TIỂU SỬ
THIỀN SƯ HOÀNG
BÁ
CHÁNH VĂN:
Ngài hiệu Hy
Vận, người tỉnh Mân (tỉnh Phước
Kiến), Hồng Châu, thuở nhỏ xuất gia tại
bổn châu trên núi Hoàng Bá. Trên trán Ngài có cục thịt
nổi vun lên như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý chí đạm
bạc.
GIẢNG:
Các tỉnh của Trung Hoa rất lớn nên
trong tỉnh có chia ra Châu, Huyện. Châu là chỗ thị
tứ, thành phố của tỉnh, dưới Châu là
Huyện. Ngài người tỉnh Phước Kiến, tướng
tốt to lớn, trên trán có nổi cục thịt đỏ.
Đây là những phước tướng đặc biệt.
Âm thanh trong trẻo, ý chí đạm bạc, thích sống đơn
giản.
CHÁNH VĂN:
Đi dạo
núi Thiên Thai, Ngài gặp một vị Tăng nói chuyện
với nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn
kỹ là người Mục quang xạ. Hai người
cùng đi gặp khe suối, nước đầy
chảy mạnh, Ngài lột mũ chống gậy
dừng lại, vị Tăng kia thúc Ngài đồng qua.
Ngài bảo:
-
Huynh
cần qua thì tự qua.
Vị Tăng
kia liền vén y bước đi trên sóng như đi trên đất
bằng. Qua đến bờ vị Tăng kia xoay lại
hối:
-
Qua đây!
Qua đây!
Ngài bảo:
-
Dốt!
Ấy tự rõ. Tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi
anh.
Vị Tăng
kia khen:
-
Thật là
pháp khí Đại thừa, tôi không bì kịp.
Nói xong không
thấy vị Tăng ấy nữa.
GIẢNG:
Đây là điểm đặc biệt
của nhà Thiền. Mục quang xạ tức là người
đã chết. Mục là con mắt, quang là áng sáng, xạ
là rơi, là rớt. Đôi mắt mất ánh sáng là chỉ
người chết. Ngài gặp vị Tăng thấy
quen nhưng nhìn kỹ thì biết đã chết rồi,
bây giờ do duyên cũ nên cùng đi với Ngài. Hai người
tới bờ suối lớn, nước suối
chảy mạnh, vị Tăng muốn trổ tài, bảo
Ngài qua. Ngài là Thiền sư không có phép mầu gì hết,
nên nói huynh qua được cứ qua. Vị Tăng
nọ vén áo bước đi trên sóng như đi trên đất
bằng. Qua bờ kia, vị Tăng xoay lại thúc “Qua đây, qua đây”.
Nếu là chúng ta, thấy bạn đi trên nước
như vậy chắc sẽ khiếp vía, muốn đảnh
lễ ngay. Nhưng ngược lại, Ngài nghe thúc
liền nói “Dốt! Ấy tự rõ”. Tự rõ là sao? Người
tu nếu có thần thông, có phép lạ thì tự biết
chớ đừng khoe, khoe là không tốt. Cho nên Ngài
quở dốt, do dốt mới nói như thế. Mình có
thần thông thì tự biết, khoe với người ta
làm chi. “Nếu tôi sớm
biết sẽ chặt bắp đùi anh”, nếu
hồi nảy tôi biết anh dùng thần thông sẽ
chặt đùi anh cho coi. Bị chê vậy mà vị Tăng
ấy lại khen thiền sư “thật là pháp khí đại thừa, tôi không bì
kịp”. Sao lạ vậy? Pháp khí đại thừa có
đặc biệt gì? Đây là những điều quan
trọng người tu thiền không nên lầm lẫn.
Hầu hết người tu ai cũng thích
có thần thông. Nếu hôm nào mình ngồi thiền,
bỗng phát quang rồi bay lên không trung, chắc là thích
lắm. Bao nhiêu đó đủ cho huynh đệ phục
lăn rồi. Đây là điều nhà Thiền cấm
kỵ nhất. Tại sao vậy? Bởi vì người
tu Thiền cốt nhìn cho ra, thấy cho được
thể tánh bất sanh bất diệt hay Phật tánh
của mình. Đó là gốc của sự tu, chớ không
cầu, không luyện thần thông phép lạ. Nếu
cầu luyện thần thông phép lạ là lệ thuộc
ở bên ngoài, không phải sống trở về tánh giác,
mà chỉ có trở về tánh giác mới thành Phật. Thâm
ý của nhà Thiền không phải tập luyện thần
thông, mà tu thế nào để sống trở lại
với tâm chân thật của chính mình.
Ở chỗ khác có kể về một
Thiền sư sống trên núi. Lúc Ngài xuống núi, gặp
một đạo sĩ tu tiên, mới kết bạn đồng
hành. Hôm nọ cùng đi với nhau tới con sông nước
chảy mạnh, mà đò đã qua bên kia không có ở
bến bên này. Vị Thiền sư dừng lại
chờ, vị đạo sĩ kia thấy vậy xúi đi
qua. Thiền sư nói “huynh đi
được thì cứ đi, tôi chờ đò qua
mới đi”. Vị đạo sĩ vén áo bước
trên mặt nước đi qua bên kia. Đứng bên kia đạo
sĩ nhìn thấy Thiền sư còn chờ đò, ông cười
ngạo nghễ rồi đứng chờ. Lát sau
Thiền sư xuống đò qua sông. Tới nơi
Thiền sư hỏi đạo sĩ “huynh tập luyện đi được trên nước,
thời gian bao lâu?” Đạo sĩ đáp “tôi tập tới ba mươi
năm mới đi được”. Thiền sư cười
bảo “công phu ba mươi năm
của huynh giá đáng có hai xu”.
Chúng ta nghe câu nói này thấy thế nào? Rõ
ràng các Thiền sư không chú trọng đến sự
luyện tập thần thông. Tại sao nhà Thiền
lại coi thường thần thông như vậy? Thường
thường nhà Phật nói “thần
thông diệu dụng”, tức thần thông là dụng
mầu nhiệm chớ không phải là giá trị chân lý, mà
người tu Phật phải đạt được
chân lý chớ không phải tìm sự mầu nhiệm
tạm thời.
Như Ngài Mục Kiền Liên là thần
thông đệ nhất trong đệ tử Phật, nhưng
tới khi mẹ Ngài chết sanh cõi dữ, Ngài dùng thiên
nhãn tìm gặp mẹ rồi, thấy mẹ đói quá, Ngài
xin được bát cơm, vận thần thông đến
dâng cho mẹ. Khi bà vừa bưng bát cơm, liền
lấy tay áo che lại sợ người ta giựt, sau đó
bà bốc cơm bỏ vô miệng, cơm hóa thành than ăn không được. Tại sao lúc đó
Ngài không dùng thần thông thổi tắt lửa cho mẹ ăn,
mà lại đứng khóc. Rõ ràng thần thông thua cái
nghiệp. Nghiệp tham của bà quá nặng. Khi nghiệp
tham quá nặng thì cơm hóa ra lửa, thần thông của
ngài Mục Kiền Liên không thể cứu được
nghiệp tham của bà, nên Tôn giả đành phải khóc
trở về. Đó là bất lực thứ nhất.
Bất lực thứ hai, đến khi Ngài
sắp từ giã cõi đời bị bọn cướp
vây đánh. Sao lúc đó Ngài không bay đi, mà phải
chịu đòn nhừ tử. Vì Ngài biết mình không còn
trở lại cõi đời nữa nên phải trả
nghiệp cũ cho xong mới có thể xả báo thân được.
Sau khi bọn cướp bỏ đi, Ngài mới vận
thần thông về đảnh lễ Phật, ít hôm sau thì
mất. Khi đó các thầy tỳ kheo hỏi Phật vì
sao Ngài Mục Kiền Liên có thần thông mà không bay đi để
thoát nạn? Phật trả lời nghiệp cũ
của Mục Kiền Liên thuở xưa còn lại. Đây
là thân chót cho nên tất cả nợ cũ trả hết
mới được vô sanh, Niết-bàn. Nếu thần
thông không cứu được nghiệp, thì nó quí hay không
quí? Thần thông chỉ dùng tạm thôi, có gì quan trọng.
Nhưng người phàm tục rất trọng thần
thông, nghe ai có thần thông thì lạy lên, lạy xuống
không ngán chút nào hết, vì quá quí trọng thần thông. Đó
là điểm khác nhau giữa người đời và người
tu theo Phật.
Trong kinh A Hàm kể, vua Ba Tư Nặc thưa
với Phật trong nước ông có một vùng người
dân rất thích thần thông huyền bí, không thèm nghe đạo
lý, vì vậy xin đức Phật dùng thần thông giáo hóa
họ. Đức Phật trả lời “Ta không dùng thần thông giáo hóa, mà chỉ dùng đạo
thông thôi”. Như vậy từ Đức Phật cho
tới đệ tử Ngài, những vị tu hành chân
chánh đều dùng đạo thông làm gốc, còn thần
thông chỉ là phương tiện phụ thôi.
Người thời nay vì không biết, cho
cái gì kỳ quặc, lạ lùng là quí, không biết gốc
quí báu ở chỗ thấu suốt đạo lý, thấy
được lẽ thật. Người học đạo
Phật là học chân lý, tìm nhận cho ra chân lý. Còn người
ham huyền bí, những thứ lạ lùng thì chưa
phải là người chân chánh học Phật. Hiểu như
vậy chúng ta mới hiểu ý của đoạn này,
nếu không chúng ta sẽ lấy làm lạ, người có
thần thông tại sao bị xem thường, người
không có thần thông lại được khen.
Thêm một chuyện nữa về thần
thông. Có một ngoại đạo tu chứng được
ngũ thông, tức là có thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm,
thần túc, túc mạng. Ông giảng kinh người ta khen
rất hay, tới vua trời Đế Thích cũng mê
nữa. Hôm đó, nghe giảng kinh xong vua trời Đế
Thích ngồi khóc. Ông thấy lạ quá, liền hỏi “tại sao hôm nay nghe tôi
giảng Ngài lại khóc?” Trời Đế Thích đáp
“Ngài giảng thật hay nhưng
tôi biết mạng sống Ngài sắp hết, tôi thương
tiếc nên khóc”. Nghe vậy vị ấy hoảng,
hỏi Đế Thích làm sao để khỏi chết?
Trời Đế Thích giới thiệu “nếu ông muốn khỏi chết phải tìm đến
chỗ Phật Thích Ca, Ngài sẽ chỉ cho phương
pháp khỏi chết”. Nghe vậy vị ấy mừng
quá hỏi “bây giờ Phật
Thích Ca ở đâu?” Trời Đế Thích giới
thiệu đang ở tại Tinh xá Trúc Lâm. Vị ấy
vận thần thông đi đến chỗ Phật. Ông đi
trên mây được một đổi thì nghĩ, mình
tới Phật mà không có gì cúng dường khó coi quá. Khi
ấy nhìn xuống thấy hai cây ngô đồng trổ
hoa thật đẹp, ông vận thần thông nhổ hai
cây để trên hai tay rồi bay đến chỗ
Phật.
Tới Trúc Lâm hạ xuống, ông cầm hai
cây ngô đồng dâng cúng Phật. Khi dâng cúng ông hỏi “Bạch Thế Tôn, làm thế
nào để khỏi chết?” Phật bảo “buông”. Ông buông một tay,
rớt cây ngô đồng xuống. Phật bảo “buông”, ông buông một tay
nữa, rớt cây ngô đồng thứ hai xuống.
Phật lại bảo “buông”,
ông ngẩn ngơ không biết buông cái gì nữa, nên
hỏi Phật “con buông
hết hai tay, rớt hết hai cây ngô đồng
xuống, bây giờ còn gì nữa mà Phật bảo buông”.
Phật nói “không phải Ta bảo
ngươi buông cây ngô đồng, mà buông thứ nhất
là buông sáu trần, đừng cho nó dính. Buông thứ hai là
buông sáu căn, đừng chạy theo sáu trần. Buông
thứ ba là buông sáu thức, đừng cho nó dấy động.
Buông ba cái đó thì ông khỏi chết”. Ngay đó
vị kia liền ngộ ra, trở về tu và chứng
quả A La Hán, không còn sanh tử nữa.
Như vậy
mới thấy thần thông không cứu được
mình. Đi trên mây xanh, nhổ ngô đồng cầm trên
tay, vận dụng đủ thứ hết, mà không
chống được ma sanh tử. Gốc của đạo
Phật là tu giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát
sanh tử trước phải giác ngộ cái không sanh
tử, để sống với nó. Đó là chúng ta tu,
chớ không phải luyện tập thần thông,
luyện tập bùa chú, đó không phải là phương
pháp cứu mình.
CHÁNH VĂN:
Sau Ngài đến
Kinh đô, nhờ người mách đến tham với
Tổ Bá Trượng.
Ngài hỏi Bá
Trượng:
-
Từ trước
Tông thừa chỉ dạy thế nào?
Bá Trượng
lặng thinh. Ngài thưa:
-
Không
thể dạy người sau dứt hẳn mất.
Bá Trượng
bảo:
-
Sẽ nói
riêng với ông.
Bá Trượng
đứng dậy đi vào phương trượng.
Ngài cũng đi
theo sau thưa:
-
Con đến
riêng một mình.
Bá Trượng
bảo:
- Nếu
vậy ông sau sẽ không cô phụ ta.
GIẢNG:
Ngài đi tới Tổ Bá Trượng
hỏi “Từ trước
Tông thừa chỉ dạy thế nào?” Tông thừa hay
Thiền tông cũng tương tự như nhau. Hỏi
Thiền tông chỉ dạy thế nào? Tổ Bá Trượng
lặng thinh không nói. Như vậy có tàn nhẫn không? Người
ta tha thiết hỏi đạo lý mà không nói gì hết.
Ngài Hoàng Bá thưa “không thể dạy người sau dứt hẳn
mất”, nếu không dạy người thì sau này còn ai
nối tiếp. Bá Trượng bảo sẽ nói riêng
với ông. Vậy trọng tâm chỗ chỉ dạy Tông
thừa thế nào? Bá Trượng làm thinh là dạy chưa,
có nói chỗ yếu lý của Tông thừa không? Chỗ
yếu lý của Tông thừa vượt ngoài đối đãi,
mà ngôn ngữ là đối đãi, nên mở miệng nói
thì sai, vì vậy Tổ làm thinh. Ngài Hoàng Bá sợ như
vậy người sau không thể học hiểu? Tổ
Bá Trượng bảo sẽ nói riêng với ông. Cho nên
Tổ đi vào phương trượng, Hoàng Bá đi
theo.
Ở đây chúng ta không thấy Tổ Bá Trượng
dạy cái gì, cũng không thấy ngài Hoàng Bá nói ngộ chi,
mà thầy trò lại có chỗ kế thừa. Đó là
chỗ đặc biệt của nhà thiền. Vì chỗ
lặng thinh đó, không thể nào hiểu nổi, mà không
hiểu nổi là đúng hay không đúng? Vừa khởi
hiểu là đã xa muôn dặm, cho nên ngay chỗ lặng
thinh mà nhận thì được. Ngài Bá Trượng
lặng thinh, thiền sư Hoàng Bá có hội ý không? Ngài
bảo “không thể dạy người
sau sẽ dứt hẳn mất”, Bá Trượng
bảo sẽ nói riêng với ông. Tổ Bá Trượng đi
vào phương trượng Ngài cùng đi theo sau, nói “con đến riêng một mình đây”.
Bá Trượng bảo “nếu
vậy ông sau sẽ không cô phụ ta”. Tổ dạy cái
gì mà nói không cô phụ ta? Thầy trò đối xử
rất bình thường thì chỗ nào mà thâm nhập được,
lại nói sẽ không cô phụ ta?
Chỗ còn nói năng là còn hai, bặt nói năng
thì hai hay một? Vì vậy, Hoàng Bá nói con tới một
mình thôi, Tổ bảo sau ông sẽ không cô phụ ta. Nói
một tí thôi mà thật là nhẹ nhàng nhanh chóng, nghe
liền hiểu nhau, coi như thầy trò đã thông
cảm. Thế là ngài Hoàng Bá được Tổ Bá Trượng
ấn chứng.
CHÁNH VĂN:
Một hôm, Bá
Trượng bảo:
-
Ở đâu
đến đây?
Ngài đáp:
-
Nhổ
nấm dưới Đại Hùng đến.
GIẢNG:
Núi Bá Trượng tên là núi Đại Hùng,
vì nó cao tới một trăm trượng nên người
ta gọi là Bá Trượng.
Tổ hỏi ngươi đi đâu? Đáp
con nhổ nấm dưới Đại Hùng đến.
CHÁNH VĂN:
Bá Trượng
lại bảo:
-
Lại
thấy đại trùng chăng?
Ngài bèn làm
tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa
thủ thế.
Ngài bèn vỗ
vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười
to bỏ đi.
GIẢNG:
Đại trùng là con cọp. Tổ hỏi
thấy cọp không thì Ngài làm tiếng cọp rống lên.
Nghe rống, Tổ Bá Trượng cầm búa thủ
thế. Như vậy là đấu võ hay làm gì? Coi như
trường đấu võ vậy, không nói qua bàn lại gì
hết, chỉ có những hiện tượng lạ
lùng. Khi Bá Trượng cầm búa thủ thế, Ngài bèn
vỗ vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười
to bỏ đi. Đã thủ thế mà vẫn bị
vỗ một cái vào bắp đùi.
CHÁNH VĂN:
Bá Trượng
thượng đường bảo đại chúng:
Dưới núi
Đại Hùng có một đại trùng, các ông nên xem. Lão
Bá Trượng này hôm nay đích thân bỗng gặp và
bị cắn một cái.
GIẢNG:
Gặp đại trùng tức gặp
cọp, bị cọp cắn một cái. Ngài gặp
cọp ở đâu, cắn lúc nào? Đó là chỗ ý
nghĩa thầm lặng, không phải chỗ suy gẫm,
lý luận thế này thế nọ. Chỉ thầm
lặng nhận và trình một cách hết sức giản đơn.
Hỏi ông ở đâu tới, nói con nhổ nấm dưới
chân núi Đại Hùng lên. Hỏi có thấy cọp không,
nói dạ thấy. Cọp đây là cọp nào? Phải
hiểu được con cọp này mới hiểu
chặn sau. Nghe nói thấy cọp, Ngài thủ thế.
Thủ thế thì cọp chụp cho một cái. Như
vậy là sao? Thấy đây là thấy tận nơi, không
phải thấy bằng lý giải, bằng tưởng tượng
cho nên không có lời. Cái Ngài thấy là cái Ngài đã
sống được, không phải cái lý giải để
phân biệt đúng sai, hay dở. Bị thiền sư
Hoàng Bá chụp mà Ngài Bá Trượng mừng vì đây là
cọp thật, nên Tổ khoe với chúng các ông nên
biết dưới núi Đại Hùng có con cọp, ta
mới bị nó cắn một cái. Ý nói trong hội chúng có
một người đã lãnh hội được
yếu chỉ và trình cho ta thấy rồi. Đó là cách
ấn chứng khéo léo, song người đời nghe qua
không hiểu gì hết. Đây là điểm đặc
biệt trong nhà Thiền.
Khi được Tổ Bá Trượng
ấn chứng rồi, từ đây ngài Hoàng Bá bắt đầu
đi tham vấn các nơi.
CHÁNH VĂN:
Lúc Ngài ở
chỗ Tổ Nam Tuyền, một hôm toàn chúng đi hái trà.
Nam
Tuyền hỏi:
-
Đi đâu?
Ngài thưa:
-
Đi hái
trà.
Nam Tuyền hỏi:
-
Đem cái
gì hái?
Ngài đưa
con dao lên. Nam
Tuyền bảo:
-
Đại
gia hái trà đi.
Một hôm Nam
Tuyền bảo Ngài:
-
Lão tăng
ngẫu hứng làm bài ca “chăn trâu”, mời Trưởng
lão hòa.
Ngài thưa:
-
Tôi tự
có thầy rồi.
Ngài từ giã đi
nơi khác. Nam Tuyền tiễn đến cổng,
cầm chiếc mũ của Ngài đưa lên hỏi:
-
Trưởng
lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy?
Ngài thưa:
-
Tuy nhiên như
thế, đại thiên thế giới đều ở
trong ấy.
Nam Tuyền bảo:
-
Vương
lão sư vậy.
Ngài bèn đội
mũ ra đi.
GIẢNG:
Nam Tuyền và Bá Trượng đều là đồ
đệ của Mã Tổ. Khi đi hái trà, Ngài Nam
Tuyền hỏi đem cái gì hái. Ngài đưa con dao lên,
Nam Tuyền bảo cả nhà đi hái trà đi. Hỏi đem
cái gì hái, thường thường mình có cái gì đưa
cái ấy, chuyện hết sức bình thường. Hoàng
Bá đưa con dao lên, Nam Tuyền bảo đại gia
hái trà đi, không nói thêm câu nào. Như vậy chấp
nhận hay không chấp nhận? Nhà thiền không dùng ngôn
ngữ, chỉ dùng hình ảnh để nói lên chỗ đó
không có ngôn ngữ, cho nên ngài Nam Tuyền đã chấp
nhận.
Một hôm Nam Tuyền bảo lão tăng
ngẫu hứng làm bài ca chăn trâu, mời trưởng
lão hòa. Ngài thưa tôi tự có thầy rồi. Tại sao
mời hòa bài ca chăn trâu lại đáp tôi có thầy
rồi. Nói tôi có bài ca chăn trâu mời trưởng lão
hòa, tức là mời ngài vào dòng phái của tôi, cùng
truyền bá Phật pháp. Ngài thưa tôi có thầy rồi,
nghĩa là từ chối.
Bây giờ Ngài sửa soạn từ giã Nam
Tuyền đi. Đến cổng, Nam Tuyền cầm
chiếc mũ nói trưởng lão thân to lớn mà
chiếc mũ rất nhỏ vậy. Câu này là câu dọ
dẫm lần chót. Ngài đáp rất khéo, tuy nhiên như
thế, cả đại thiên thế giới đều
ở trong ấy. Tuy tướng mạo nó nhỏ
vậy, mà trùm cả đại thiên sa giới. Do đó
ngài Nam Tuyền cũng phải nể. Đó là những
câu chuyện đối đáp khi tham vấn những
bậc thiện tri thức. Rất là khéo, rất là đặc
biệt.
CHÁNH VĂN:
Sau, Ngài ở
Hồng Châu chùa Đại An, đồ chúng tìm đến
rất đông.
Tướng
quốc Bùi Hưu trấn Uyển Lăng lập đại
thiền uyển thỉnh Ngài đến thuyết pháp. Vì
Ngài quá mến núi cũ nên để hiệu Hoàng Bá.
GIẢNG:
Lúc Ngài ở tại Uyển Lăng, đã
có những pháp thoại này.
CHÁNH VĂN:
Một hôm, thượng
đường đại chúng vân tập, Ngài bảo:
Toàn là bọn ăn
hèm, thế mà xưng hành khước để cho người
chê cười. Chỉ cam thấy một ngàn tám trăm người
đi chớ không chịu sự ồn náo. Tôi khi đi
hành khước hoặc gặp dưới rễ cỏ
có một cái ấy là đem hết tâm tư mà xem nó.
Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng
gạo cúng dường. Trong lúc đó, nếu dễ dàng
như các ông hiện giờ thì làm gì có việc ngày nay.
Trong nước Đại Đường chẳng có
Thiền sư sao?
Có một
vị Tăng ra hỏi:
Bậc tôn túc ở
các nơi họp chúng chỉ dạy, tại sao nói không
Thiền sư?
Ngài bảo:
Chẳng nói
không Thiền, chỉ nói không Sư. Xà lê chẳng thấy
sao, dưới Mã Tổ Đại Sư có tám mươi
bốn người ngồi đạo tràng, song được
chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng
Lô Sơn là một trong số ấy.
GIẢNG:
Tại sao người xưa lại có
những lời nói hơi thô lỗ, cả chúng mà nói toàn
là bọn ăn hèm. Cái gì ăn
hèm? Ở Việt Nam
hồi xưa hay nấu rượu, bả rượu
gọi là hèm, dùng cho heo ăn. Ngài nói toàn là bọn ăn hèm, tức bọn con lợn. Câu nói
này nhiều người trách, tại sao Ngài nói những
lời khinh bạc chúng quá vậy. Nhưng chúng ta phải
hiểu Ngài muốn khích lệ, nhắc nhở mọi người
cố gắng tu. Nhắc nhở mạnh mẽ như
vậy, người ta mới có tâm vươn lên, nếu
nói nhè nhẹ người ta coi thường. Vì vậy Ngài
nói đã là bọn ăn hèm mà xưng hành
khước cho người chê cười.
Ngài nói “Chỉ
cam thấy một ngàn tám trăm người đi
chớ không chịu sự ồn náo”. Thà là các ông
bỏ đi, chớ còn ở đông ồn náo, ta không
thích.
Ngài nhắc lại chuyện đi hành khước
của Ngài. “Tôi khi đi hành
khước, hoặc gặp dưới rễ cỏ có
một cái ấy là đem hết tâm tư mà xem nó. Nếu
biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng
gạo cúng dường”. Ngài đi hành khước
tức là đi tìm học nơi này nơi kia, gặp dưới
rễ cỏ có một cái ấy, dưới rễ
cỏ tức là một vật nhỏ nhất, tầm thường
nhất, nếu thấy hơi lạ là đem hết tâm
tư xem nó, tức là đem hết tâm tư nghiền
ngẫm để thấu đạt nó.
“Nếu
biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng
gạo cúng dường”. Nếu nghiền gẫm
thấy có gì hay, thì mới có thể nhận người
cúng dường. Ngài đi hành khước, gặp
Thiền sư có lời đạo lý, liền đem
hết tâm tư xem xét nghiền ngẫm, chớ không lôi
thôi. Như vậy mới thấy đạo. Còn chúng ta
ngày nay thì sao? Tới chỗ nào thấy vui thích thì ở,
chớ không chịu nghiền ngẫm những cái hay,
những điều sâu sắc. Người xưa dù
gặp chuyện rất thường, cũng cố
gắng tìm cho ra thâm ý. Nếu hiểu và thấy nó hay
thực thì phải thành tâm cung kính tuân học chớ không
thể lôi thôi được. Đó là ý nghĩa thâm
trầm, diễn tả lại thời Ngài tìm học nơi
các thiện tri thức. Cho nên Ngài nói:
“Trong lúc đó,
nếu dễ dàng như các ông hiện giờ thì làm gì có
việc ngày nay”. Nếu lơ mơ như các ông bây
giờ thì làm gì có việc ngày nay. Cho nên người
học đạo phải đem hết tâm tư của
mình, khi được thấy, được nghe
thiện tri thức chỉ dạy, tìm cho ra, hiểu cho
thấu, như vậy mới gọi là học đạo.
Chớ nghe rồi bỏ đó, không quan tâm, không tìm
kiếm thì không biết chừng nào mới đến nơi
đến chốn, tu chừng nào cho có kết quả. Nói
xong Ngài hỏi:
“Trong nước
Đại Đường chẳng có Thiền sư sao?”
Hỏi cả nước Đại Đường này
chẳng có Thiền sư nào sao? Bởi vì nếu học
hiểu nghiên cứu không được gì hết,
tức là không có thầy nào xứng đáng để
học.
Có một vị Tăng ra hỏi:
Bậc tôn túc ở các nơi họp chúng
chỉ dạy, tại sao nói không Thiền sư?
Ngài bảo:
Chẳng nói không Thiền, chỉ nói không Sư.
Thiền có sẵn, từ Phật chí
Tổ, cho đến chúng ta ngày nay ai cũng có sẵn
hết, nên đâu phải không Thiền, mà chỉ không Sư
thôi.
“Xà lê chẳng
thấy sao, dưới Mã Tổ Đại Sư có tám mươi
bốn người ngồi đạo tràng, song được
chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng
Lô Sơn là một trong số ấy”. Hòa thượng
Lô Sơn là Ngài Qui Tông. Chúng ta thường nghe nói Ngài Qui
Tông ỉa chảy đầy đất. Có nhiều người
tu học, nhưng đến nơi đến chốn
không được mấy người, trong đó ngài Qui
Tông được khen nhất, bằng câu nói Qui Tông
ỉa chảy đầy đất. Đọc sách
Thiền, người không có tí mùi vị Thiền không làm
sao nếm, hiểu được. Đó là điểm
khó của người mới tu học Thiền.
Ngài nói dưới Mã Tổ có tám mươi
bốn người được nhận là thiện tri
thức. Nhưng rốt cuộc dưới con mắt
của Ngài, chỉ có hai ba vị tuyệt vời thôi, còn
lại bao nhiêu cũng thường.
CHÁNH VĂN:
Phàm người
xuất gia phải biết có sự phần từ trước
lại. Vả như, dưới Tứ Tổ, Đại
sư Ngưu Đầu Pháp Dung nói ngang nói dọc vẫn
chưa biết then chốt hướng thượng, có
con mắt trí này mới biện được tông đảng
tà chánh. Người hiện giờ không hay thể
hội, chỉ biết học ngôn ngữ, nghĩ đến
những việc trong đãy da xưng là ta hội
Thiền. Nó có thể thay ông việc sanh tử chăng?
GIẢNG:
Ngài Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu
cũng ngộ được nơi Tứ Tổ, nhưng
Ngài thấy chưa phải tột, chưa phải người
thấu đáo đến chỗ rốt ráo của lý
thiền. Cho nên Ngài bảo người học thiền
phải có con mắt trí tuệ, phân biệt rõ ràng đâu
là tà, đâu là chánh, đâu là tột cùng, đâu là chưa
tột cùng v.v… Ngài nói người thời nay tức
thời Đường học ngôn ngữ, nghĩ đến
những việc trong đãy da xưng là ta hội
Thiền, chỉ biết lẩn quẩn trong thân này cho là
hội thiền. Như vậy ai thay cho ông việc sanh
tử?
CHÁNH VĂN:
Khinh thường
bậc lão túc vào địa ngục nhanh như tên bắn.
Tôi vừa thấy người vào đến cửa
liền biết được ông rồi. Lại
biết chăng? Cần kíp cố gắng, chớ có dung
dị. Mặc y ăn uống mà để một đời
luống qua, người trí chê cười.
GIẢNG:
Lời này rất tha thiết. Ngài khuyên chúng
ta đừng coi thường bậc lão túc, những
bậc thầy trước kia có đạo đức, đã
nhận được chánh pháp. Nếu mình có tâm khinh thường
thì đọa địa ngục nhanh như tên bắn.
Ngài tự nói: “Tôi vừa
thấy người vào đến cửa liền
biết được ông rồi”. Tôi thấy người
tới cửa là biết rồi, khỏi cần bàn
luận gì hết. Đây là điểm kỳ đặc
của Ngài. Cho nên tổ Lâm Tế tới có thảo
luận gì với Ngài đâu, hỏi liền đánh, không
cần nói chi. Đó là thấy tới cửa liền
biết.
“Lại
biết chăng? Cần kíp cố gắng, chớ có dung
dị”. Các ông phải nhanh chóng cố gắng, chớ
có xem thường. “Mặc y ăn
uống mà để một đời luống qua, người
trí chê cười”. Chúng ta đắp y Phật, ăn chay, sống trong đạo mà tu không
tiến được, để cho người trí chê cười,
thật uổng một đời. Câu nhắc nhở này
thắm thiết làm sao! Một đời bỏ cha,
bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc, bỏ
tất cả việc nước, việc nhà để đi
tu. Tâm cao thượng ấy quí báu vô cùng. Gan dạ bỏ
hết những thứ thường tình, để tìm con
đường siêu thoát, thế mà vào đạo rồi
cũng lẩn quẩn trở lại như người
tầm thường, có khi còn tệ hơn nữa, thì có đau
không, có uổng một đời không?
Chúng ta đi tu để làm gì mà bỏ cha,
bỏ mẹ, bỏ hết tất cả để
rồi không làm ra trò trống chi? Nếu tu không ra gì thì thôi
về nuôi cha nuôi mẹ còn có ý nghĩa hơn, có giá
trị hơn. Nếu can đảm dứt hết, vào
chùa tu thì phải đạt tới cái gì, chớ không
thể thả lỏng uổng đi một đời.
Nhìn lại thấy rất thương nhiều người
tu riết không biết mình tu ra sao nữa. Cứ khuya công
phu, chiều Tịnh độ rồi chơi bình thường,
chừng ấy việc và chờ tới già tới
chết, thật uổng một đời.
Cho nên chúng ta không tu thì thôi, tu thì phải đến
nơi đến chốn, cho xứng danh nghĩa người
tu. Nên lời Ngài nhắc nhở rất là chí lý: Cần
kíp cố gắng, chớ có dung dị. Mặc y ăn uống mà để một đời
luống qua, người trí chê cười. Cho nên chúng ta
phải tu làm sao cho có hiệu quả, xứng đáng
một đời hy sinh của mình. Phải nhớ,
phải biết rõ ràng như vậy, chớ đừng
xem thường. Chúng ta xét lại lời người xưa
tha thiết nhắc nhở mà ý thức được
việc làm của mình, sao cho xứng đáng một ngày
ở chùa là một ngày cao quí, một năm mặc y nhà
Phật là một năm xứng đáng người tu, chớ
đừng lôi thôi.
CHÁNH VĂN:
Ông thời gian
sau hẳn sẽ bị người tục lôi đi,
phải tự xem xa gần cái gì là việc trên mặt.
Nếu hội tức là hội, nếu không hội thì
giải tán đi.
GIẢNG:
Ngài nói cương quyết, hiểu được
thì ở, nếu không hiểu thì rút lui, đừng ở đây
nữa. Chúng ta thấy lối dạy của Ngài Hoàng Bá
thật là mạnh mẽ.
CHÁNH VĂN:
Sư Lâm
Tế Nghĩa Huyền đến hỏi:
-
Thế nào
là ý Tổ từ Ấn Độ sang?
Ngài liền đập
một gậy. Đến ba phen hỏi đều bị
đập một gậy. Sau cùng Sư Lâm Tế từ
giã Ngài đi nơi khác. Ngài dạy qua tham vấn Đại
Ngu. Sau này Sư Lâm Tế đắc ngộ ý chỉ
của Ngài. Chỗ chỉ dạy của Ngài đều
nhắm vào bậc thượng căn, người trung căn
và hạ căn khó thấy được yếu chỉ.
GIẢNG:
Chúng ta thấy lối dạy của Ngài quá
kỳ đặc. Hỏi thế nào là ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang, liền đập cho một
gậy rồi đuổi xuống, không nói gì hết.
Lần thứ hai hỏi lại đập cho một
gậy nữa, đuổi xuống. Lần thứ ba
hỏi cũng đập một gậy đuổi
xuống. Như thế ai còn gan dạ nào ở đó mà
tu. Chúng ta chỉ cần đập một gậy lần
thứ nhất là xách gói đi tuốt, chớ đâu
tới lần thứ hai thứ ba. Ngài Lâm Tế ráng
ẩn nhẫn đến lần thứ ba bị đập
một gậy nữa, ngài chỉ biết khóc, không còn cách
gì khác. Ngài vừa khóc vừa dọn hành lý ra đi.
Bấy giờ ngài Trần Tôn Túc làm Quản chúng bảo trước
khi đi huynh lên từ giã Hòa thượng rồi hãy đi.
Khi từ giã, Hòa thượng hỏi ông đi đâu. Ngài
thưa “con không biết đi
đâu nữa, thấy không có duyên ở đây thì con đi
vậy thôi”. Tổ Hoàng Bá bảo ông qua Đại Ngu
dạy cho. Ngài liền đi tới Thiền sư Đại
Ngu.
Như vậy ngài Hoàng Bá có công hay có tội
với Lâm Tế? Ba lần hỏi thế nào là ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang, ba lần đánh rồi đuổi
đi, chớ không dạy một câu. Sau cùng chỉ qua ngài
Đại Ngu học. Qua tới Đại Ngu, ngài Đại
Ngu hỏi:
- Ông từ đâu đến?
- Dạ con từ Hoàng Bá đến.
Đại Ngu hỏi:
- Hoàng Bá đã dạy ông lời gì?
- Ba lần con hỏi thế nào là ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang đều bị ăn gậy, con không biết có lỗi hay
không lỗi?
Đại Ngu bảo:
- Hoàng Bá đã đem tâm lão bà chỉ cho ông đến
chỗ tột cùng, ông còn thấy có lỗi, không lỗi.
Ngay đó, Ngài Lâm Tế lãnh hội được
chỉ ý của Tổ Hoàng Bá dạy, liền nói “Phật pháp Hoàng Bá rất ít”.
Chỉ đánh thôi, không nói chi nên rất ít. Ngài Đại
Ngu biết Lâm Tế đã thấm, nên gạn lại:
- Con quỉ đái dưới sàng, hồi
nãy nói có lỗi, không lỗi. Bây giờ thấy cái gì mà nói
Phật pháp Hoàng Bá rất ít?
Ngài thoi cho Đại Ngu một thoi vô hông. Đại
Ngu xô ra nói:
- Thầy của ông là Hoàng Bá, chẳng can
hệ gì đến ta.
Ngài liền trở về Hoàng Bá.
Tổ Hoàng Bá đánh Lâm Tế ba gậy mà được
làm thầy. Quí vị thấy hay ở chỗ nào? Nhờ ăn ba gậy của Hoàng Bá mà dòng Lâm
Tế truyền tới ngày nay, hơn một ngàn năm chưa
dứt. Kỳ đặc ở chỗ nào? Thời nay
chúng ta không thể sử dụng thủ thuật của
Ngài Hoàng Bá được. Bởi vì thời nay là thời
khoa học, thời tôn trọng nhân quyền… đủ
thứ hết. Đập người ta, người ta
sẽ kiện mình. Cho nên thời này chỉ có cách ráng mà
nói, nói tới khô cổ để cho người ta
hiểu. Hiểu thì tốt, không hiểu thì thôi, chớ
không dám đánh, sợ mang tội.
Như vậy thế nào là ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang? Chủ đích của Tổ Đạt
Ma sang đây, mình làm sao giải thích được?
Mở miệng nói là đã mất ý của Tổ sư
rồi. Tổ sư muốn chỉ mình cái chân thật,
không có ngôn ngữ đối đãi. Nếu còn thấy có
ngôn ngữ đối đãi, còn phải quấy, đúng
sai thì không thấy được ý Tổ sư. Phải
qua hết đối đãi mới thấy được
ý Tổ sư. Vì vậy Ngài Đại Ngu phương
tiện nói Hoàng Bá vì ông chỉ thẳng mà ông còn nói có
lỗi không lỗi, tức là còn kẹt trong đối đãi.
Đánh đó là chỉ thẳng rằng Tổ sư đem
Thiền tông sang Trung Quốc, chỉ dạy chỗ không
còn ngôn ngữ, không còn đối đãi. Bây giờ ông
lại hỏi việc đối đãi, làm sao nhận ra
được ý Tổ sư. Nghe đến đây ngài
Lâm Tế hiểu ngay, liền nói Tổ sư dạy đơn
giản quá. Ngài Đại Ngu nắm lại hỏi “hồi nãy ông nói có lỗi không
lỗi, bây giờ lại nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít
là sao?” Đến đây Lâm Tế thấy Phật pháp
rất đơn giản mà còn nói là trật, nên chỉ
thoi một thoi trả lời. Bị đánh ba gậy để
chỉ, bây giờ muốn trình chỗ thấy của mình
cũng dùng cái thoi để trình. Như vậy mới
thấy rõ chỗ người đệ tử đã
thấu triệt được ý của thầy.
Người thời nay đọc sử
tới mấy đoạn này thấy Thiền sư ngày xưa
quá thô bạo, chỉ có đánh đập chớ không nói đạo
lý, nhưng thật tình hành động của các ngài có ý
nghĩa rất thâm trầm. Bởi vậy nếu chúng ta
không lãnh hội được lý thiền thì không bao
giờ tìm thấy được cái hay của nhà
thiền. Chủ ý của Tổ Hoàng Bá là chỉ
thẳng, chớ không chỉ quanh co. Người nào Ngài
mới chỉ thẳng như vậy? Người có căn
khí đại thừa, có thể thừa đương đại
sự mới được chỉ thẳng như
thế. Như cả quyển Uyển Lăng Lục,
chúng ta đọc đâu thấy ngài đánh ai. Tướng
quốc Bùi Hưu hỏi, Ngài trả lời đâu đó
rõ ràng. Là vì tướng quốc mà bị đánh thì từ
giã liền, cho nên phải giải cho ông hiểu. Còn Lâm
Tế là một con người rất kỳ đặc,
ít nói thâm trầm cho nên Tổ đã thầm nhận, nhưng
chưa nói ra. Khi Lâm Tế hỏi Ngài liền dùng thủ
thuật đó. Nhờ thủ thuật này, Lâm Tế sau
khi ngộ rồi không còn ý niệm lăng xăng nữa.
Vì vậy hệ Lâm Tế truyền bá rất lâu dài.
CHÁNH VĂN:
Đời Đường
khoảng niên hiệu Đại Trung (847 - 860 TL), Ngài
tịch ở núi Hoàng Bá. Nhà vua sắc thụy là Đoạn
Tế Thiền Sư, tháp hiệu Quảng Nghiệp.
GIẢNG:
Do vậy có nơi gọi Ngài là Đoạn
Tế Thiền sư, có nơi gọi Hoàng Bá hoặc Hy
Vận. Chỗ nào đúng? Chỗ nào cũng đúng
hết. Ngài có bài kệ răn dạy những người
tu Thiền rất hay:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường,
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch:
Vượt khỏi
trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm
chặt giữ lập trường,
Chẳng phải
một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ
ngửi mùi hương.
Tất cả người tu chúng ta cốt
ra khỏi trần lao, còn lăn lộn tử sanh là còn
ở trong vòng trần lao. Lao là khổ là nhọc, muốn
ra khỏi vòng khổ nhọc trầm luân là việc phi thường.
Tại sao phi thường? Bởi vì con người sanh
ra, ai cũng theo thói thường, lớn lên học hành,
rồi có gia đình, có con cái, lớn nữa có cháu
chắc rồi tới già chết. Cứ đều đều
như vậy mà không ai nghĩ cách nào khác hơn để
thoát ra luật lệ ấy.
Người tu không chấp nhận sự
trói buộc, sanh đi tử lại mãi mãi như thế.
Cho nên chúng ta quyết định phải thoát ra vòng
trần lao. Quyết định thoát khỏi vòng trần
lao là kẻ thường hay phi thường? Là phi thường.
Vậy mà ai nói động một chút thì buồn, ai chê
liền giận. Con người phi thường mà
vậy sao? Đã là người phi thường thì nghe
chửi không thèm giận, nghe khen không mừng mới được.
Quí vị thử kiểm lại xem mình phi thường chưa?
Đã đi tu là làm việc phi thường, tại sao chưa
chịu thực hiện việc phi thường?
Đó là những câu hỏi chúng ta phải
luôn tự đặt, tự vấn để vươn
lên, chớ không thể tu mà vẫn đặt mình trong cái
tầm thường. Tất cả chúng sanh đều
chấp nhận cuộc đời sanh ra, lớn lên,
lập gia đình rồi tới già chết. Ai cũng như
ai, giỏi lắm làm được chuyện từ
thiện chút ít cho đời là quí rồi. Người trước
như vậy, người sau như vậy, mãi mãi như
vậy. Có người sớm thức tỉnh, muốn
thoát ra khỏi cái tầm thường đó, vì vậy nên
nói là phi thường. Không chấp nhận việc
tầm thường thì phải làm việc khác hơn, làm
việc phi thường. Muốn làm việc phi thường
đòi hỏi con người cũng phải phi thường.
Người ta đi đường bằng phẳng
suông sẻ, mình muốn đi trên mây trên gió thì phải phi
thường hơn người ta chớ, phải có cái
gì kỳ đặc mới được.
Chúng ta đồng ý là người phi thường
thì phải có tư cách phi thường. Tư cách phi thường
thì bị chê không buồn, bị chọc không giận v.v…
Chớ động tới giống hệt những người
tầm thường, than tôi tu mấy năm nay mà không ai
quan tâm, thiếu thốn, nghèo, bệnh hoạn hoài,
buồn quá. Những thái độ đó đâu phải là
người phi thường. Ở đây Ngài nói chúng ta
muốn ra khỏi trần lao là việc phi thường,
nên phải vượt khỏi thói thường tình
của người đời. Như vậy mới
xứng đáng là người xuất gia.
Hệ bã
thằng đầu tố nhất trường
tức là đầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Mình tu pháp nào thì cứ một pháp ấy bám chặt cho
tới nơi tới chốn. Như câu chuyện trong kinh
Phật dạy: Có một anh chàng phạm tội tử
hình. Trên một con đường dài mấy cây số, mà
hai bên đường nào là các cảnh ca hát, rượu
chè, cờ bạc, đủ thứ trò cám dỗ. Nhà vua ra
lệnh anh bưng một dĩa dầu đầy đi
từ đầu đường đến cuối đường
mà không rơi một giọt, không nghiêng không đổ thì
sẽ tha anh khỏi tội tử hình. Nếu nghiêng đổ
ở chỗ nào thì lập tức tên đao phủ phía sau
chặt cổ anh liền. Quí vị nghĩ nếu trong trường
hợp như vậy chúng ta dám liếc ngó hai bên đường
không? Chắc chắn là không. Vì biết tên đao phủ
phía sau sẵn sàng buông đao, để chảy một
chút dầu là bị rơi đầu ngay, cho nên chăm chăm
đi tới cuối đường. Khi đi hết con
đường mà không nhỏ một chút dầu, tên
tử tội mới thoát khỏi tội tử hình.
Phật ví dụ dĩa dầu là pháp tu, còn
tên tử tội là tất cả phàm phu chúng ta. Có người
nào không bị án tử hình không?
Những án treo ba chục năm, năm
chục năm, sáu bảy chục năm… rồi sẽ
tử hình, ai cũng bị án hết. Đang bị án mà muốn thoát khỏi án phải làm sao?
Phật dạy phải dùng một pháp tu, chuyên tâm thực
hành cho tới nơi tới chốn, không sơ sót thì
sẽ giải thoát khỏi tử hình. Tử hình là sanh tử.
Muốn ra khỏi sanh tử thì phải nắm vững
pháp tu của mình, từ đầu tới cuối, không
vì duyên của sáu trần mà mình lơi lỏng, phải chăm
chăm đi tới mới được giải thoát.
Cũng như anh tử tội chăm chăm nhìn dĩa
dầu, không cho nghiêng đổ vậy. Chúng ta tu ai
cũng có hướng của mình, phải theo dõi luôn, không
chút lơ là thì sẽ thoát khỏi sanh tử.
Chú lính cầm cây đao đi bên cạnh là
quỷ vô thường chực sẵn, mình sơ sẩy
một chút là nó chặt đầu liền. Chúng ta đi đứng,
tới lui, qua lại… sơ sẩy đạp con rắn,
nó cắn sôi đờm chết. Ra đường xe đụng
ngã đùng chết. Quỷ vô thường nó chực lúc
nào mình không hay, miễn sơ sẩy thì rồi đời.
Vì vậy đi đâu cũng phải nhiếp tâm giữ
chánh niệm, mới thoát chết. Thường mình đi
ra thì ngó trời, ngó mây, ngó thiên hạ kẻ này người
kia… về kể lại cho huynh đệ nghe. Cho nên không
biết quỷ vô thường nó chụp lúc nào. Vì vậy
người tu phải cố làm sao đi cho tới nơi
tới chốn, đem hết tâm lực tập trung vào
mỗi việc tu hành, khả dĩ thoát được
luật sanh tử vô thường.
Bất thị
nhất phiên hàn triệt cốt tức là chẳng
phải một phen xương lạnh buốt. Nhờ
tới mùa đông xương lạnh buốt chúng ta
mới thấy hoa mai nở rộ. Có chịu cái lạnh
buốt của mùa đông, mới hưởng được
mùi thơm của hoa mai. Đừng nghĩ mình tu
thảnh thơi vui vẻ, sẽ đạt được
kết quả mỹ mãn, không bao giờ có chuyện đó.
Phải chăm chỉ, quyết tâm tu, không lúc nào lơi
lỏng, mai kia mới có thể giải thoát sanh tử.
Ngoài thế gian, một đứa học trò muốn
mỗi năm mỗi lên lớp cho tới thi đậu,
nó phải làm sao? Phải cố gắng học đêm
học ngày mới được. Chúng ta tu cũng
vậy, phải chịu cực chịu khổ, để
hết sức lực, hết tâm trí mình vào sự tu thì mai
kia mới được kết quả tốt đẹp,
không thể lơ là, đùa cợt ngày này tháng kia mà được
kết quả.
Bài kệ này nhắc nhở chúng ta thấy
bổn phận của mình phải làm gì, đạt được
gì, chớ không phải chuyện làm cho có chừng, làm để
mà làm, làm trò cười cho thiên hạ. Đó là lời
nhắc nhở rất chí thiết của thiền sư
Hoàng Bá. Mong tất cả nhớ và làm tròn bổn phận
của mình.
]]]
|