| 
      ĐOẠN 7 CHÁNH VĂN:  
   Chỉ trừ
  bỏ chỗ thấy biết trong tâm, lại nói “dẹp trừ phẩn hý
  luận”.  GIẢNG:   Tất cả những trò đùa cợt
  phải dẹp bỏ hết. CHÁNH VĂN:  
   Vì thế, Như
  Lai Tàng vốn tự không lặng trọn không dung chứa
  một pháp, nên kinh nói “cõi nước
  chư Phật cũng đều không”. GIẢNG:   Trong kinh dạy dẹp hết tất
  cả dính mắc từ xưa đến giờ. Nên nói
  trong Như Lai tàng vốn
  tự không lặng, trọn không dung chứa một pháp,
  nên kinh nói “cõi nước chư
  Phật cũng đều không”, tức là trong kho Như
  Lai rỗng không vắng lặng, không dính mắc một
  vật gì. CHÁNH VĂN:  
   Nếu nói
  Phật đạo tu học mà được, thấy
  biết như thế hoàn toàn không liên hệ. Hoặc
  tạo một cơ một cảnh, nhướng mày
  chớp mắt, chỉ vì đối người đương
  cơ nói để khế hội. Được
  chứng ngộ thiền lý, chợt gặp một người
  không hiểu bèn nói, trọn không biết đối cơ
  người kia, nếu họ được đạo
  lý trong tâm liền hoan hỷ, nếu bị người
  khác chiết phục không bằng họ, trong tâm ôm ấp
  buồn bã. Người học thiền tâm ý như
  thế có gì được liên hệ.  GIẢNG:   Nếu nói
  Phật đạo tu học mà được, thấy
  biết như thế hoàn toàn không liên hệ, nói tu
  học mà được Phật đạo thì Phật đạo
  sanh diệt vô thường. Hoặc
  tạo một cơ một cảnh, nhướng mày
  chớp mắt, là hét là đánh v.v… chỉ vì đối người đương cơ
  nói để khế hội, chớ không phải pháp
  cố định.  Được
  chứng ngộ thiền lý, chợt gặp một người
  không hiểu bèn nói, trọn không biết đối cơ
  người kia, nếu họ được đạo
  lý trong tâm liền hoan hỷ, nếu bị người
  khác chiết phục không bằng họ, trong tâm ôm ấp
  buồn bã. Người học thiền tâm ý như
  thế có gì được liên hệ. Đây là nói người
  đã hiểu được một chút ít thiền lý
  rồi, thuyết giảng lại cho người, họ
  hiểu được, lòng sanh vui thích cho mình đã thành
  công. Nếu gặp ai bẻ lại, lý mình không trôi thì sanh
  lòng buồn bực. Như vậy là chưa thâm nhập được
  lý thiền.  CHÁNH VĂN:  
   Dù ông hội được
  ít phần đạo lý, chỉ là được cái tâm
  sở pháp, thiền đạo không liên hệ. Sở
  dĩ Tổ Đạt Ma mặt xây vô vách, đều
  khiến cho người không có chỗ thấy, nên nói: “quên cơ là Phật đạo,
  phân biệt là cảnh ma”. GIẢNG:   Đây nói rõ cho dù mình hội được
  một chút ít đạo lý, cũng thuộc về tâm
  sở pháp, chớ chưa phải thiền đạo.
  Tổ Đạt Ma khi sang Trung Hoa tới chùa Thiếu Lâm,
  ngồi xây mặt vào vách chín năm để làm gì? Để
  quên cơ, quên cảnh, không còn có chỗ thấy, chớ
  không phải ngồi tránh khách. Quên cơ là gần với
  Phật đạo. Người nào phân biệt lanh lẹ
  đó là cảnh ma. Người buông hết muôn duyên, cơ
  hội đến với mình, không dính mắc, đó là
  Phật đạo. CHÁNH VĂN:  
   Tánh này dù khi ông
  mê cũng không mất, khi ngộ cũng không được,
  tự tánh thiên chân vốn không mê ngộ, hư không
  giới khắp giáp mười phương nguyên lai là
  một tâm thể của ta. Dù ông động dụng
  tạo tác đâu rời hư không. Hư không xưa nay
  không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi, không mê không
  ngộ, thấy rõ ràng không một vật, cũng không người
  không Phật, nếu có lượng bằng mảy tơ,
  cũng không nương tựa, không ràng rịt. Một đạo
  trong sạch trôi chảy là tự tánh, pháp nhẫn vô sanh đâu
  có nghĩ bàn. Chân Phật không miệng chẳng biết
  nói pháp, thật nghe không tai thì cái gì được nghe?
  Trân trọng! GIẢNG:   Tánh này là tánh
  giác của chúng ta, nó không mê không ngộ, không được
  không mất. Tự tánh thiên
  chân là tự tánh sẵn có chân thật. Chữ thiên này
  không phải thiên lệch một bên, mà thiên là sẵn.
  Tự tánh chân thật, vốn không mê ngộ. Hư không giới khắp giáp mười
  phương nguyên lai là một tâm thể của ta, trùm
  khắp, không riêng biệt bên nào.  Dù ông động
  dụng tạo tác đâu rời hư không, dụ như
  mọi hoạt động tạo tác của chúng ta, không
  có hoạt động nào rời ngoài hư không. Cũng
  vậy tất cả hoạt dụng của tâm không
  rời tự tánh chân thật. Tự tánh không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi. Vì vô
  lậu vô vi nên không có tướng sanh diệt. Không mê không ngộ, thấy rõ
  ràng không một vật. Tại sao không một vật
  mà thấy rõ ràng? Như hiện giờ chúng ta thấy
  tất cả mọi vật trước mắt, là
  nhờ có hư không. Nếu không có khoảng trống làm
  sao chúng ta thấy được mọi vật chung quanh.
  Như vậy tất cả vật ta thấy, có cái nào
  ngoài hư không đâu.  Cũng thế, tâm thể trùm khắp, nhưng
  không có tướng cũng như hư không vậy. Các tướng
  chúng ta thấy đều là tướng sanh diệt, còn
  tâm thể không sanh diệt, dụ như hư không. Nó như
  hư không chớ không phải hư không, vì hư không vô
  tri, còn tâm thể là tri giác. Tâm thể khác với hư
  không là thế, song vì thể của nó rỗng không, không có
  tướng mạo nên nó thường được
  dụ giống như hư không, không một vật.  Cũng không người
  không Phật, nếu có lượng bằng mảy tơ,
  cũng không nương tựa, không ràng rịt. Một đạo
  trong sạch trôi chảy là tự tánh, pháp nhẫn vô sanh đâu
  có nghĩ bàn. Chỗ ấy không còn một mảy may
  dính mắc, không thể nghĩ bàn.  Chân Phật
  không miệng chẳng biết nói pháp, thật nghe không tai
  thì cái gì được nghe? Chân Phật không biết
  nói pháp, còn cái thật nghe không phải ở lỗ tai, như
  vậy lấy cái gì để nghe? Chân Phật là tri giác
  bất sanh bất diệt, còn nói pháp thì có sanh diệt nên
  nói chân Phật không biết nói pháp. Còn tánh nghe chân thật
  của chúng ta không có tai. Tại sao? Vì tánh nghe đâu có hình
  tướng. Lỗ tai có hình tướng, tánh nghe không hình
  tướng nên nói không có tai.  CHÁNH VĂN:  
   Một hôm, Sư
  thượng đường chỉ dạy đại
  chúng: Về trước, nếu đập không thấu
  triệt, đêm ba mươi tháng chạp đến
  rồi, bắt buộc ông bứt rứt rối loạn.
  Có một bọn ngoại đạo vừa thấy người
  nói tập công phu bèn cười lạt, bảo: “vẫn còn cái đó”. Tôi
  hỏi ông, bỗng nhiên giờ mạng chung sắp đến,
  ông lấy cái gì để chống cự sanh tử? Ông
  hãy suy nghĩ xem, có đạo lý nào được
  gọi là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên ư? Có
  một bọn thần lười, quỷ rỗi vừa
  thấy người có chút bệnh, bèn bảo: “Ông hãy buông xuôi đi!” Đến
  khi bọn ấy mắc bệnh, đem chỗ lý hội
  áp dụng chẳng được, tay chân co rút rối
  loạn, mặc sức da thịt ông đau nhức như
  dao cắt, làm chủ không được. Muôn việc lúc
  rảnh rỗi cần phải giải quyết cho xong, đến
  khi mê loạn mới đắc dụng, phải có ít
  nhiều sức tỉnh giác, chớ đợi sắp
  khát mới đào giếng. Trói tay khóa chân lại gặp
  chỗ cọp sói đuổi cắn làm sao chạy tránh, đường
  trước tối tăm? Tín thí cúng cơm trắng rau tươi,
  bây giờ bị dùi bị đánh. Khổ thay! Khổ
  thay! GIẢNG:  
   Đoạn này ngài dạy nếu trước
  đập phá không thấu triệt thì đến ba mươi
  tháng chạp là giờ sắp lâm chung, bắt buộc ông
  phải bứt rứt phải rối loạn, thân này
  bị hành hạ khổ sở. Bấy giờ mới nói,
  có một bọn ngoại đạo
  vừa thấy người nói tập công phu bèn cười
  lạt, bảo: “vẫn còn cái đó”. Tôi hỏi ông,
  bỗng nhiên giờ mạng chung sắp đến, ông
  lấy cái gì để chống cự sanh tử?
  Ngoại đạo đây cũng là ngoại đạo
  trong nhà Phật, họ nói người tu cần gì công phu.
  Nếu không công phu thì khi cái chết đến làm sao
  chống cự nổi?  Chính vì điểm này mà tôi bắt Tăng Ni
  phải ngồi thiền tới hai tiếng đồng
  hồ, đau chân gần chết mà cũng phải ráng
  ngồi. Bởi vì cái đau chân trong lúc ngồi thiền
  còn nhẹ hơn cái đau lúc sắp ra đi. Sắp ra đi
  không phải đau chân thôi mà đau cả thân thể.
  Trong kinh diễn tả như con cua bị lột vỏ
  vậy, da thịt chỗ nào cũng đau, lúc đó làm
  sao chịu nổi? Bấy giờ tập đau cái chân,
  sau nó đau nhiều hơn một chút mình cũng chịu
  được. Ngày nay cứ sợ đau, chừng đó
  đau quá, nhào lộn, khổ sở rên rỉ, có nguy
  hiểm không? Như vậy tập công phu là một phương
  pháp để chúng ta có sức mạnh chống cự
  với sanh tử. Còn không chịu tập thì sanh tử đến
  biết làm sao? Ngài đặt câu hỏi:  Ông hãy suy
  nghĩ xem, có đạo lý nào được gọi là Di
  Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên ư? Có đức
  Di Lặc nào trời sanh ra hay đức Thích Ca nào tự
  nhiên thành Phật không? Phật Thích Ca phải khổ
  hạnh sáu năm, ngồi cội Bồ-đề
  bốn mươi chín ngày đêm, sau mới thành Phật,
  tất cả đều do công phu tu tập mà ra. Đức
  Di Lặc cũng vậy, sở dĩ ngài thành Phật
  trễ hơn đức Thích Ca vì đời quá khứ
  ngài lười hơn Phật Thích Ca một chút, cho nên tu đồng
  thời mà ngài thành Phật trễ hơn. Điều này
  cho chúng ta thấy người tu không thể không có công
  phu, nhưng nếu có công phu mà chấp vào công phu là
  họa. Phải phá hết cái chấp thật của mình,
  phá được các thứ chấp công phu rồi
  mới thành công.  Chúng ta ngồi thiền ngày đêm sáu
  giờ để làm gì? Để phá mê. Vì lâu nay chúng ta
  lầm cho vọng tưởng là tâm mình, bây giờ nó
  hiện lên phải phá đập. Phá đập riết
  mấy chú vọng tưởng sẽ lặng, có thế
  việc tu mới tiến, mới thành công. Nhưng
  muốn phá mê cũng cần có thời gian, không phải
  biết vọng tưởng là nó hết liền, vì
  vậy phải có công phu.  Do đó những người cho công phu không
  có ý nghĩa gì, được xem là: Có một bọn thần lười, quỷ
  rỗi, vừa thấy người có chút bệnh, bèn
  bảo: “Ông hãy buông xuôi đi!”,
  thần lười quỷ rỗi thấy người tu
  liền chê cười, cho đó là chướng ngại,
  bảo buông hết đi. Đến
  khi bọn ấy mắc bệnh, đem chỗ lý hội
  áp dụng chẳng được, tay chân co rút rối
  loạn, mặc sức da thịt ông đau nhức như
  dao cắt, làm chủ không được. Muôn việc lúc
  rảnh rỗi cần phải giải quyết cho xong, đến
  khi mê loạn mới đắc dụng, phải có ít
  nhiều sức tỉnh giác, chớ đợi sắp
  khát mới đào giếng. Trói tay khoá chân lại gặp
  chỗ cọp sói đuổi cắn làm sao chạy tránh, đường
  trước tối tăm? Tín thí cúng cơm trắng rau tươi,
  bây giờ bị dùi bị đánh. Khổ thay! Khổ
  thay! Ngài nói hậu quả khổ của những người
  không chịu tu. CHÁNH VĂN:    Ngày thường
  chỉ học Tam muội ở ngoài miệng, nói Thiền
  nói Đạo, nạt Phật trách Tổ, đến
  chỗ này rồi hoàn toàn dùng không được. Ngày thường
  chỉ nhằm lừa người, đâu biết đến
  nay là tự dối mình. Trong địa ngục A Tỳ
  quyết định không thể thả ông. GIẢNG:   Những kẻ cứ nói bằng miệng
  mà không chịu tu tới nơi, sau này mới thấy
  khổ. CHÁNH VĂN:  
   Nay sắp chìm
  trong thời mạt pháp, cốt phải nhờ sức
  mạnh của mình. Chư huynh đệ!
  Cố gắng gánh vác huệ mạng Phật tiếp
  nối chớ để đoạn dứt. Thời nay
  vừa có một người, nửa người đi
  hành khước, cốt đi để xem sơn
  ngoạn cảnh, không biết tháng ngày đâu có chờ ta,
  một hơi thở ra không trở lại đã qua đời
  khác, chưa biết cái gì là đầu mặt. Than ôi!
  Khuyên các huynh đệ khi thân thể còn cường tráng
  phải nhận được cái chỗ thấu
  hiểu của mình, không bị người ta lừa là
  một phần việc lớn. Cái then chốt này rất
  là dễ dàng, tại tự ông không chịu nhận thôi. GIẢNG:   Việc tự tham cứu tu hành thật ra
  rất dễ, tự mình không chịu nhận thôi, chớ
  không phải khó. Đây là lời khuyên nhắc của ngài
  khi mạng căn sắp kết thúc. CHÁNH VĂN:  
   Người có
  chí liều chết thực tập công phu, chỉ
  ngoại đạo khó hiểu rõ, khó đạt được.
  Đâu thể dạy ông biết được trên cây
  tự sanh bắp trầm. Ông phải tự khéo chuyển
  biến mới được.  GIẢNG:   Người đi tìm trầm, đâu có ai chỉ
  cây A, cây B có bắp trầm. Phải tới nơi khéo tìm,
  khéo nhận ra mới được. CHÁNH VĂN:  
   Nếu là
  bậc trượng phu khán công án, như có vị Tăng
  hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tánh hay không?”, Châu đáp: “Không:”. Kia đi rồi, trong mười
  hai giờ khán một chữ “Không”. Ngày tham, đêm tham, đi
  đứng ngồi nằm, chỗ mặc y ăn cơm,
  chỗ đi tiểu đi đại, tâm tâm xem nhau, chăm
  bẳm tỉnh sáng, chỉ giữ một chữ “Không”,
  lâu ngày chày tháng đập thành một khối, bỗng
  nhiên tâm hoa tự sanh, ngộ được máy mầu
  của Phật Tổ, bèn không bị đầu lưỡi
  lão Hoà thượng trong thiên hạ lừa, hội rồi
  mới mở đại khẩu. GIẢNG:   Người khán công án
  phải chăm chăm như vậy đó, khả dĩ
  có chút kết quả tương ưng, không bị
  kẹt trên ngữ cú của các bậc tông sư. CHÁNH VĂN:  
   Tổ Đạt
  Ma từ Ấn Độ sang không gió nổi sóng. Thế
  Tôn giơ cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Đến
  được chỗ ấy nói gì lão Diêm La, đến
  ngàn thánh còn không bì được ông. Không tin nói, hẳn có
  nhóm kỳ đặc rất tột như thế,
  việc chỉ sợ người có tâm. GIẢNG:   Ngài nhắc lại Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang không
  gió nổi sóng. Nghĩa là thiền tông Trung Hoa bấy
  giờ chưa phát triển, ngài qua làm cho ngọn sóng
  thiền dấy khởi, nên nói dậy sóng ầm ầm. Thế Tôn giơ cành hoa cả
  hội đều ngơ ngác. Đến được
  chỗ ấy nói gì lão Diêm La, đến ngàn thánh còn không bì
  được ông, đến đó rồi Diêm La
  cũng không làm gì được, ngàn thánh cũng không bì
  nổi. Tại sao? Như Thanh văn, Duyên giác hay
  Bồ-tát từ sơ địa tới thập địa
  v.v… cũng chưa sống trọn vẹn với bản
  tâm thanh tịnh. Nếu người nào tới được
  chỗ đó thì đâu còn gì ngăn ngại nữa nên nói
  ngàn thánh không bì nổi. Không tin nói,
  hẳn có nhóm kỳ đặc rất tột như
  thế, việc chỉ sợ người có tâm, không
  tin có một nhóm kỳ đặc như vậy là tại
  vì có tâm, nếu vô tâm thì ai cũng làm được
  việc kỳ đặc ấy hết. Cho nên ngài làm bài
  tụng: CHÁNH VĂN:  
   Tụng: Trần lao
  quýnh thoát sự phi thường, Hệ bã
  thằng đầu tố nhất trường, Bất thị
  nhất phiên hàn triệt cốt, Tranh đắc
  mai hoa phốc tỷ hương. Dịch: Vượt khỏi trần lao
  việc chẳng thường,  Đầu dây nắm chặt
  giữ lập trường, Chẳng phải một phen xương
  lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương. GIẢNG:   Không ai bỗng dưng được thành
  tựu cả mà phải có công phu. Công phu đó không
  phải để thành Phật mà để dẹp
  trần lao phiền não. Trần lao phiền não hết,
  Phật đạo tự hiện, không phải do tu mà
  thành Phật. Đó là lẽ thực |