| 
       
      ĐOẠN 5 
  CHÁNH VĂN:  
   
  Các thứ hình
  mạo dụ như nhà cửa, bỏ nhà lừa vào nhà người,
  bỏ thân người đến thân trời, cho đến
  nhà Thanh văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật đều là
  chỗ lấy bỏ của ông. Do đó có sai khác chớ
  tánh bản nguyên đâu có sai khác. 
  GIẢNG:   
  Trôi lăn trong lục đạo
  luân hồi hay chuyển lên Tứ thánh cũng là chuyện
  lấy bỏ thôi. Lấy bỏ hình thức này, hình
  thức kia chuyển dời mãi nhưng ông Phật của
  chúng ta vẫn không hai. Ai ai cũng sẵn có ông
  Phật mà quên đi, nên Bồ-tát Thường Bất
  Khinh gặp mọi người đều bái nói “tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài
  đều sẽ thành Phật”. Chuyện thành Phật
  của chúng ta là nhất định rồi, vì ai cũng
  có chủng tánh Phật nhưng vấn đề là
  gần hay xa thôi. Mười đời, trăm đời,
  muôn triệu đời kiếp… cũng sẽ thành
  hết.  
  Như vậy trên đường tu, không
  phải chúng ta tìm kiếm những gì xa lạ ở chân
  trời gốc biển, hay trong cõi hư không vô tận, mà
  chỉ nhìn thẳng nơi mình, biết được
  mình có tánh Phật. Buông xả những nghiệp tập
  trong lục đạo chúng sanh, từ từ nghiệp
  tập sạch thì tánh Phật hiện ra, không tìm ở đâu
  xa hết. Người tu là thực tế chớ không
  phải viễn vông. Bởi Phật là giác, giác tức tri
  giác, biết và sáng. Như hiện giờ quí vị
  ngồi nghe giảng, chỉ nghe thôi không nghĩ, không tính,
  không suy, không nhớ tưởng gì hết, lúc đó có nghe
  biết không? Nghe biết rõ ràng. Chúng ta sẵn có tánh nghe
  biết, không đợi suy nghĩ mới có. Suy nghĩ
  tốt, suy nghĩ xấu, suy nghĩ bị chê được
  khen v.v… mới sanh phiền não, còn thường nghe như
  vậy đâu có phiền não, trong sáng rõ ràng.  
  Trong khi nghe giảng nếu quí vị chú tâm,
  lúc đó không có niệm sanh diệt, chỉ là ròng rặc
  tánh nghe thanh tịnh, làm sao không có Phật. Niệm nghĩ
  suy mới là tướng sanh diệt, còn tánh nghe thanh
  tịnh có sanh diệt không? Không. Vậy mà bảo mình luân
  hồi lục đạo, tội nghiệp chưa? Chúng
  ta bỏ của quí nhà mình, chạy theo điên đảo
  rốt cuộc phải chịu luân hồi. Do đó
  Phật Tổ thương chỉ dạy, nhắc
  tới nhắc lui để chúng ta nhớ mình đang có
  cái chân thật, đừng quên mất, quên mất thì đi
  trong luân hồi đau khổ. 
   Ở đây
  nói các thứ hình mạo trong lục đạo luân
  hồi dụ như nhà cửa, bỏ nhà lừa vào nhà người.
  Nhà lừa tức là tái sanh làm lừa, bỏ thân lừa được
  trở lên làm người là tới nhà người. Thân
  này như nhà cửa, vô nhà này một thời gian, bỏ ra
  đi tới nhà khác, liên miên như vậy. Quí vị
  muốn đi hoài trong các nhà đó hay muốn ra khỏi? Đi
  hoài trong đó thì nhọc nhằn khổ sở, chi
  bằng chúng ta ra phắt một cái, không thèm tới nhà nào
  hết. Nếu sắp lâm chung vị nào ôm lòng sân hận
  oán thù thì đi vào nhà ngạ quỷ, súc sanh hoặc hơn
  nữa là địa ngục. Vào đó lâu ngày hết
  nghiệp sân hận được trở ra, ra rồi đi
  tới nhà khác, nhà nào thích thì tới. Như vậy đi
  ra đi vào không biết bao nhiêu kiếp luân hồi.  
  Phật thương chúng sanh tại sao không
  thức tỉnh, có Phật sẵn mà cứ ôm Phật đi
  trong luân hồi, tội nghiệp Phật quá. Ông Phật
  bị mình cột mấy sợi dây nghiệp lôi đi
  theo, đi cho đả rồi khổ. Nhưng ông
  Phật theo mình có khổ không? Không khổ. Sao vậy?
  Bởi vì Phật đâu có bị nghiệp, mình bị
  nghiệp chớ Phật không bị nghiệp. Ví dụ như
  khi chúng ta bị ai chửi, mình nghe tức trong bụng, đó
  là mình tức giận, chớ tánh nghe đâu có giận. Tuy
  nhiên từ nghe mình sanh ra tức giận, đó là
  nghiệp, từ nghiệp sanh khổ phiền đủ
  thứ, song tánh nghe không có khổ phiền. Cho nên tuy chúng
  sanh vào địa ngục mà Phật không bị khổ,
  nhớ như vậy mới hiểu câu “mình ở đâu thì Phật ở đó, mình khổ
  còn Phật không khổ”.  
  Nếu chúng ta biết trở về
  Phật của mình thì còn khổ không? Sống được
  với Phật làm sao khổ. Ngược lại sống
  với tâm phàm tục, bị nó lôi kéo mới khổ.
  Từ các nhà lừa, nhà người, nhà trời, nhà Thanh văn,
  nhà Duyên-giác, nhà Bồ-tát, nhà Phật cũng đều do
  tâm lấy bỏ mà có, thành ra sai khác, chớ tánh bản
  nguyên đâu có sai khác. Sai khác là hình thức, công phu tu hành,
  còn tánh giác sẵn không bao giờ sai khác.  
  CHÁNH VĂN: 
  Hỏi: Chư Phật thế nào hành đại
  từ bi vì chúng sanh thuyết pháp? 
  Đáp:
  Phật từ bi là vô duyên nên gọi là đại từ
  bi. Từ là không thấy có Phật để thành. Bi là
  không thấy có chúng sanh để độ.  
  GIẢNG:   
  Người ta bảo đại từ, đại
  bi là thấy chúng sanh khổ khóc theo chúng sanh, thấy chúng
  sanh vui cười theo chúng sanh. Còn đại từ đại
  bi ở đây là vô duyên, lạ chưa! Chữ vô duyên này
  dễ bị hiểu lầm. Thường thường
  chúng ta nghe ai nói những câu không có ý nghĩa thì bảo nói
  vô duyên quá. Nhưng vô duyên của nhà Phật là không có tâm
  phân biệt. Chúng ta là phàm phu nên khởi lòng từ phải
  có nhân duyên, còn Phật lòng từ tràn ngập không đợi
  nhân duyên nên gọi là vô duyên.  
  Thế nào là lòng từ có nhân duyên? Như
  một người đang khổ cay đắng nhưng
  trước mặt chúng ta họ không thố lộ, không
  trình bày, vì vậy tuy đối diện với họ mà
  ta không khóc. Trong khi đó mấy cô đào khéo nói, khéo
  gợi trúng tình cảm của mình, nên họ khóc mình khóc
  theo, dù biết họ khóc giả mà mình vẫn khóc sướt
  mướt. Lòng thương là từ bi nghe người
  ta khổ, thấy người ta khóc mình thương nhưng
  cái thương đó là do gợi trúng chỗ mới thương,
  còn không gợi thì không thương. Đó gọi là lòng
  từ có nhân duyên.  
  Phật thấy tất cả chúng sanh
  khổ đều thương, không đợi nhân duyên.
  Trong một tiền kiếp, đức Phật hành
  hạnh Bồ-tát, thấy con cọp rớt xuống
  hố bị đói, ngài tội quá thả mình xuống cho
  nó ăn. Người sau bảo Ngài hành động như
  vậy là từ bi mà không có trí tuệ. Con cọp nếu
  sống nó sẽ hại người khác, tại sao Ngài
  không để nó chết mà thả mình xuống cứu nó,
  một ngày sống của nó là một ngày giết hại
  chúng sanh. Thử hỏi việc làm đó có từ bi không?
  Người đời từ bi mà còn suy gẫm, xét lý, đó
  là lòng từ hữu duyên. Còn đức Phật vì dùng lòng
  từ vô duyên nên thấy chúng sanh khổ là giúp, không
  nghĩ tới một lý do nào hết. Khi lòng từ đạt
  tới vô duyên từ rồi thì thấy chúng sanh khổ là
  sẵn sàng giúp, không nghĩ giúp như thế sẽ được
  lợi ích hay có tai hại gì. Cho nên ở đây nói “Phật từ bi là vô duyên nên
  gọi là đại từ”, lòng từ ấy mới
  tràn ngập khắp tất cả. 
  Từ là không
  thấy có Phật để thành, nghĩa là tu sống
  trở về tánh giác của mình, không phải từ
  Phật nào khác thành. Bi là không
  thấy có chúng sanh để độ, chúng sanh đã
  sẵn tánh giác, mình nhắc họ để họ
  trở về, chớ không phải đưa họ
  tới đâu để họ thành Phật. 
  
  CHÁNH VĂN: 
  Phật
  thuyết pháp là không nói không dạy. Người nghe pháp là
  không nghe không được, ví như huyễn sĩ vì người
  huyễn nói pháp.  
  GIẢNG:  
  Phật
  thuyết pháp là không nói không dạy. Người nghe pháp là
  không nghe không được, như vậy sao gọi
  là thuyết pháp, nghe pháp? Thuyết pháp là không nói không
  dạy, nghe pháp là không nghe không được. Nói thế để
  nhắc nhở cho chúng ta biết người thuyết
  pháp không sở đắc, không có, không được nên
  thuyết mà không thuyết, người nghe pháp cũng
  biết rõ không có sở đắc thì còn có pháp nào để
  nghe, để được. Chúng ta học đạo
  là nhận chân được lý đạo, đó mới
  thật là học đạo. Nếu chúng ta nghe pháp
  rồi phân biệt pháp này hay, pháp này dở, pháp này cao, pháp
  này thấp, đó là nghe trong so sánh, do so sánh nên thấy có
  pháp, có người nói pháp. Nghe như vậy chưa
  phải là nghe pháp.  
  Ví như
  huyễn sĩ vì người huyễn nói pháp, huyễn
  sĩ là người huyễn. Phật như huyễn
  sĩ, chúng ta nghe là người huyễn, huyễn sĩ
  nói pháp người huyễn nghe pháp, không có gì thật
  hết. Như vậy mới là nói pháp, nghe pháp.  
  CHÁNH VĂN:  
   
  Pháp ấy
  nếu vì nói, ta từ thiện tri thức ngay một câu
  liền nhận được, hội được,
  ngộ được, cái ấy là từ bi. Nếu ông
  khởi tâm động niệm học được
  hiểu biết của người, không phải là
  tự ngộ bản tâm, rốt ráo vô ích. 
  GIẢNG:   
  Học mà chỉ học câu nói của
  thầy, không nhận ra bản tâm của mình, học đạo
  như thế thật vô ích. Nhiều vị nghe pháp, câu nào
  hay hay liền ghi chép học thuộc lòng, cho rằng như
  thế là khéo học. Ở đây không phải vậy.
  Nghe pháp là nghe Phật chỉ rõ bản tâm mình, cố
  gắng nhận cho được bản tâm mới
  hữu ích, còn nghe mà lệ thuộc vào ngôn ngữ chữ
  nghĩa, đó là nghe bên ngoài, không có lợi ích. Người
  thời nay đa số nghe pháp, gom nhặt cho nhiều để
  ăn nói giòn giã, lưu loát thu hút người khác, chớ
  không thấy tột cùng chỗ chân thật của mình. 
  CHÁNH VĂN:  
   
  Hỏi:
  Thế nào là tinh tấn? 
  Đáp: Thân tâm
  không khởi ấy gọi là đệ nhất dũng
  mãnh tinh tấn. Vừa khởi tâm hướng ngoại
  tìm cầu, gọi là Ca Lợi Vương, Di hầu yêu
  bọt. Tâm không chạy ra ngoài là tiên nhân nhẫn nhục.
  Thân tâm đều không, tức là Phật đạo. 
  GIẢNG:   
  Hỏi tu thế nào gọi là tinh tấn.
  Ngài đáp Thân tâm không khởi
  ấy gọi là đệ nhất dũng mãnh tinh tấn.
  Nơi thân, nơi tâm không khởi làm sao đi lại,
  chẳng lẽ nằm hoài. Nếu nói tâm không khởi thì
  dễ hiểu, nói thân không khởi là không động,
  chẳng lẽ nằm tới chết luôn. Cho nên nói thân
  tâm không khởi là nơi thân tâm này không dấy khởi
  niệm hay dở xấu tốt v.v… ấy gọi là đệ
  nhất dũng mãnh tinh tấn. Nhiều người cho
  rằng tinh tấn là một đêm lạy Phật
  một ngàn lạy hoặc sám hối một ngày ba
  thời… Nhưng ở đây ngài định nghĩa tinh
  tấn khác hơn. Người đối với thân tâm
  không dấy niệm, không khởi ý nghĩ lăng xăng
  là người tinh tấn dũng mãnh bậc nhất. Tinh
  tấn như thế có ai thấy không? Không ai thấy,
  nhiều khi bị chê nữa là khác. Cả ngày không nói năng
  chi, ai nói gì cũng không khen chê, thiên hạ bảo là lừ
  đừ. Đối với các pháp thế gian không
  bận, không dính, không mắc, không khởi tâm, trong đạo
  khen là người đại tinh tấn.  
  Vừa khởi
  tâm hướng ngoại tìm cầu là Ca Lợi vương,
  Di hầu yêu bọt. Ca Lợi vương liên hệ
  tới một câu chuyện tiền thân của đức
  Phật. Vào thuở quá khứ, đức Phật là
  vị tiên tu hạnh nhẫn nhục. Bấy giờ có vua
  Ca Lợi ác nghiệt vô đạo, một hôm vua cùng các
  cung nhân đi du ngoạn, gặp vị tiên tu hạnh
  nhẫn nhục, đang ngồi thiền dưới
  gốc cây. Các thị nữ tùy tùng trông thấy, liền
  bỏ vua Ca Lợi đến chỗ vị tiên này để
  nghe pháp. Ca Lợi vương thấy vậy nổi
  giận, bèn chặt hết tay chân của vị tiên nhân
  này. Vị tiên nhân này chính là tiền thân của đức
  Phật hành hạnh nhẫn nhục.  
  Di hầu yêu bọt là chỉ bầy
  khỉ ở trên cây cạnh bờ sông, thấy khối
  bọt nước do ánh sáng mặt trời chiếu lóng
  lánh, bèn đua nhau nhảy xuống vớt. Kết quả
  tất cả đều chết chìm. Những thứ hư
  ảo, giả dối mà tưởng là thật, đắm
  chìm trong đó nên khởi tâm hướng ngoại tìm
  cầu. Giống như những con khỉ yêu đắm
  bọt nước vậy.    
  Ngược lại Tâm không chạy ra ngoài là tiên nhân nhẫn nhục.
  Tiên nhân nhẫn nhục bị vua Ca Lợi chặt tay,
  chặït chân mà không buồn, không giận vì tâm không
  chạy ra ngoài. 
  Thân tâm đều
  không, tức là Phật đạo. Không chấp thân,
  không chấp tâm, thân tâm đều thanh tịnh, đó là
  Phật đạo. 
  CHÁNH VĂN: 
  Hỏi:
  Nếu không tâm, hành đạo này được chăng? 
  Đáp: Không tâm
  tức là hành đạo này, lại nói cái gì được
  cùng chẳng được? Vã lại vừa khởi
  một niệm bèn là cảnh, nếu không một niệm
  tức là cảnh mất, tâm cũng tự diệt, không
  cần lại tìm kiếm. 
  GIẢNG:   
  Hỏi “Nếu
  không tâm, hành đạo này được chăng?”. Đáp “Không
  tâm tức là hành đạo này”. Lúc nào ta không dấy
  niệm, không khởi nghĩ là đang hành đạo.
  Một số tu sĩ ngày nay cho rằng suy tính tổ
  chức làm việc này việc nọ là hành đạo.
  Ở đây ngược lại, Tổ nói không tâm là hành đạo.
  Đã không tâm là hành đạo, lại
  nói cái gì được cùng chẳng được?
  Không tâm là hành đạo rồi, lại nói được
  chẳng được cái gì. 
  Vã lại
  vừa khởi một niệm bèn là cảnh, vừa
  khởi niệm nghĩ về cái gì đều là cảnh
  cả. Như khi nghĩ tới người thân, thì bóng
  của người thân hiện trong chúng ta, nghĩ
  tới kẻ thù thì bóng của kẻ thù hiện trong chúng
  ta. Nhớ cái gì, nghĩ cái gì thì hình ảnh ấy hiện
  ra, cho nên nói là cảnh.    
  Nếu không
  một niệm tức là cảnh mất, không khởi
  nghĩ gì hết thì không có cảnh nào. Tâm cũng tự diệt, không cảnh thì đâu
  có tâm duyên theo, nên nói tâm tự diệt. Không cần lại tìm kiếm, đó là tu
  rồi, tìm kiếm cái gì nữa. Như vậy không
  nghĩ thì không cảnh, không cảnh thì tâm duyên cảnh
  lặng, tức tâm vọng tưởng không có. Đó là
  chân thật khỏi đi tìm kiếm gì cả. Ngài chỉ
  cho chúng ta cách tu rất rõ ràng. 
  CHÁNH VĂN: 
  Hỏi:
  Thế nào là xuất tam giới? 
  Đáp:
  Thiệc ác đều chớ suy nghĩ, ngay chỗ
  ấy liền xuất tam giới. Như Lai ra đời
  vì phá ba cõi, nếu không tất cả tâm, tam giới
  cũng chẳng có. Như một hạt bụi đập
  làm trăm phần, chín mươi chín phần là không,
  một phần là có, thì pháp Đại thừa không
  thể xuất hiện, trăm phần đều không
  thì pháp Đại thừa mới hay xuất hiện. 
  GIẢNG:  
   
  Xuất tam giới là ra khỏi ba giới:
  Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Thiện ác đều chớ
  suy nghĩ, ngay chỗ ấy liền xuất tam giới.
  Câu này gọn quá mà cũng dễ quá, phải không? Ngài Hoàng
  Bá nói giống như Lục Tổ, thiện ác đều
  chớ suy nghĩ, ngay đó liền xuất tam giới,
  ngay đó là bản lai diện mục. Bản lai diện
  mục là chỉ cho cái chân thật của chính mình, cái chân
  thật đó không bị luân hồi trong tam giới
  lục đạo, cho nên nói xuất tam giới.  
  Chúng ta ngồi thiền một giờ,
  nửa giờ không nghĩ thiện, không nghĩ ác v.v… ngay
  đó liền xuất tam giới. Xuất tam giới là
  gì? Là giải thoát sanh tử. Người tu nào không mơ ước
  được giải thoát sanh tử. Một giờ
  ngồi thiền không có niệm thiện, niệm ác là
  một giờ giải thoát sanh tử. Niệm thiện thì
  sanh đường lành, niệm ác thì đọa đường
  dữ, nếu không có niệm thiện, niệm ác thì sanh
  ở đâu? Thì ra khỏi tam giới. Chỉ một câu
  hết sức đơn giản, mà dạy chúng ta tu
  rất tuyệt vời, để được
  giải thoát sanh tử.  
  Như Lai ra đời
  vì phá ba cõi, nếu không tất cả tâm, tam giới
  cũng chẳng có. Đức Phật ra đời là
  vì chỉ cho chúng sanh tu giải thoát sanh tử. Giải
  thoát sanh tử là không còn lăn lộn trong tam giới
  nữa, cũng gọi là phá ba cõi. Người tu ra
  khỏi tam giới tức là giải thoát sanh tử, đó
  là phá tam giới. Phật dạy chúng ta phá ba cõi tức là
  tu để ra khỏi tam giới.  
  Nếu không
  tất cả tâm, tam giới cũng chẳng có.
  Tất cả tâm là niệm thiện, niệm ác, niệm
  phải, niệm quấy… lặng hết thì tam giới
  cũng không còn, không dính dáng gì với mình. Nhiều người
  nghĩ cõi này khổ quá, làm người nhọc nhằn
  phiền não quá, muốn được sanh cõi trời sướng
  hơn. Như vậy là còn muốn sanh cõi lành. Lên cõi
  trời sống hoài cả muôn ngàn triệu năm, không
  biết như vậy vui hay buồn? Người ta
  cứ ngỡ sống dai là vui, nhưng thử hỏi quí
  vị lớn tuổi xem họ có vui không? Nhiều khi
  sống lâu một mình, bà con thân thuộc đi hết trơn,
  buồn chết, có gì vui đâu. Sống vừa vừa
  với nhau, có bạn có bè, người
  này đi còn người khác. Nếu bạn bè đi
  hết, mình sống với lớp nhỏ nó không thông
  cảm, nói chuyện với ai đây, có buồn không?
  Vậy mà ai cũng đòi sống dai, sống để
  mà buồn sống làm chi. Hoặc lên các cõi trời không làm
  gì hết, muốn gì được nấy cũng sẽ
  buồn. Con người sống có sinh hoạt, trồng
  cây hái trái mới vui, còn muốn gì được nấy
  mới đầu thấy thích, nhưng sau đó hết
  thích, riết rồi không biết sống để làm gì
  nữa!  
  Nhà Phật khuyên chúng ta không nên ở trong tam
  giới, dù cho các cõi trời sắc giới, vô sắc
  giới rất sung gướng, nhưng đức
  Phật thấy cũng ràng buộc thôi. Chỉ ra khỏi
  tam giới mới tự tại thảnh thơi. Vì
  vậy Đức Phật dạy chúng ta tu phá ba cõi.
  Nếu không tất cả niệm khởi, không tất
  cả suy nghĩ thì tam giới cũng vô nghĩa, không có đối
  với chúng ta. Như vậy ra khỏi tam giới cần
  gì thần thông? Dù có thần thông mà nghĩ lung tung cũng
  không ra khỏi tam giới nổi. Bây giờ không cần
  thần thông, chỉ không tất cả niệm liền ra
  khỏi tam giới. Vì niệm khởi là tạo nghiệp
  lành dữ, nếu không niệm khởi còn gì tạo
  nghiệp, không tạo nghiệp thì cái gì dẫn đi trong
  tam giới? Cho nên chỉ cần không tất cả
  niệm là ra khỏi tam giới, giải thoát sanh tử.  
  Chúng ta có đủ thẩm quyền
  quyết định, đi trong tam giới hoặc đường
  xấu, hoặc đường tốt, hoặc ra
  khỏi tam giới. Quyền của mình hết. Nếu
  gặp cảnh khổ mình kêu than với ai? Quyền
  của mình chọn mà than cái gì? Nếu sanh cõi lành cũng
  là quyền của mình,  ra khỏi tam giới
  cũng là quyền của mình. Đức Phật bảo
  chúng ta có cái quyền tuyệt đối ấy, chẳng
  những quyền ở trong thế gian, mà còn quyền ra
  khỏi thế gian nữa. Đã trọn quyền,
  tại sao chúng ta không chịu chọn lựa đường
  đi, lại than khổ quá phiền não quá.  
  Nếu nhớ lại đôi khi chúng ta
  cũng cảm thấy hổ thẹn, Phật dạy
  không tất cả niệm thì ra khỏi tam giới, mà
  mỗi đêm chúng ta thắp hương cầu Phật độ
  con giải thoát sanh tử. Ra khỏi sanh tử là
  quyền của mình, chúng ta quyết định can đảm
  để dẹp bỏ những vọng tưởng lăng
  xăng. Những cái đó hết thì nghiệp cũng
  hết là ra khỏi sanh tử, đừng cầu cứu
  ai hết. Chúng ta có quyền thì ráng mạnh mẽ buông
  hết tất cả vọng tưởng để ra
  khỏi sanh tử, chớ Phật không làm thế chúng ta được.
  Hiểu rồi mới thấy người tu Phật là
  người can đảm, tự quyết định
  lấy thân phận của mình trong hiện tại và mai
  sau, chớ không trông cậy vào ai.  
  Như một
  hạt bụi đập làm trăm phần, chín mươi
  chín phần là không, một phần là có, thì pháp Đại
  thừa không thể xuất hiện, trăm phần đều
  không thì pháp Đại thừa mới hay xuất hiện.
  Ví dụ như một hạt bụi đập thành trăm
  phần, chín mươi chín phần nói không, chỉ còn
  phần tí ti nói có thì pháp Đại thừa cũng không có
  mặt trên thế gian. Chừng nào một trăm phần
  trăm các hạt đó đều không hết thì pháp Đại
  thừa mới có mặt ở thế gian này. Nghĩa là
  sao? Tất cả pháp thế gian từ lớn như núi
  sông rừng núi v.v… nhỏ như hạt bụi tí ti chúng
  ta đều thấy là duyên hợp, hư huyễn không có
  tự tánh, cái lớn không, cái bé cũng không, thấy
  tột cùng như vậy thì pháp Đại thừa
  xuất hiện. Nếu thấy cái lớn duyên hợp,
  còn những hạt nguyên tử nhỏ tí ti không phải
  duyên hợp, pháp Đại thừa cũng chưa
  xuất hiện.  
  Khoa học ngày nay có kính hiển vi phân tích
  những nguyên tử thì thấy còn chia chẻ được
  nữa. Nếu kính tinh vi hơn nữa thì sẽ chia
  chẻ hoài, chia chẻ hoài. Còn có một chút hình tướng
  là còn chia chẻ, như vậy khoa học ngày nay đã
  chứng minh được điều này. Tinh thần
  Phật học nhất là tinh thần Đại thừa
  thấy các pháp duyên hợp như huyễn, những gì
  duyên hợp mắt thấy được đều
  không có thực thể. Có hình tướng là không có
  thực thể, do duyên hợp hư giả, tánh nó là không.
  Thấy tất cả các pháp từ lớn tới bé đều
  duyên hợp, tánh không, đó là tinh thần Đại
  thừa. 
  Nếu tất cả pháp đều duyên
  hợp tánh không thì tâm chúng ta dính mắc cái gì? Thấy người
  biết duyên hợp tánh không. Thấy nhà biết duyên
  hợp tánh không, thấy tất cả sự vật đều
  biết duyên hợp tánh không thì có gì đâu để dính
  mắc. Không dính mắc là xuất tam giới. Tất
  cả pháp thế gian phá sạch rồi thì cái xuất
  thế hiện tiền, muốn như thế phải
  dùng kiếm Bát-nhã mới được.  
  Kinh Kim Cang phá sạch để đưa
  chúng ta tới chỗ cuối cùng ấy. Ngày xưa tôi
  lấy làm lạ tại sao chư Tổ đã nói giáo
  ngoại biệt truyền mà Lục Tổ lại
  giảng kinh Kim Cang? Sau này càng tu tôi càng thấm, mới
  thấy rõ kinh Kim Cang chỉ dạy chúng ta phá hết
  những dính kẹt, chỉ thẳng tâm chân thật như
  Lục Tổ vậy. Nếu không phá chấp thì không bao
  giờ chúng ta thấy được chỗ chân thật.
  Như vậy pháp Đại thừa xuất hiện khi
  nào ta thấy tất cả pháp không thật, còn có một
  pháp là chưa phải thật, chưa phải Đại
  thừa.  
  CHÁNH VĂN:  
   
  Sư thượng
  đường nói:  
  Tức tâm là
  Phật, trên đến chư Phật dưới đến
  các loài bò bay máy cựa đều có Phật tánh, đồng
  một tâm thể.  
  GIẢNG:   
  Tức tâm là
  Phật, trên đến chư Phật dưới đến
  các loài bò bay máy cựa đều có Phật tánh, đồng
  một tâm thể. Ai có tâm là người đó có
  Phật. Tâm là cái biết, nên ai có cái biết người đó
  có Phật, lo gì không thành Phật. Chỉ sợ người
  nhiều tâm quá không thành Phật thôi. 
  CHÁNH VĂN:  
   
  Sở dĩ
  Tổ sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang
  chỉ truyền một tâm pháp, chỉ thẳng tất
  cả chúng sanh xưa nay là Phật, chẳng nhờ tu
  hành.  
  GIẢNG:   
  Xưa nay là
  Phật, chẳng nhờ tu hành. Xưa nay là Phật có
  thể hiểu được, vì sao lại chẳng
  nhờ tu hành? Vì tu mà được, mà thành thì Phật đó
  sanh diệt. Tu là hành động sanh diệt, đem nhân
  sanh diệt để cầu quả không sanh diệt thì
  không được. Cho nên chúng ta tu không phải để
  thành Phật, mà tu để sạch vọng tưởng.
  Như kiến bị bụi đóng dơ, người ta
  thường nói lau kiến cho sạch. Nhưng sự
  thực kiến không dơ, tại bụi đóng mới
  thấy dơ. Bây giờ lau là lau bụi, chớ không
  phải lau kiến. Lau hết bụi kiến sáng lên thì
  nói kiến sáng, nhưng thật ra không phải lau bụi
  kiến mới sáng, mà nó sáng sẵn, khi bị bụi bám
  thấy mờ, đến lúc bụi sạch nó hiện
  lại cái sáng vốn có của nó. Cho nên nói lau kiến là
  không đúng, phải nói lau hết bụi, kiến
  hiện ra ánh sáng.  
  Việc tu cũng vậy. Tu là dẹp
  phiền não, dẹp vọng tưởng, không phải tu để
  thành Phật, vì Phật đã sẵn rồi. Khi nào
  dẹp hết phiền não vọng tưởng thì ông
  Phật hiện ra, không phải do tu mới có Phật. Như
  người đúc tượng, đắp từng
  miếng rồi ráp lại thành Phật, đó
  là làm thành. Đằng này tu là dẹp phiền não, dẹp
  vọng tưởng rồi ánh sáng sẵn của mình
  hiện ra, không phải làm thành ông Phật mới. Cho nên
  nói “chẳng nhờ tu hành”.
  Phật do tu hành được là Phật sanh diệt,
  cũng như bụi dính mình chùi, có bụi không bụi,
  chớ đâu phải kiến sáng và tối. Tối là
  tại bụi che, sáng là tại bụi hết, không
  phải kiến hồi chưa lau tối, bây giờ lau
  rồi sáng.  
  Tánh giác sẵn có của chúng ta cũng
  vậy. Nó có sẵn nhưng vì vọng tình che phủ, không
  một phút giây lắng lặng, nên bây giờ chúng ta ráng ra
  công dẹp bỏ nó, nó lóng lặng lại thì tánh giác
  hiện ra. Sự tu hành thấy như hết sức khó,
  nhưng ngẫm lại thì hết sức dễ. Sao
  dễ, sao khó? Bởi vì chúng ta quen thói nghĩ suy rồi,
  hết chuyện này tới chuyện kia. Ngồi lại
  thì thôi là đủ thứ chuyện trên đời, không
  rảnh phút giây nào nên không nhận ra cái thật của
  mình. Bây giờ từ chối không tiếp duyên nữa,
  chuyện từ chối dễ ợt có gì đâu. Không
  tiếp riết họ không tới nữa, tự nhiên mình
  thảnh thơi. Ông chủ nhà thảnh thơi được
  hiện tiền dễ hay khó? Phải chi cắt tay
  chặt chân thì khó, chỉ từ chối không tiếp khách
  thôi, vậy mà không chịu từ chối, lại còn thương
  khách nữa, khách chưa tới đã rủ tới
  rồi. Vì vậy chúng ta khổ.  
  Tu là gì? Là từ chối không tiếp khách,
  vừa dấy niệm lên liền tự nhắc “vọng, không theo” tức là
  không tiếp. Cứ bao nhiêu đó làm hoài, chuyện nhẹ
  nhàng thảnh thơi quá, tại sao làm không được.
  Phải chi bắt quí vị lạy một đêm mấy
  ngàn lạy hoặc tụng mấy quyển kinh thì nói
  nhọc, đằng này chỉ từ chối vọng tưởng
  thôi. Ai tới không chơi, không tiếp là xong. Không
  tiếp hoài tức nhiên mình không có khách. Tại vì người
  ta tới mình tiếp nên có khách. Cả ngày bao nhiêu vọng
  tưởng phiền não tới, mình không theo thì  khỏe
  khoắn vô cùng. Ngược lại chạy đuổi
  theo vọng tưởng thì khổ. Như đang ngồi
  nhớ hôm kia người đó nói một câu dễ ghét
  quá, ôn lại rồi suy nghĩ phải gặp người
  ấy đáp câu nào cho xứng đáng hơn, mạnh hơn,
  đáng tức hơn, cho họ khổ bằng mười
  lần mình mới được. Suy nghĩ vậy
  hết bao nhiêu giờ? Tâm trạng buồn bực hay vui tươi?
  Bao nhiêu đó đủ thấy không tu thì khổ. Tu
  thật ra rất dễ, nhưng người thấy khó
  là vì khách thân quá không nở từ chối, vì vậy
  cứ bị khách dẫn đi hoài. 
       |