ĐOẠN 6
CHÁNH VĂN:
Chỉ như
hiện nay biết nhận tâm mình, thấy bản tánh
mình, chớ cầu cái gì khác. Thế nào biết tâm mình?
Chính hiện nay nói năng đó tức là tâm ông.
GIẢNG:
Câu này đúng là chỗ Mã Tổ đáp ngài
Huệ Hải. Hỏi: Thế
nào là kho báu nhà mình? Đáp: Cái
ông biết hỏi ta đó. Cái biết nói biết
hỏi là gì? Nếu không có tánh biết làm sao biết nói,
biết nghe. Biết nói, biết nghe không phải lỗi
mà lỗi tại khi nói khi nghe mình suy gẫm, luận bàn,
khen chê phải quấy, tốt xấu… đó mới là
lỗi.
CHÁNH VĂN:
Nếu không nói
năng cũng không có tác dụng của tâm thể thì
giống hệt như hư không, không có tướng
mạo, cũng không chỗ nơi, cũng không một
bề là không hay có, cũng không thể thấy.
GIẢNG:
Tuy chúng ta có cái biết nói, biết nghe nhưng
khi không có chuyện để nói, để nghe thì cái
biết ấy trở về thể tánh không tướng
mạo, không hình dáng của nó, vì vậy nói đồng
với hư không, trong đó không có cái có hay cái không.
CHÁNH VĂN:
Tổ sư
nói: “Chân tánh tâm địa
tàng, không đầu cũng không đuôi, ứng duyên mà hóa
vật, phương tiện gọi là trí. Nếu khi
chẳng ứng duyên, không thể nói là có là không, chính khi
ứng duyên cũng không dấu vết”.
GIẢNG:
Chư Tổ nói cái chân tánh tâm địa
không đầu, không đuôi. Chữ tàng này là cái kho. Tâm địa
tàng là kho tâm địa.
“Chân tánh tâm địa
tàng, không đầu cũng không đuôi, ứng duyên mà hóa
vật, phương tiện gọi là trí”. Ví dụ tâm
chúng ta là thanh tịnh, là thường hằng. Bây giờ
có các cảnh hoặc sang hoặc hèn, nó đến mình
biết tất cả cảnh đều tánh không, duyên
hợp giả có, ứng duyên hóa vật phương
tiện gọi là trí. Tuy thấy sang thấy hèn nhưng đều
biết tánh không duyên hợp huyễn hóa, đó là trí. Trí
tùy duyên mà dấy động, dấy động trong trí
tuệ chớ không phải trong mê lầm.
“Nếu khi
chẳng ứng duyên, không thể nói là có là không, chính khi
ứng duyên cũng không dấu vết”. Khi không ứng
duyên thì tánh giác tri của chúng ta không tướng mạo.
Không tướng thì không thể nói có, không gì không biết
nên không thể nói không. Không thể có, không thể không vì
không hình tướng mà hằng tri, hằng giác cho nên không
thể không được. “Chính
khi ứng duyên cũng không dấu vết”, khi tùy duyên
ứng hiện cũng không thấy dấu vết.
Tại sao? Vì biết tất cả pháp đều là duyên
hợp, hư ảo có gì thật mà dính mắc.
CHÁNH VĂN:
Đã biết
như thế, hiện nay chỉ nhằm không trong chỗ
nương tựa, tức là đi con đường chư
Phật. Kinh nói: “Nên không có
chỗ trụ mà sanh tâm kia”.
GIẢNG:
Đã biết
như thế, hiện nay chỉ nhằm không trong chỗ
nương tựa tức không chỗ nào thật để
mình nương tựa, tức
là đi con đường chư Phật. Không có
một cái thật để dính mắc là đi đường
của chư Phật. Kinh Kim Cang nói: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức
là nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia, không dính mắc sáu
trần mà sanh tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
CHÁNH VĂN:
Tất cả
chúng sanh luân hồi sanh tử do ý duyên tâm chạy rong ra
ngoài, nơi sáu đạo không dừng đến phải
chịu các thứ khổ. Kinh Tịnh Danh nói: “Người khó giáo hóa tâm như
khỉ vượn, cho nên dùng bao nhiêu thứ pháp chế
ngự tâm kia, nhiên hậu mới điều phục”.
GIẢNG:
Chúng sanh luân hồi trong sanh tử là do ý
duyên tâm chạy, nơi sáu đạo không đến
phải chịu các thứ khổ. Sở dĩ chúng ta
chịu khổ là do ý duyên tâm chạy theo cảnh, không
dừng luân hồi trong lục đạo. Ở đây
dẫn kinh Tịnh Danh là kinh Duy Ma Cật nói “Người khó giáo hóa tâm như
khỉ vượn”, sở dĩ người ta khó
bảo, khó dạy vì tâm chạy nhảy như khỉ như
vượn. “Cho nên dùng bao
nhiêu thứ pháp chế ngự tâm kia, nhiên hậu mới điều
phục”, bởi tâm chạy như khỉ vượn
nên Phật Tổ mới dùng các thứ phương
tiện chế ngự nó. Nếu tâm ấy dừng thì
tất cả pháp cũng theo đó mà lặng.
CHÁNH VĂN:
Nên nói: “tâm sanh các thứ pháp sanh, tâm diệt
các thứ pháp diệt”.
GIẢNG:
Bởi vì tâm sanh nên dùng các pháp điều
trị nó, tâm diệt rồi thì các pháp cũng phải
bỏ luôn.
CHÁNH VĂN:
Cho nên biết,
tất cả pháp đều do tâm tạo, cho đến
trời, người, a tu la, địa ngục… sáu đạo,
trọn do tâm tạo.
GIẢNG:
Tất cả pháp thế gian, lục đạo
luân hồi đều do tâm mà ra. Tâm nghĩ đường
nào liền đi đường đó, tâm tạo lập
ra mọi thứ.
CHÁNH VĂN:
Hiện nay
chỉ học không tâm, chóng dứt các duyên, chớ sanh
vọng tưởng phân biệt, không người không ta,
không tham không sân, không yêu không ghét, không hơn không thua.
GIẢNG:
Bây giờ chúng ta khéo tu là phải dứt các
duyên, đừng sanh vọng tưởng phân biệt.
Không phân biệt thì không thấy có người thật, có
ta thật, không thấy tham sân, không yêu không ghét, không hơn
không thua… biết tất cả những thứ ấy như
huyễn, không thật thì tâm sẽ dừng, không còn
chạy theo nó nữa.
CHÁNH VĂN:
Trừ hết
những thứ vọng tưởng này tánh tự xưa
nay thanh tịnh, tức là tu hành pháp Bồ-đề,
Phật…
GIẢNG:
Nếu người trừ hết vọng
tưởng hơn thua, phải quấy, hư thực v.v…
thì tánh thanh tịnh xưa nay hiện tiền. Tánh hiện
hiền là tu hành pháp Bồ-đề, tu hành pháp Phật.
CHÁNH VĂN:
Nếu không
hội ý này, dù ông học rộng, siêng năng khổ
hạnh tu hành, ăn cây mặc cỏ mà không biết tâm đều
gọi là hạnh tà, sau này sẽ thành thiên ma ngoại đạo
và các vị thần trong nước, trên đất, tu
hành như thế sẽ có lợi ích gì?
GIẢNG:
Ngài chỉ thẳng nếu chúng ta không
nhận được ý chỉ tu hành ngay nơi tâm mình
thì dù học nhiều, siêng năng tu khổ hạnh như
ăn lá cây, kết cỏ làm y phục… đều là
hạnh tà. Những người này sau khi chết sẽ
thành thiên ma, ngoại đạo và các vị thần trong nước,
trên đất. Tu hành như thế sẽ có lợi ích gì?
Tu để rồi thành thiên ma, ngoại đạo,
thần núi, thần sông v.v… thì tu để làm gì?
CHÁNH VĂN:
Ngài Chí Công nói: “Bản thể là tâm mình
nhận, đâu thể trong văn tự tìm”.
GIẢNG:
Bản thể chân thật ngay nơi tâm khéo
nhận, nó đâu có trong văn tự, chữ nghĩa.
CHÁNH VĂN:
Nay chỉ
nhận tâm mình, dừng bặt nghĩ tính, vọng tưởng
trần lao tự nhiên không sanh. Kinh Tịnh Danh nói: “Chỉ để một giường
bệnh mà nằm" tức là tâm không khởi
vậy.
GIẢNG:
Chỉ nhận được tâm mình,
dừng bặt những suy nghĩ tính toán, vọng tưởng
trần lao tự nhiên không sanh. Như trong kinh Tịnh Danh
nói “chỉ để một
giường bệnh mà nằm”. Cư sĩ Duy Ma
Cật khi bệnh, trong nhà ông chỉ để một giường
bệnh chính giữa mà thôi. Khi các vị Bồ-tát, La-hán đến
thăm thấy ông nằm một mình trên giường
bệnh, để biểu trưng tất cả đều
dứt hết, chỉ còn tâm chân thật thôi. Nằm
một mình là chỉ tâm không dấy động.
CHÁNH VĂN:
Nay nằm
bệnh, các phan duyên đều dứt, vọng tưởng
diệt sạch tức là Bồ-đề.
GIẢNG:
Bây giờ chỉ còn một tâm yên lặng,
mọi phan duyên dứt, vọng tưởng sạch,
gọi là Bồ-đề.
CHÁNH VĂN:
Nếu trong tâm
lăng xăng chẳng định, dù ông học đến
các vị tam thừa, tứ quả, thập địa,
chỉ là đến trong chỗ phàm thánh mà ngồi, các
hạnh hết trở lại vô thường, thế
lực đều có khi hết. Ví như bắn tên trong
không, sức đẩy hết lại rơi xuống đất,
trở lại vào trong sanh tử luân hồi. Người
tu hành như thế không hiểu ý Phật luống
chịu khổ nhọc, đâu không phải lầm to!
GIẢNG:
Nếu chúng ta không dứt hết vọng tưởng,
không nhận được Bồ-đề, trong tâm lăng
xăng không định, dù cho học tới tam thừa,
tứ quả, thập địa… chỉ ở trong chỗ phàm thánh mà ngồi, tức
là ngồi trong chỗ sanh diệt đối đãi, vô thường.
Cho nên tu mà có quả vị là còn ở trong vô thường.
Quả được rồi phải bỏ, như
vậy đi mãi cho tới cứu kính là chỗ chân
thật bất sanh bất diệt. Bây giờ ngay cái
bất sanh bất diệt chúng ta nhận lấy, sống
với nó thì khỏi qua tất cả cấp bậc. Như
vậy đường nào gần hơn? Đi từng
cấp bậc thì quanh co, đi thẳng thì dễ đến
thẳng. Bao giờ đường thẳng cũng
gần hơn. Cho nên ở đây gọi là đốn
ngộ, đi thẳng chớ không theo cấp bậc.
CHÁNH VĂN:
Ngài Chí Công nói: “chưa gặp thầy sáng ra đời,
uổng uống thuốc pháp Đại thừa”.
GIẢNG:
Nếu chúng ta tu mà không gặp những
bậc thầy sáng chỉ thẳng thì uổng uống
thuốc pháp Đại thừa. Dù tu pháp Đại
thừa cũng không được tâm Đại
thừa.
CHÁNH VĂN:
Hiện nay
chỉ trong tất cả thời đi đứng
ngồi nằm chuyên học không tâm, không phân biệt, không
nương tựa, không trụ trước, trọn ngày
mặc tình lặng lẽ, giống hệt người
ngu. Người đời hoàn toàn không biết ông, ông
cũng chẳng cần dạy cho người biết hay
chẳng biết, tâm như hòn đá nhẵn không tỳ vết,
tất cả pháp vượt qua tâm ông không phủng, cao
vót không dính mắc, như thế mới có ít phần tương
ưng.
GIẢNG:
Hiện nay
chỉ trong tất cả thời đi đứng
ngồi nằm chuyên học không tâm. Không tâm học làm
sao? Không tâm mà phải học, học đây là tập buông
cho tới không tâm. Buông bỏ là học không tâm. Không phân
biệt, không nương tựa, không trụ trước,
tức không dính mắc gì hết. Trọn ngày mặc tình
lặng lẽ, nếu suốt ngày không dính, không kẹt,
không suy nghĩ, không tính toán thì ngày đó mình khổ hay vui?
Thảnh thơi tuyệt vời.
Có người nào không muốn thảnh thơi
không? Ai cũng muốn thảnh thơi tại sao lại
không làm việc đó. Cứ ngồi lại nói chuyện
bên này bên kia, anh này phải, chị kia quấy lung tung.
Nhớ lung tung thì cái đầu không thể thảnh thơi
được. Muốn thảnh thơi thì phải để
cho tâm thảnh thơi. Ai thích phiền lụy thì làm
việc phiền lụy, còn muốn thảnh thơi mà đeo
đuổi việc phiền lụy là sai lầm.
Mặc tình
lặng lẽ, giống hệt người ngu. Người
đời hoàn toàn không biết ông, ông cũng không cần
dạy cho người biết hay không biết, khi tâm
rỗng lặng, không dính kẹt gì hết, người ta
thấy mình như khờ như ngu. Họ nói mình khờ
ngu cũng không cần cải chánh. Nếu ta không khờ
ngu thì cứ bình thản, lúc đó tâm như hòn đá
cụi láng lừ, không có gì dính được.
Tất cả
pháp vượt qua tâm ông không phủng, không có gì soi
phủng được tâm ông. Cao vót không dính mắc, như
thế mới có ít phần tương ưng, tu như
vậy mới thích hợp với pháp thân, bản tánh
của mình. Còn tu mà lăng xăng lộn xộn, không
hợp chút nào hết. Chúng ta ngồi tu, có ai đi ngang nói
ông đó ngu si không biết gì, mà trong tâm không cục
cựa nhúc nhích là khá rồi đó. Ngồi mà nghe khen trong
bụng thấy thích thích, nghe chê thấy đau đau
một chút, đó là bị tì vết rồi, bị soi
phủng rồi. Làm sao khen chê tới chúng ta vẫn thản nhiên tự
tại, đó là hòn đá mình đã nhẵn, không ai soi
thủng được mới có ít phần tương ưng.
CHÁNH VĂN:
Vượt qua
được cảnh tam giới gọi là Phật ra đời.
Tâm tướng không chảy gọi là trí vô lậu.
GIẢNG:
Hỏi thế nào là Phật ra đời?
Là khi tâm không còn khởi niệm đi trong tam giới.
Hỏi tu thế nào được trí vô lậu? Là tâm tướng
không chảy. Không chảy là không dính mắc, gọi là trí
vô lậu.
CHÁNH VĂN:
Không tạo
nghiệp người, trời, không tạo nghiệp địa
ngục, không khởi tất cả tâm, các duyên hết
chẳng sanh, tức thân tâm này là người tự
tại.
GIẢNG:
Tất cả nghiệp chúng ta không tạo
thì được gọi là người tự tại.
CHÁNH VĂN:
Không phải
một bề không sanh, chỉ là tùy ý mà sanh. Kinh nói: “Bồ-tát có ý sanh thân” ấy
vậy.
GIẢNG:
Khi không còn dấy khởi niệm, đừng
cho rằng không còn gì hết. Nếu nói không còn gì hết
là sai lầm, lúc đó vẫn còn có ý sanh thân. Ý sanh thân là
sao? Tức là chúng ta nghĩ độ chúng sanh ở cõi nào
liền hiện thân đến cõi ấy để độ,
cho nên nói Bồ-tát có ý sanh thân. Khi tâm ý thanh tịnh trọn
vẹn, tùy duyên thấy chúng sanh ở nơi nào đáng độ,
liền dấy niệm đến độ thì có thân
ở cõi đó. Đây gọi là ý sanh thân.
CHÁNH VĂN:
Nếu như
chưa lãnh hội “không tâm”,
chấp tướng mà tạo tác đều thuộc
về nghiệp quỷ, cho đến làm Phật sự
Tịnh độ thảy đều thành nghiệp,
gọi là Phật chướng.
GIẢNG:
Ngài Hoàng Bá nói nếu người chưa
lãnh hội được ý “không
tâm”, chấp tướng tạo tác đều
thuộc về nghiệp quỷ. Cho đến làm Phật sự Tịnh độ
thảy đều thành nghiệp, gọi là Phật chướng,
vì Tịnh độ là tu để tịnh nghiệp của
mình, sau đó sanh về cõi tịnh tu nữa, mới
chứng vô sanh pháp nhẫn. Nhiều người bảo
tu Tịnh độ chết được Phật đón
về Cực Lạc, còn tu Thiền chết không biết đi
đâu, chắc làm ma lang thang không có chỗ nương
tựa. Đó là hiểu lầm. Bởi vì Niết-bàn là vô
sanh, tâm không còn dính kẹt mới giải thoát sanh tử.
Bấy giờ Phật tánh hiện ra gọi là
Niết-bàn. Nếu còn có niệm cầu sanh nơi này, nơi
kia dù là sanh về Tịnh Độ, cũng chưa
phải cứu kính. Còn kẹt trong cõi Phật là còn chướng
ngại, nên nói Phật chướng.
CHÁNH VĂN:
Vì chướng
tâm nên ông bị nhân quả quản thúc, đứng đi đều
không có phần tự do…
GIẢNG:
Vì trong tâm còn chướng, còn dính mắc nên
bị nhân quả quản thúc, đứng đi đều
không có phần tự do. Như chúng ta không bằng lòng người
nào, mình đang đi mà thấy họ đứng đàng
kia thì không muốn đi về hướng đó nữa.
Vì trong tâm không vừa ý nên có chướng. Ngược
lại nếu mình thích người nào, dù chưa muốn đi
con đường đó nhưng thấy họ đứng
đàng kia cũng bước tới. Như vậy
cả hai đều do nhân quả quản thúc, nên ta
mất tự do. Có khởi niệm thì nó dẫn mình đi
đường này đường nọ, nếu không tâm
thì người ta là người ta, mình là mình, cần đi
thì đi, không cần thì thôi, không có gì vướng bận
hết.
CHÁNH VĂN:
Vì thế pháp
Bồ-đề… vốn không phải có, Như Lai nói ra đều
vì giáo hóa người, ví như cầm lá vàng nói là vàng để
vỗ trẻ con khóc. Cho nên thật không có pháp gọi là
A-nậu Bồ-đề.
GIẢNG:
Pháp Bồ-đề không có thực, song Đức
Phật vì giáo hóa chúng sanh nên ngài nói đây là pháp Bồ-đề
tâm, kia là cầu Bồ-đề quả. Đó là phương
tiện thôi.
Ví như
cầm lá vàng nói là vàng để vỗ trẻ con khóc.
Trong kinh thường hay ví dụ như bà mẹ sửa
soạn đi chợ, đứa nhỏ ở trong nhà
thấy vậy đòi đi, không cho đi nó khóc. Bà mẹ
mới lượm lá vàng ở ngoài đưa nói “mẹ cho con vàng đây”. Nghe
vàng nó mừng quá hết khóc, nhưng thật ra trong tay
chỉ là lá vàng chớ không có vàng. Cũng vậy, Phật
nói tất cả pháp là phương tiện để độ
chúng sanh, giống như ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay không phải là mặt trăng, nương ngón tay để
thấy mặt trăng, bởi vì mặt trăng mới
là chỗ cứu kính, chân thật. Chúng ta thường
lầm cho ngón tay là mặt trăng nên không nhận ra được
chỗ chân thật.
Nói tới tu thì phải tụng kinh,
ngồi thiền. Tụng kinh ngồi thiền là ngón tay,
nhưng người tu cứ lấy đó làm sở trường,
không biết Phật muốn chỉ cái gì. Nếu biết
nương lời Phật dạy nhận ra bản tâm,
thấy được Phật tánh của mình, đó
mới gọi là biết dùng phương tiện để
đạt được cứu kính. Đằng này
Phật nói ra chúng ta đọc lại cho Phật nghe.
Thầy dạy trò học thuộc lòng, đọc lại
cho thầy nghe. Cứ thế làm hoài không biết đi
tới đâu?
Gốc của đạo không phải
ở chỗ ngôn ngữ, kinh điển, mà từ ngôn
ngữ kinh điển chúng ta nhận ra cái gốc nơi
tự tâm. Tự tâm mình là tánh Bồ-đề nhưng
chúng ta lại không biết, cứ chạy theo bên ngoài, đó
là sai lầm. Cho nên ở đây nói không có pháp gọi là
A-nậu Bồ-đề.
CHÁNH VĂN:
Nếu đã
lãnh hội được ý này,
đâu cần phải ở chỗ riêng rẽ,
chỉ tùy duyên tiêu nghiệp cũ, lại chớ tạo
nghiệp mới, trong tâm sáng rỡ, nên nói “khi xưa thấy biết cần phải dẹp
sạch”.
GIẢNG:
Khi lãnh hội được ý này rồi,
không cần ở riêng một mình chỗ vắng, chỉ
tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc y xiêm. Như
vậy ở một mình trong thất cũng tốt, ra
thất tùy chúng sanh tùy huynh đệ cũng tốt.
Ở đâu cũng tùy duyên thôi. Nếu đòi ở trong
thất mới tu, ra ngoài tu không được hoặc có
người bảo bên ngoài lăng xăng thấy
khỏe, vô thất bó buộc quá không tu được.
Cả hai hạng người này có tùy duyên không? Không. Thành
ra chúng ta sống tùy duyên ở chỗ vắng một mình
cũng tốt, xông xáo hợp tác với huynh đệ
cũng tốt. Đó là tùy duyên tiêu nghiệp cũ,
hồn nhiên mặc áo xiêm.
Chúng ta cần hiểu rõ về câu “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ”.
Ví dụ lúc trước mình có làm mích lòng một huynh đệ
khiến vị ấy buồn. Bây giờ mỗi khi
thấy mặt mình, vị ấy không nói chuyện chỉ
ngó ngang thôi, mình làm sao đây? Thấy mình vị ấy
không vui, nhưng mình cứ vui chào lại, chào riết người
ta cũng sẽ hết giận. Còn thấy người
ta không nhìn, mình cũng ngó ngang chỗ khác thì biết
chừng nào hết nghiệp cũ? Đó là tu “tùy duyên tiêu nghiệp cũ”.
Đã có nghiệp cũ rồi, gặp duyên không thuận
chúng ta phải khéo xử sự để nghiệp cũ
mòn mất đi. Đó là hiểu rõ “tùy duyên tiêu nghiệp cũ”. Hồn nhiên mặc
áo xiêm tức là mặc áo ăn cơm một cách thanh
tịnh, yên lặng không dính niệm nào, nghĩ suy nào.
Nếu ai tùy duyên tiêu nghiệp cũ rồi,
lại chớ tạo nghiệp mới, trong tâm sáng rỡ
nên nói “khi xưa thấy
biết cần phải dẹp sạch”. Tất cả
thấy biết trước kia ngày nay phải dẹp
sạch. Chớ tạo
nghiệp mới, là người khôn ngoan. Nghiệp
cũ tùy duyên cho tiêu, nghiệp mới đừng tạo
nữa. Nếu người ta giận, mình khỏa
lấp lần lần bớt giận, mai mốt chọc
nữa thì chừng nào hết nghiệp? Cho nên bớt
nghiệp cũ rồi thì thôi đừng tạo thêm
nữa. Như vậy trong tâm mới sáng rỡ. Cho nên nói “khi xưa thấy biết
cần phải dẹp sạch”, tất cả niệm
buồn thương giận ghét trước đó bây
giờ dẹp sạch hết.
CHÁNH VĂN:
Kinh Tịnh
Danh nói: “Trừ bỏ
những gì đã có”.
GIẢNG:
Tức là trừ bỏ tất cả
những gì đã có trước kia cho sạch hết.
CHÁNH VĂN:
Kinh Pháp Hoa nói: “Trong mười hai năm thường
dạy trừ phẩn”.
GIẢNG:
Đó là hình ảnh chàng cùng tử trở
về quê, gặp cha rồi nhưng chưa dám nhìn cha. Ông
cha biết nhưng không trực tiếp gọi lại,
bảo người quản gia dạy chàng cùng tử mười
hai năm dẹp phân cho sạch. Ý này để chỉ
tất cả nghiệp cũ đều phải bỏ
sạch hết.
|