
chỗ đó. Tâm sanh diệt thì pháp cũng sanh diệt.
Cho nên nói tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt.
Muôn pháp trọn
do tâm biến nên nói: “tâm ta không, nên các pháp không, ngàn phẩm
muôn loại thảy đều đồng. Tột không
pháp giới mười phương đồng một
tâm thể”. Nói “Tâm ta không,
nên các pháp không”, chắc nhiều người nghi. Tâm
không thì chùa chiền cây cối có không chăng? Không sao được,
người ta lạy Phật, người ta viếng
chùa, cảnh vật rõ ràng mà nói không! Vậy tâm không, pháp
cũng không là không với ai? Tâm không thì pháp cũng không
với mình, chớ không phải không với tất cả
người khác. Tâm rỗng không nên không thấy mình
thật, cảnh thật, nhưng người khác tâm có
thì thấy chùa thật cảnh thật, đâu thấy
không như mình. Cho nên tâm mình không thì pháp không với mình,
còn tâm người khác chưa không thì pháp cũng chưa
không với họ. Đừng nghĩ mình thấy không
rồi ai cũng thấy không hết. Không phải
vậy, hai chỗ khác nhau.
Cũng thế, chúng ta tu nghe ai nói lời
nặng nhẹ, mình coi thường bỏ qua, nhưng người
chưa tu bị kẻ khác nói nặng nhẹ thì họ
không bỏ qua được. Như vậy người
tu không chấp hơn thua phải quấy, lời nói
nặng nhẹ với mình cũng không chấp. Người
chưa biết tu còn cố chấp, tiếng nói nặng
nhẹ hơn thua đối với họ là nguyên vẹn
đầy đủ. Vì vậy hễ còn chấp là còn có,
khi nào xả hết chấp thì mới không. Không với người
hết chấp, chớ đừng nói không với tất
cả. Vì vậy nói rằng “tâm
đã chẳng khác, pháp cũng chẳng khác, tâm đã vô vi
pháp cũng vô vi”, tâm như là pháp như.
Muôn pháp trọn
do tâm biến nên nói: “tâm ta không, nên các pháp không, ngàn phẩm
muôn loại thảy đều đồng. Tột không
pháp giới mười phương đồng một
tâm thể”. Tức là tâm không còn dính dáng, không còn
chấp nê thì tất cả muôn thứ cũng đều
không dính dáng, cho tới cả mười phương
thế giới chỉ thấy có một tâm thể thôi.
Tâm vốn không
khác, pháp cũng không khác. Chỉ vì ông thấy biết
chẳng đồng nên có sai biệt. Ví như chư thiên
đồng bát ăn bằng bảy báu, mà tùy phước
đức mỗi vị, cơm có màu sắc khác. Trong
kinh thường kể, chư thiên cũng đều
một bát báu, khi tới giờ ăn, vị phước
nhiều thì thức ăn ngon, vị phước
ít thức ăn dở. Đó là do công đức riêng tư,
chớ không cố định.
Mười phương
chư Phật thật không có một chút pháp khác được
gọi là A Nậu Bồ Đề. Chỉ là một tâm,
thật không có tướng khác, cũng không ánh sáng, không có
hơn thua. Vì không hơn nên không tướng Phật. Vì
không thua nên không tướng chúng sanh. Tất cả
chúng sanh, tất cả chư Phật đều đồng
một tâm thể. Đồng tâm thể như nhau,
chớ không phải một. Như lẳng hoa trên bàn chúng
ta đều thấy như nhau nhưng nếu khởi
niệm so sánh thì khác nhau. Khi nhìn bình đẳng ai cũng
thấy như nhau, nhưng khởi niệm so sánh hoa
hồng này đẹp hay xấu rồi đánh giá nó, người
khác cũng so sánh đánh giá, nên thành khác nhau. Chỉ cái nhìn
ban đầu mọi người đều đồng
giống nhau. Cái giống nhau đó chỉ cho tâm thể
sẵn của mình, còn khởi phân biệt so sánh rồi
khen chê là sai biệt.
Chúng ta nhìn muôn sự muôn vật giữa
thế gian này, rõ ràng ai ai cũng có cái thấy như nhau,
nhưng vừa khởi niệm thứ hai thì thấy khác
nhau. Thấy sai biệt thuộc về tâm sanh diệt. Còn
cái thấy thứ nhất bình đẳng thuộc về
tâm không sanh diệt. Càng tu chúng ta càng thấy ví dụ
của Phật trong kinh Lăng Nghiêm hay đáo để.
Ngài đưa tay lên hỏi Tôn giả A Nan thấy hay
không? A Nan thưa thấy. Hỏi
thấy cái gì? Đáp thấy bàn tay của Phật đưa
lên. Phật để tay xuống hỏi có thấy không? Đáp
không. Hỏi tại sao không thấy? Đáp vì tay Phật
không đưa lên nữa. Lúc đó Phật quở A Nan “Ông
quả là người quên mình theo vật”. Tay Phật đưa
lên là có tay, tay Phật để xuống là không có tay. Còn
cái thấy, thấy có tay, thấy không tay là cái thấy
của mình. Nếu thấy tay nói có, không thấy tay nói
không là lệ thuộc cảnh.
Tất cả chúng ta có lệ thuộc
cảnh không? Cảnh có mình nói có, cảnh không mình nói không.
Ta không nhớ mình có cái thường thấy thường
nghe, Phật muốn chỉ dạy chính cái đó. Mọi
người đang có cái thường thấy, thường
nghe, thường biết rõ ràng lại không nhận nó mà
nhận cảnh. Mắt chạy theo sắc, tai chạy
theo âm thanh, mũi chạy theo mùi… suốt ngày cứ
chạy như vậy. Bước vô bếp liền nghe
mùi nấu cái gì thơm quá. Đi ra ngoài nghe sầm sì, ai
nói lén mình đó, cứ tìm kiếm bên ngoài mà quên thực
hữu của mình. Mình đi đâu nó cũng có, lúc nào nó
cũng hiện tiền, không chịu nhớ cứ
nhớ bên ngoài thôi. Cho nên sám hối sáu căn là phải.
Chừng nào đừng chạy theo sáu trần mới
biết mình hiện tiền, còn dính sáu trần là quên
mất mình.
Quên mất mình không phải nó không hiện
tiền, như chuyện ngài A Nan vậy. Cái thấy là
mình còn cái tay là cảnh, cái tay không nhưng cái thấy
vẫn có, vậy mà lại nói không cho nên Phật mới
quở quên mình theo vật. Phật đã chỉ tường
tận chúng ta có cái hiện tiền nhưng luôn luôn quên.
Nếu nhớ mình hiện tiền có khen cảnh đẹp
cảnh xấu không? Chúng ta luôn ở trong cái chân thật
mà lại quên, tìm hư dối rồi tranh đua hơn
thua, phải quấy suốt năm suốt tháng không
dừng. Cuối cùng than sao tôi tu không tiến, tu hoài không
thấy tỉnh giác, càng tu lâu trong chúng càng thấy
phiền não, đông chừng nào phiền não lắm
chừng ấy.
Bởi quên mình theo cảnh bên ngoài, nên
suốt đời chúng ta chỉ quanh quẩn trong luân
hồi, không ra khỏi. Vì chạy theo bên ngoài là chạy
theo sanh diệt, sanh diệt thì đi trong luân hồi
lục đạo, không làm sao giải thoát. Muốn
giải thoát đừng dính với lục trần, không
dính với lục trần là đang sống với tâm
chân thật. Ở đây ngài Hoàng Bá chỉ cái chân thật
không chút dấu diếm, chúng ta khéo nhận thì nó sẽ đầy
đủ ngay nơi mình.
Mười phương
chư Phật thật không có một chút pháp khá được
gọi là A Nậu Bồ Đề.
Thật ra chư Phật không được cái giác
ngộ. Tại sao? Vì tánh giác đã sẵn, không do đâu
mà được.
Chỉ là
một tâm, thật không có tướng khác, cũng không ánh
sáng, không có hơn thua. Vì không hơn nên không tướng
Phật. Vì không thua nên không tướng chúng sanh. Không có
hơn thua cao thấp nên không có tướng Phật, tướng
chúng sanh sai khác.
CHÁNH VĂN:
Hỏi: Tâm đã không tướng, đâu
được hoàn toàn không ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp hóa độ chúng
sanh?
Đáp: Ba mươi
hai tướng thuộc về tướng, phàm có tướng
đều hư vọng. Tám mươi vẻ đẹp
thuộc về sắc, nếu do sắc thấy ta ấy
là hành đạo tà, không thể thấy Như Lai.
GIẢNG:
Học nhân hỏi tâm đã là không tướng,
nhưng đâu thể hoàn toàn không có ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đức
Phật Thích Ca để giáo hoá chúng sanh. Ngài bảo ba mươi
hai tướng tốt thuộc về tướng. Trong
kinh Kim Cang dạy “Phàm sở
hữu tướng giai thị hư vọng”, nghĩa
là phàm những gì có tướng đều hư vọng.
Ba mươi hai tướng là tướng hư dối
không phải thật. Tám mươi vẻ đẹp
thuộc về sắc, sắc là hình dáng đẹp
huyễn tạm. Kinh Kim Cang dạy “nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thinh
cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng
kiến Như Lai”, nghĩa là nếu do sắc thấy
ta, do âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo
tà, không thể thấy Như Lai. Như vậy ba mươi
tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp
của Phật đều là tướng tạm bợ,
giả dối trên thân vô thường hư hoại, không
phải chân thật.
Ở đây nói về Phật thật
của chính mình. Phật này không căn cứ trên ba mươi
hai tướng tốt, không căn cứ trên tám mươi
vẻ đẹp, vì tướng tốt vẻ đẹp
đều vô thường, biến hoại, không chân
thật, cho nên không phải Như Lai. Như Lai ở đây
chỉ cho Pháp thân.
CHÁNH VĂN:
Hỏi:
Phật tánh cùng chúng sanh tánh đồng hay khác?
Đáp: Tánh không đồng khác. Nếu
nhằm giáo ba thừa nói có Phật tánh, chúng sanh tánh, nên có
nhân quả ba thừa, tức có đồng khác. Nếu
nhằm Phật thừa và Tổ sư truyền nhau, không
nói việc như thế, chỉ có một tâm, không đồng
không khác, không nhân không quả. Nên nói “chỉ đạo nhất thừa này, không hai
cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói”.
GIẢNG:
Hỏi Phật tánh và chúng sanh tánh là đồng
hay khác? Thường thường chúng ta nghĩ rằng
tánh Phật là tánh giác, còn chúng sanh chưa tu thì tánh mê. Như
vậy có hai tánh giác và mê khác nhau. Nhưng ở đây nói
trong chỗ cứu cánh tánh Phật, tánh chúng sanh không khác.
Tại sao? Vì Phật có sẵn tánh sáng và Ngài nhớ
sống với tánh sáng đó, cho nên hoàn toàn giác. Chúng sanh
cũng có sẵn tánh sáng nhưng quên đi nên gọi là mê.
Như vậy mê và giác là do biết trở về hay không
trở về thôi, chớ không phải tánh Phật và tánh
chúng sanh khác nhau. Nói rõ hơn là khác trên cái giác cái mê, chớ
không phải khác trên tánh. Nên nhớ tánh giác của Phật
và tánh giác của chúng sanh không hai.
Nếu căn cứ trên giáo lý ba thừa,
nói có Phật tánh, chúng sanh tánh, có nhân quả ba thừa
tức có đồng khác. Đứng về Phật tánh
không khác, nhưng căn cứ giáo lý ba thừa mà nói
tức là Thanh văn, Duyên-giác, Bồ-tát thì có ba tánh:
chủng tánh Thanh văn, chủng tánh Duyên-giác, chủng
tánh Bồ-tát nên thấy như có khác. Khác đó là gì? Là
trên phương tiện. Phương tiện thì thấy
có chủng tánh Thanh văn, chủng tánh Duyên-giác, chủng
tánh Bồ-tát.
Như có người tu lúc nào cũng thao
thức mong thấy đạo, sau đó giáo hóa cứu độ
chúng sanh, không nghĩ gì khác hơn. Có người tu
cũng thao thức mong cho mình giải thoát sanh tử vì
cuộc đời khổ quá, nhưng không nghĩ tới
ai hết, chỉ nghĩ mình phải giải thoát sanh
tử thôi. Hai người đó chủng tánh khác nhau chăng?
Mới nhìn, chúng ta thấy người mong mình giác để
độ tất cả chúng sanh là chủng tánh Bồ-tát.
Người chỉ mong mình ra khỏi sanh tử thôi, đó
là chủng tánh Thanh văn. Vậy chủng tánh ấy là
sẵn hay do huân tập? Trong đời
này ta thấy dường như sẵn, nhưng thực
tình đã huân tập nhiều đời rồi. Người
nhìn đời bằng cặp mắt bi quan, mong tu
giải thoát sanh tử cho riêng mình, đó là huân tập theo
cái nhìn bi quan.
Người nhìn cuộc đời
nhiều điều đau khổ, chúng sanh mê muội
trong ấy mà không tự thấy, nên mong tu giác ngộ để
chỉ đường chỉ lối cho mọi người
cùng giác ngộ, hết đau khổ như mình, đó là
chủng tánh Bồ-tát. Nói chủng tánh ba thừa chẳng
qua là sự huân tập của đời trước
thôi, còn chủng tánh sẵn thì Phật và chúng sanh không khác.
Nên biết chủng tánh ba thừa là chủng tánh do huân
tập nhiều đời mà có, không phải chủng tánh
sẵn. Còn chỉ thẳng tức tâm là Phật thì tánh
Phật đó là tánh sẵn của tất cả chúng sanh.
Nên nói “Nếu
nhằm Phật thừa và Tổ sư truyền nhau, không
nói việc như thế, chỉ có một tâm, không đồng
không khác, không nhân không quả”. Nhân quả là pháp căn
bản của đạo Phật, mà ở đây nói không
nhân không quả là bỏ pháp căn bản sao? Chỗ này
người học Phật phải nắm cho vững,
thấy cho tường tận. Nhân quả là căn
cứ trên pháp sanh diệt mà nói, còn trong sanh diệt thì còn
nhân còn quả. Từ nhân sanh ra quả là diễn biến
vòng sanh diệt, đâu phải đứng một
chỗ. Như chúng ta gieo hạt lúa xuống ruộng, nó
lên cây lúa, rồi lần lần trổ bông kết
quả, cho tới lúa chín. Từ hạt lúa lên cây lúa
phải qua một vòng biến chuyển, cây lúa ra bông lúa
lại chuyển biến, bông lúa thành hạt lúa chín
cũng chuyển biến, rồi lấy hạt lúa
vừa mới thu hoạch gieo trở lại nữa,
tức là tiếp tục những vòng chuyển biến.
Nhà Phật gọi đó là biến chuyển lẩn
quẩn trong vòng luân hồi. Cho nên trong vòng luân hồi nhân
quả là lẽ thực, là chân lý. Nếu thoát ra vòng luân
hồi thì không còn nhân quả nữa. Hiểu cho tường
tận như vậy mới không có lỗi.
Chỉ đạo
nhất thừa này, không hai cũng không ba, trừ Phật
phương tiện nói. Đoạn này dẫn trong kinh
Pháp Hoa. Phật nói chỉ có một Phật thừa hay
Nhất thừa, không nói hai nói ba. Nếu nói hai nói ba là
Phật phương tiện nói, không phải chỗ
cứu cánh. Như vậy nói Tam thừa, Nhị thừa
v.v… là phương tiện, chỉ một Phật
thừa mới cứu cánh. Kinh Pháp Hoa chỉ thẳng một
Phật thừa, chư Tổ truyền nhau cũng
truyền một tâm chân thật. Tâm chân thật là chỉ
cho tâm Phật hay tánh Phật, không có hai thứ.
CHÁNH VĂN:
Hỏi: Bồ-tát thân vô biên, tại sao
không thấy đảnh tướng của Như Lai?
Đáp: Thật không thể thấy. Vì
cớ sao? Vì Bồ-tát thân vô biên chính là Như Lai, chẳng
lẽ lại thấy… Chỉ dạy ông không khởi
chấp thấy Phật thì không rơi bên Phật, không
khởi chấp thấy chúng sanh thì không rơi bên chúng
sanh, không khởi chấp thấy có thì không rơi bên có,
không khởi chấp thấy không thì không rơi bên không,
không khởi chấp thấy phàm thì không rơi bên phàm,
không khởi chấp thấy thánh thì không rơi bên thánh.
Nếu không các kiến chấp tức là thân vô biên.
GIẢNG:
Hỏi Bồ-tát thân vô biên, vì sao không
thấy đảnh tướng của Phật? Nói thân vô
biên là chỉ cho Phật, chớ có thân nào khác. Bồ-tát
thân vô biên là một tên khác để chỉ cho Phật.
Phật làm sao thấy đảnh tướng của
Phật. Vì Phật là Phật rồi nên không còn thấy có
Phật, có chúng sanh. Thấy có Phật, có chúng sanh là còn
chấp hai bên, chưa phải chân lý. Chúng ta hiện
giờ chấp bao nhiêu bên? Vạn ức bên, chớ
chẳng phải chỉ hai bên. Nào là chấp phải
chấp quấy, chấp có chấp không, chấp giả
chấp thật, chấp tốt chấp xấu… đủ
thứ chấp.
Con người luôn luôn lấy hai bên làm
thật, để đo để khẳng định mọi
việc. Thí dụ hỏi việc này có không? Nếu đáp
có là đúng ý mình thì ta chấp nhận cái có, nếu nói
không là đúng ý mình thì ta chấp nhận cái không. Như
vậy bắt phải nhận một trong hai hoặc là
có hoặc là không. Hỏi việc đó phải hay
quấy? Nếu người nói phải đúng ý mình thì
vui, nếu người nói sai ý mình thì nổi sân lên.
Từ chấp hai bên mà phát sanh không biết bao nhiêu
phiền não, mọi cuộc tranh hơn tranh thua để
rồi khổ đau với nhau đều do chấp hai
bên mà ra. Nếu ngày nào mình không còn chấp hai bên thì ngày đó
cười hoài, không có chuyện gì để nói nữa.
Bây giờ chúng ta thử nói chuyện không
dính hai bên xem. Đó là điều người thường
không thể hiểu nổi. Vì người ta đã quen
tập cái nhìn phân biệt hai bên, ai là người thân, ai
là kẻ thù, ai phải, ai quấy, ai xấu, ai tốt,
luôn luôn phân biệt. Khi cầm một vật đưa
lên thì hỏi “Cái này tốt
hay xấu?”,
chớ không bao giờ đưa lên cho người ta
thấy. Nếu trả lời tốt đúng ý mình thì
bằng lòng, vui. Nếu mình nghĩ tốt mà ai nói xấu
thì buồn. Mọi người cả thế gian này đều
sống trong cái tạm bợ bên ngoài. Bám vào đó, phân
biệt chia chẻ rồi khen chê thương ghét, từ đó
sanh khổ đau.
Nếu ai sống được tâm không
kẹt, không dính hai bên là giải thoát. Người nào
từ sáng tới chiều không dính hai bên, người đó
có phiền não không? Chắc không, vì buồn phiền là
tại thích được khen, ghét bị chê. Có khen có chê
thì có người ưa mình có kẻ ghét mình. Vậy mà đa
số chúng ta chỉ sống trong khen chê. Do đó cả
ngày gây bao nhiêu bất mãn cho nhau. Cái gì
mình làm ít khi nào mình nói xấu, cái gì người khác làm ít
khi nào mình khen tốt. Thí dụ người thợ
mộc dựng cái nhà và hài lòng rồi, nhưng ai tới
chê thì tự nhiên phiền não trong lòng. Cho nên biết phân
biệt khen chê là gốc của phiền não, vậy mà
chúng ta lại quen tật khen chê. Vì thế tuy đã tu,
cạo đầu cho sạch hết mấy sợi tóc
phiền não, nhưng còn khen chê là còn phiền não. Người
tu mà phân biệt khen chê nhiều chừng nào thì khổ
nhiều chừng ấy, tu rất chậm tiến.
Cho nên ở đây nói không khởi chấp thấy chúng sanh thì không rơi
bên chúng sanh, không khởi chấp thấy có thì không rơi
bên có, không khởi chấp thấy không thì không rơi bên
không, không khởi chấp thấy phàm thì không rơi bên
phàm, không khởi chấp thấy thánh thì không rơi bên
thánh. Nếu không các kiến chấp tức là thân vô biên.
Thân vô biên là thân ai? Là thân Phật. Chỉ không tất
cả kiến chấp thì thân Phật hiện tiền. Như
vậy làm Phật khó hay dễ? Đừng kiến
chấp gì hết, không chấp có không, không chấp
giỏi dở, tất cả đều không chấp.
Thấy là thấy, nghe là nghe mà không chấp, đó là thân
Phật hiện tiền.
Khi thân Phật hiện tiền gọi là trí
hay ngu? Nhiều người cho rằng không phân biệt
phải quấy là ngu. Nhưng thực ra đó mới
thật là người không dính kẹt. Chúng ta thử
sống một ngày đừng khởi khen chê, hay dở,
tốt xấu… thử coi ra sao? Ngày đó có nhọc không,
có đổ mồ hôi sót con mắt không? Chỉ không
chấp, nhẹ nhàng thôi. Tu một ngày như vậy là hay
lắm. Nếu chúng ta ráng ngồi thiền trọn ngày
rất đau chân. Bây giờ vẫn đi tới đi
lui, cũng làm công kia việc nọ mà không chấp gì
hết. Ngày đó là một ngày Phật, là ngày tu chính
chắn nhất.
Nhiều người cho rằng tu thì
phải công phu thật nhiều, vận dụng sức
thật nhiều, mà không ngờ buông xả mọi
kiến chấp là tu. Nếu xả bỏ mọi kiến
chấp thì trong tâm có gì phiền não? Ngược lại
nếu tu nhiều mà không khéo sẽ có tới hai thứ
phiền não. Thí dụ người ta ngồi thiền hai
giờ, mình ngồi bốn giờ nhưng không tỉnh
giác, sẽ có hai thứ phiền não. Thứ nhất,
mọi người thấy mình ngồi giỏi hơn
họ mà không ai thèm nói gì hết là trong lòng buồn rồi
đó. Thứ hai, mình ngồi bốn giờ nên thấy ai
ngồi một giờ xả thì chê. Đó là hai thứ
bệnh.
Cho nên tu nhiều mà chấp nhiều thì càng
bệnh. Ta ngồi đó là việc của ta, đừng
nhìn người khác rồi khởi khen chê. Như vậy
mới là tu thật. Còn tu để hãnh diện mong người
ta khen, họ không khen thì buồn, đó là tu trong đối
đãi hơn thua, chưa phải tu thật. Cho nên
phải cẩn thận.
CHÁNH VĂN:
Nếu có
chỗ kiến chấp tức là ngoại đạo.
Ngoại đạo ưa các kiến chấp. Bồ-tát đối
các kiến chấp không động.
GIẢNG:
Quí vị nhớ kiến chấp là
ngoại đạo. Tại sao? Vì họ hay nghiêng lệch
một bên, hoặc chấp có hoặc chấp không,
hoặc chấp phàm, hoặc chấp thánh v.v… đủ
thứ chấp. Tóm lại chấp chặt một bên là
ngoại đạo. Người tu Phật không cho dính bên
nào hết. Cho nên nói “Bồ-tát
đối các kiến chấp không động”.
CHÁNH VĂN:
Như Lai tức
nghĩa “như” của các
pháp. Nên nói “Di Lặc cũng
như, các thánh hiền cũng như. Như tức không
sanh, như tức không diệt, như tức không
thấy, như tức không nghe”.
GIẢNG:
Chữ “như”
đây là “như như”. Như
Lai là chỉ cho Đức Phật, Ngài không có dấy động,
không có kẹt mắc, đối với các pháp không dính
không mắc, tất cả đều như như cho nên
gọi là Như Lai. Ở đây dẫn trong kinh: “Di Lặc cũng như, các
thánh hiền cũng như, như tức không sanh, như
tức không diệt, như tức không thấy, như
tức không nghe”. Có người hiểu lầm như
tức không thấy, như tức không nghe là mù tối hay
điếc rồi. “Như”
thấy mà không thấy, “như”
nghe mà không nghe. Tại sao? Thấy tất cả mà không
dính gì hết thì thấy như không thấy, nghe tất
cả mà không dính gì hết thì nghe như không nghe. Tâm được
“như” thì cả ngày đi
đứng nằm ngồi đều sống trong
cảnh giới Phật. Ngược lại cứ lăng
xăng lộn xộn, phân biệt hay dở, tốt
xấu, hơn thua cả ngày thì sống với chúng sanh.
CHÁNH VĂN:
Đảnh
của Như Lai tức là cái thấy tròn, cũng không cái
thấy tròn nên không rơi bên thấy tròn. Do đó thân
Phật vô vi không rơi vào các số, tạm lấy hư
không làm dụ, tròn đồng thái hư không thiếu không
dư, rảnh rang vô sự, chớ gắng biện
cảnh ấy, biện đến bèn thành thức.
GIẢNG:
Chúng ta thường nghe nói tướng trên đảnh
của Phật là tướng tròn nhưng ở đây nói
không phải tướng tròn, vì thể của Phật là
thể giác, trùm khắp không thiếu sót chỗ nào, nên nói
tròn đồng thái hư. Thái hư bao lớn thì tánh giác
cũng như vậy.
Thân Phật vô
vi không rơi vào các số, chữ vô vi ở đây khác
với chữ vô vi của Lão Tử. Lão Tử nói vô vi là
không làm, còn nhà Phật nói vô vi là đối với hữu
vi. Trên thế gian này, những gì có đủ ba tướng
sanh, trụ, diệt hoặc bốn tướng sanh,
trụ, dị, diệt đều gọi là hữu vi. Còn
cái không có ba hoặc bốn tướng sanh, trụ,
dị, diệt thì gọi là vô vi. Vô vi là không sanh, không sanh
nên không trụ, không diệt. Pháp thân Phật không sanh nên
không diệt, vì vậy nói giải thoát sanh tử.
Chúng ta tu ai cũng mong giải thoát sanh
tử, nhưng giải thoát bằng cách nào? Nhiều người
hiểu lầm giải thoát sanh tử là sống hoài, lên
cảnh bồng lai làm tiên sống thật lâu là giải
thoát sanh tử. Hiểu như vậy mới đúng
với chân lý Phật dạy. Ở đây chỉ
thẳng tức tâm là Phật. Tức tâm là chỉ cho
Phật pháp thân, chớ không phải Phật báo thân hóa
thân. Phật pháp thân không sanh không diệt, chúng ta nhận
ra Phật không sanh không diệt ngay đời này thì
liền được vô sanh.
Chúng ta buông hết tất cả kiến
chấp thì được như, như tức là
Phật. Từ sáng đến chiều tâm mình luôn như
thì sao, giải thoát sanh tử chưa? Khó nói. Bởi vì thân
tứ đại sẽ tử, làm sao nói giải thoát sanh
tử được. Như Phật giác ngộ viên mãn
rồi nhưng đến tám mươi tuổi Ngài
cũng tịch, đâu thể nói thân này giải thoát sanh
tử. Giải thoát sanh tử là pháp thân bất sanh
bất diệt, vì nó không còn sanh lần thứ hai, thứ
ba nữa nên gọi là giải thoát sanh tử. Đa
số người lại mê chấp thân tứ đại,
muốn nó còn hoài, nhiều khi thân bệnh nặng hoặc
xấu xí mà cũng thương nó như thường. Nó
bệnh cũng thương, nó xấu cũng thương,
không bao giờ ghét nó. Do đó mất thân này liền kiếm
thân khác, bỏ không được. Cứ thế sanh đi
tử lại vô số kiếp, khổ đau không
biết bao nhiêu. Vậy mà ai cũng thích lăn hoài trong
ấy.
Muốn thoát khỏi sanh tử thì đừng
dính, đừng chấp tất cả pháp hiện tại
ở thế gian, sống trở lại với tâm thanh
tịnh của mình. Nếu còn hay phân biệt là sống
với thức sanh diệt, mà thức sanh diệt thì
phải chuốc nghiệp sanh diệt.
CHÁNH VĂN:
Nên nói “viên thành chìm biển thức,
trôi lăn tợ bồng bay”.
GIẢNG:
Tánh viên thành thật vốn sẵn có, nó
chính là Pháp thân. Tuy sẵn có nhưng nó bị thức
phủ che nên nói chìm biển thức. Chúng ta sống theo
thức nên trôi lăn như cỏ bồng, khi bông nở
gặp gió thổi bay tán loạn. Đoạn này muốn
nói chúng ta có sẵn tánh viên thành thật, nhưng vì mình
chạy theo sóng thức, tạo nghiệp sanh tử liên tục
không dừng, giống như cỏ bồng bay.
Viên thành là nói theo Duy thức, nói theo pháp tánh
là Pháp thân. Như nước biển, tánh nó là lặng hay động?
Nếu nó tánh động thì khi ta lấy nước để
vào chỗ yên nó vẫn động, như con cá bỏ lên
bờ nó vẫn giẩy. Tánh nước không động
mà tùy duyên, nếu biển gặp gió mạnh thì nó dậy
sóng. Khi thấy sóng chúng ta cho rằng tánh nước là động,
chớ sự thực tánh nước không động. Đang
là một lượn sóng nổi cao vút, nếu mình dùng phương
tiện hứng nước từ lượn sóng đó đổ
vô một cái hồ yên lặng không có gió, lượn sóng đó
còn ầm ầm nữa không? Không. Bản chất nước
là yên, nhưng do duyên gió làm động.
Cũng vậy, Phật tánh hay viên thành
thật tánh vốn yên, nhưng do tâm dấy phân biệt. Đó
là dòng sóng thức nổi dậy, nổi dậy là động,
động rồi tạo nghiệp sanh tử, cứ
thế động liên tục. Bây giờ muốn ra
khỏi sanh tử, ra khỏi là một lối nói thôi,
chớ có ra đâu, nói đúng hơn là muốn dòng sanh
diệt dừng thì đừng duyên sóng thức thổi,
sóng lặn tức là dòng sanh diệt hết.
Như vậy chúng ta tu
không phải chuyện huyền hoặc, tưởng
tượng mà thực tế vô cùng. Mỗi người đều
có cái thể trong lặng sáng suốt sẵn, nhưng vì
sóng thức phân biệt nhạy quá, cứ nghĩ cái này,
nghĩ cái kia, liên miên cả ngày không dừng. Vì vậy
không thấy được tâm trong lặng. Bây giờ
muốn dừng dòng sanh tử trước phải
dừng sóng thức. Muốn dừng sóng thức phải
dừng bớt đối duyên xúc cảnh, đừng
chạy theo, đừng phân biệt. Nếu đối
duyên xúc cảnh không chạy theo, không phân biệt thì
tự nhiên thức lặng, tánh giác hiện tiền.
Vậy tu là lóng lặng dòng sóng thức
của mình. Dòng sóng thức lặng thì tâm thanh tịnh
hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền là tâm
bất sanh bất diệt. Chạy theo dòng sóng thức là
sanh diệt, sanh diệt là luân hồi. Dừng được
dòng sóng thức thì không tạo nghiệp, không tạo
nghiệp thì hết sanh tử. Như vậy tu là
chuyện thực tế trong khả năng của mình hay
quá khả năng của mình? Mình có quyền nghĩ thì
mình cũng có quyền dừng cái nghĩ đó. Ai bắt
buộc, ai ra lệnh mình phải nghĩ? Có ai bắt
buộc, ai ra lệnh đâu. Tự mình muốn nghĩ thì
nghĩ, vì thói quen hay nghĩ, nghĩ riết thành
nghiệp, dừng không được thôi.
Nhà thiền sợ chúng ta đi đông đi
tây, thấy này thấy kia rồi chạy theo nghĩ, nên
bắt ngồi yên ngó xuống cho bớt nghĩ, chớ
có gì đâu. Thức lặng xuống rồi là dòng tâm
thức dừng, tâm thanh tịnh hiện, có chuyện gì
lạ đâu. Không có gì gọi là mầu nhiệm, là phép
lạ hết, mà đó là chuyện thực tế ngay nơi
mình. Nên tu thiền là việc thực tế, cụ
thể ngay chúng ta, không phải chuyện xa lạ bên ngoài.
Chúng ta có sẵn quyền trong tay. Ngồi lại không
nghĩ gì hết thì khoẻ, nhưng có người
ngồi không nghĩ lại gục. Hết gục lại
nghĩ, cứ vậy thay phiên. Hôn trầm đã tán
loạn, tán loạn đã hôn trầm. Hai thứ bệnh
ấy đổi qua đổi lại hoài, không dừng được
ở chính giữa. Tu như vậy rất phí thời
giờ, trọn không có lợi ích chi.
Chúng ta nên nhớ giờ ngồi tu là
giờ vàng ngọc chớ không phải thường.
Ngồi để buông xả tất cả dòng sóng
thức đang chạy theo ngoại cảnh. Vừa
nhớ liền buông, vừa thấy liền buông. Gở
liên tục như vậy, một ngày mình gở được
hai giờ, bốn giờ, sáu giờ thì đỡ quá
rồi. Ngồi phải gỡ chớ không phải
ngồi gục, gục thì đâu có thấy nó dấy lên
mà gỡ. Thành ra ngồi thiền tối kỵ hai
việc: thứ nhất là gục, thứ hai là loạn tưởng.
Cho nên phải làm sao ngồi tỉnh, thấy rõ ràng
từng niệm dấy lên mình buông, từng niệm
dấy lên mình buông, đó là gỡ bớt tập khí
nhiều đời, những thói quen ta đã tạo. Buông
trong lúc không đối duyên xúc cảnh có hiệu quả
rồi, khi đối duyên xúc cảnh mình dễ buông.
Nếu trong lúc ngồi tránh duyên như vậy mà buông không được,
khi ra ngoài gặp cảnh duyên làm sao buông được.
Cho nên tu thiền mượn phương
pháp ngồi để tăng sức mạnh mà buông. Buông
quen rồi thuần, khi đối duyên xúc cảnh mình
cũng như như. Lúc đó khỏi ngồi thiền.
Người nào từ sáng tới chiều không dấy
một niệm khen chê phải quấy, người đó
khỏi ngồi thiền, cứ đi chơi. Người
nào còn xoay qua xoay lại, kể chuyện anh kia chị
nọ lung tung, người đó phải ngồi
thiền. Người ta bốn giờ mình phải sáu
giờ hay tám giờ.
Tu là sức mạnh do chúng ta huân tập.
Hồi xưa mình huân tập thói quen phân biệt, bây
giờ ngồi lại huân tập thói quen gỡ bỏ cho
nó lặng bớt từ từ, chừng nào thuần
thục thì khỏi gỡ nữa, tha hồ đi chơi
cả ngày như Lục Tổ. Lục Tổ có chịu
ngồi thiền không? Thấy thầy đệ tử
ngồi thiền bên hành lang chùa, ngài lại nắm lỗ
tai thổi cái phù. Tại sao? Ngài bảo “Phật nói tất cả pháp để trị
tất cả tâm, Ta không tất cả tâm đâu dùng
tất cả pháp”. Ngài đi đứng như như
rồi thì ngồi thiền làm gì. Vì vậy thấy ông đệ
tử ưa thích ngồi thiền ngài quở. Chúng ta bây
giờ chưa được như như nên phải
ngồi, ngồi nhiều là khác.
|