THANH
QUY
I- CẦN CÓ CHỖ
ĐỂ
Ngày xưa mỗi ngôi chùa là một Ṭng
lâm, một Thiền-viện, nằm trong khung cảnh yên tỉnh
tịch mịch, là chỗ để cho chư Tăng tu tập.
tín đồ thỉnh thoảng lai văng hỏi đạo cúng
dường. Ngôi chùa xưa đa số là ở núi non hoặc nơi xa thành phố, có cây cao,
có vườn rộng thích hợp với tâm hồn thanh tịnh
của chúng Tăng, đủ sức dung chứa nhiều
người ở đây tu tập. V́ thế, một ngôi chùa
là một Thiền-viện rồi.
Ngày
xưa v́ tai nạn chiến tranh, hầu hết chùa chiền
đều cất trong thành phố, vừa ồn ào vừa
chật hẹp lại là chỗ qui tụ tín đồ cung
kính lễ lượt liên miên. Thành thử những ngôi chùa
hiện giờ nặng về hướng dẫn Phật
tử hơn là để độ Tăng tu tập. Bởi
không có chỗ đầy đủ trợ duyên lành cho những
vị Tăng hiếu tu quyết tâm cầu giải thoát, nên
họ phải bỏ dở nửa đường không biết
nương tựa vào đâu. Để giúp đỡ những
người hiếu tu ấy, chúng tôi mới thành lập
Thiền-viện nhỏ này. Mong rằng Thiền-viện nhỏ
này sẽ mở đường cho những Thiền-viện
lớn trong tương lai, nếu giáo hội thấy cần
thiết.
b- Chuyên tu cầu giải thoát: Chủ yếu
của Phật giáo là cứu người thoát khỏi ṿng
trầm luân
sanh tử. Bao nhiêu kinh điển bao nhiêu phương tiện
đều không ngoài mục đích ấy. V́ thế, nếu
người tu chỉ một bề lo làm việc từ thiện
xă hội, hoặc giảng dạy để hướng dẫn
người về với Đạo mà thiếu sự chuyên
tu cầu giải thoát là đă hạ giá trị Phật giáo
xuống thấp. Khi người tín đồ đă hiểu
Tam qui, Ngũ giới, Nhân quả,
Luân hồi,... họ muốn tiến lên cầu giải thoát,
thử hỏi họ sẽ trông cậy vào đâu, nếu
không có những vị Tăng chuyên tu để hướng
dẫn họ.
Hơn nữa, chư Tăng phải
tự ḿnh được độ mới có thể độ
được người, tự ḿnh giải thoát mới
cứu được người giải thoát. Do đó, sự
chuyên tu không thể thiếu ở một tu sĩ nào. Nếu
có làm việc từ thiện xă hội, giảng gaỉi... cũng
chỉ là phương tiện trong buổi đầu của
tu sĩ mà thôi. Chỗ cứu cánh của tu sĩ là phải
thực hiện kỳ được sự giải thoát
trong đời hiện tại của ḿnh. Nếu không có Tu-viện
th́ lấy đâu làm chỗ ẩn trú vững vàng để
tu sĩ thực hiện hoài bảo của họ? Nếu
Phật giáo chỉ lo làm việc từ thiện xă hội
hoặc bố thí cúng dường làm phước th́ có khác
ǵ những tôn giáo khác hay những đoàn thể từ thiện
khác. Như vậy hoặc vô t́nh hay cố ư khiến Phật
giáo không c̣n ǵ cao siêu kỳ đặc nữa. Cho nên, lập
Tu-viện để có một số Tăng sĩ chuyên tu đó
là khai thác bề sâu của Phật giáo.
Nếu
Phật giáo chỉ lo mở mang bề rộng mà thiếu
khai thác bề sâu th́ khó mong tồn tại lâu dài. Để cứu
văng chỗ thiếu sót hiện giờ của Phật giáo,
lập Tu-viện dành cho một số Tăng sĩ chuyên tu
là việc là việc làm tối thiết yếu vậy.
Phật giáo có chia nhiều tông phái,
mỗi tông phái có một pháp tu riêng. Mỗi pháp tu phát triển
đến cứu cánh th́ sự tu hành mới có thể chứng
đắc được. Phật giáo Việt
V - THIỀN VIỆN CHƠN KHÔNG NHẰM LÀM SỐNG LẠI THIỀN TÔNG VIỆT
Phật giáo có mặt trên lănh thổ
Việt
B - ĐƯỜNG LỐI TỔ CHỨC THIỀN
VIỆN CHƠN KHÔNG
I. BAN CHỨC SỰ
Ban chức sự của Thiền viện được
quy định như sau:
I-
Viện chủ: Cai quản toàn viện, hướng dẫn
sự tu hành và giảng dạy kinh luận. Trọn quyền
trong việc thâu nhận người vào viện và quyết
định mời đi nếu vị nào không giữ đúng
nội quy Thiền viện.
2-
Quản viện: Trông coi tất cả tài sản của viện,
thọ nhận tất cả đồ cúng dường,
mua sắm ăn mặc và những nhu cầu cho chúng phân
chia phẩm vật và xem xét sự thiếu đủ của
chúng để lo liệu
. 3- Tri sự: Sắp đặt
mọi công tác trong viện là những thời khóa học tu
công cộng của chúng, xem sóc vườn
tược và phân công người làm cỏ.
4- Tri khách: Tiếp những khách đến
Thiền viện, sắp đặt sự ăn ở của
khách, đặt người gát chuông, thay mặt toàn chúng tiếp xúc chánh quyền nếu có
việc cần.
5- Tri khố: Ǵn giữ
lương thực ở nhà trù và sắp đặt người
làm bếp đi chợ.
6- Thư kư: Đánh
máy những văn thư của Thiền viện và bài học
của chúng. Ǵn giữ những pḥng phẩm của Thiền
viện.
7- Hương đăng:
Lo việc hương đèn và quét dọn trên chùa, giữ trách
nhiệm đánh kiễng cho tất cả thời khóa tu học
và công tác.
II. THÂU CHÚNG
Thiền viện
Chơn Không đối với số Thiền sinh chỉ trọng
phẩm không nghĩ đến lượng. V́ thế, khi
Thiền viện thành h́nh số Thiền sinh tối thiểu
là bốn vị, tối đa là hai mươi vị. Những
Thiền sinh xin vào Thiền viện phải lựa chọn
kỹ càng. Thiền viện tổ chức từng khóa một,
mỗi khóa ba năm. Những Tiền sinh tu tại đây
ba năm măn khóa sẽ được bổ nhiệm đi
nơi khác ngoại trừ trường hợp cần giúp
việc cho Thiền viện, hoặc tuổi nhỏ, hoặc
phát nguyện nhập thất mới giữ lại.
Mỗi
Thiền sinh khi vào Thiền viện phải có đủ giấy
tờ hợp pháp, không mắc bệnh truyền nhiễm,
phải được Bổn sư hoặc Y chỉ sư
giới thiệu, phải có ư chí xả thân v́ cầu đạo
giải thoát.
*
Một
Thiền viện muốn có qui củ, có đường lối
tu hành vững chắc lâu dài, tất cả Thiền sinh tại
các Thiền viện phải triệt để tuân hành đúng
Nội qui của Thiền viện. Nội qui không phải
sự ép buộc Thiền sinh sống trong cảnh cơ cực
vô lư, mà do Thiền sinh tự nguyện khép ḿnh trong khuôn khổ
phù hợp với Đạo giải thoát. Nói đúng hơn,
nội qui là vị Hộ pháp đầy đủ oai lực
để bảo vệ toàn vẹn những người tu
hành đạt được sở nguyện của ḿnh. V́
thế, không một Thiền sinh nào đă phát nguyện vào
Thiền viện mà có thể lơ là với Nội qui.
A/ Tuân hành lục ḥa :
Để
thành một đoàn thể Tăng đúng với ư nghĩa
Tăng Thiền sinh trong Thiền viện phải hoàn toàn tuân
hành lục ḥa :
1/ Thân ḥa đồng trụ: Về phần thân, ăn mặc, ở
và công tác tất cả Thiền sinh đều ḥa đồng
nhau.
2/ Khẩu ḥa vô tranh: Về phần
miệng, luận bàn nói chuyện Thiền sinh đều dùng
lời ḥa nhă, không bao giờ có lớn tiếng căi rầy.
3/ Ư ḥa đồng duyệt: Đối đăi nhau, Thiền
sinh luôn luôn tâm ư vui ḥa không nên cố chấp phiền hận.
4/ Giới ḥa đồng tu: Tất
cả Thiền sinh trong Thiền viện đều giữ
10 giới làm căn bản và sống đúng nội qui.
5/ Kiến ḥa đồng giải: Sống
chung nhau, Thiền sinh có những hiểu biết đều
giải bày cùng nhau đồng hiểu đồng cảm
thông, không nên có thành kiến riêng tư.
6/ Lợi ḥa đồng quân Tất cả tài lợi trong Thiền
viện là của chung của những Thiền sinh hiện
có mặt, đều phải chia đồng đều
nhau, không ai có quyền nhận giữ riêng một vật ǵ.
Phần giới luật, Thiền
sinh trong Thiền viện phải giữ kỳ được
10 giới làm căn bản :
1/ Không sát sanh
2 / Không trộm cắp
3/ Không dâm dục
4/ Không nói dối
5/ Không uống rượu
6/ Không dùng dầu thơm, các chất
thơm xoa ḿnh và không đeo đồ trang sức.
7/ Không nghe ca nhạc và tự hát múa.
8/ Không nằm giường đẹp
rộng lớn
9/ Không ăn chiều
10/ Không giữ vàng bạc và châu báu.
Trong phần chánh này, Thiền sinh nếu
phạm một hoặc nhiều điều, tùy nặng nhẹ
hoặc phạm một lần liền mời ra khỏi
Thiền viện, hoặc cảnh cáo đến ba lần mà
không sửa sẽ mời ra khỏi Thiền viện.
I/
Để giữ tâm hồn thanh tịnh thuần Đạo
lư, Thiền sinh không được đọc báo chí, sách vở
ngoài đời và dùng Radio nghe tin tức.
2/
Để tiết kiệm tài sản của Thiền viện
cũng như của tín đồ, Thiền sinh tuyệt đối
không hút thuốc, không uống bia và các thứ có tánh cách xa xí.
3/
Để tiết kiệm th́ giờ tu học tu học,
Thiền sinh không được tiếp khác quá 15 phút.
4/
Để giữ được điều ḥa thứ sáu,
Thiền sinh tuyệt đối không được nhận
tiền bạc vật dụng cúng dường riêng dù nhiều
dù ít đều giao cho Quản viện chia đồng nhau (%
nếu có người cúng dường).
5/ Để tránh mọi hoài nghi của
người, có việc cần đến am cốc Ni, Thiền
sinh không được đi một ḿnh.
6/ Để giữ trật tự cho
Thiền viện, tất cả khách đến và ở lại
đều do Tri khách sắp đặt, không một Thiền sinh nào được quyền
lo riêng dù là thân nhân của ḿnh.
7/
Để phù hợp với tinh thần thiền, Thiền
sinh không nên dụm ba họp bảy cười nói ồn náo,
chỉ được hợp bàn Đạo lư một cách êm
ái.
8/ Để tâm ư khỏi xao động,
Thiền sinh hạn chế tối thiểu sự đi lại,
ngoại trừ trường hợp đặc biệt.
9/ Để thể hiện tinh thần
tương thân tương ái, tất cả Thiền sinh phải
triệt để tương trợ nhau không phân biệt thân
sơ.
10/ Để
thực hiện một đời sống đơn giản,
mỗi Thiền sinh chỉ được ba bộ đồ
ngắn, hai áo tràng và y hậu, toàn bằng cải màu vàng.
11/
Thư từ qua lại phải tŕnh thầy Viện chủ
xem qua.
Trong những điều phụ này
nếu Thiền sinh nào phạm sẽ bị mời ra khỏi
Thiền viện.
I/ Nghĩ đêán thân chẳng cầu
không bệnh, thân không bệnh th́ tham dục dễ sanh.
2/
Ở đời, chẳng mong không nạn, không nạn th́ kiêu
xa ắc khởi.
3/
Tham cứu tâm, chẳng cầu không chướng, tâm không chướng
th́ việc học không vượt bật.
4/
Lập hạnh, chẳng mong không ma, không ma th́ thệ nguyện
không vững.
5/
Sắp đặc việc, chẳng cầu dể thành, việc
dể thành th́ chí c̣n khinh mạn.
6/
T́nh nghĩa qua lại, chẳng mong lợi ḿnh, lợi ḿnh
th́ kém tổn đạo nghĩa.
7/
Đối tiếp người, chẳng cầu nuông chiều,
được nuông chiều th́ tâm sanh kiêu căng.
8/
Thi ân bố đức, chẳng mong đền đáp, mong đền
đáp là ư c̣n mưu toan.
9/
Thấy lợi, chẳng cầu ḿnh được, được
lợi th́ tâm si dễ động.
10/
Bị hàm oan, chẳng cầu minh oan, minh oan th́ oán hận càng
sanh.
Thế nên, Thánh nhơn lập bày giáo
hóa, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn
làm tiêu dao, lấy chướng nạn làm giải thoát, lấy
chúng ma làm bạn pháp lấy khó khăn làm thành công, lấy kẻ
giao hữu tệ bạc làm sự giúp ích, lấy người
nghịch làm vườn đẹïp, lấy bố đức
làm dép rách, lấy lợi sơ sài làm giàu sang, lấy oan ức
làm cửa hạnh.
Như thế ở chỗ ngại
biến thành thông, mong được thông trở thành ngại.
Như thế Như Lai ở trong chướng ngại được
Đạo Bồ Đề.. Đến như bọn ông Ương
Quật Ma La và Đề Bà Đạt Đa đều đến
làm hại, mà đức Phật vẫn thọ kư cho họ
sau sẽ thành Phật. Đâu không phải họ là nghịch
mà ta vẫn thuận, kia là hoại mà ta lại thành.
Song
thời nay người thế tục học đạo, nếu
trước không ở chỗ ngại, khi chướng ngại
đến khó bề dẹp nỗi, khiến của báu Pháp
Vương do đó mà mất. Đâu chẳng tiết ư
! Đâu chẳng tiết ư !
(Bảo Vương
Tam Muội Luận)
*
Thiền
Tông chủ trương lấy tánh làm yếu môn nhập Đạo,
không dùng những phương tiện quanh co. Song v́ căn cơ
người thời nay chậm lụt khó nhận được
bản tánh, nên tạm dùng phương tiện hướng
dẫn cho họ gọt giũa lần lần để phút
giây nào đó tự họ trực ngộ. Phương tiện
đó là thời khóa tu tập hằng ngày của chư Tăng
tại Thiền viện.
THỜI KHÓA HẰNG NGÀY
Sáng :
04
giờ đến 06 giờ : Tại nhà công cộng tại
nhà thiền (Hô Thiền)
07 giờ : Tiểu thực (ba tiếng
bản nhà trù
07 giờ 30 đến
08 giờ 45: Công tác (3 tiếng
chuông)
09 giờ 30 đến 10 giờ 30: Tọa
thiền (ba tiếng chuông)
11 giờ
30: Sớt cơm vào bát (ba tiếng bản nhà trù)
12 giờ :
Thọ trai
Chiều :
1 giờ : Chỉ tịnh (một
hồi chuông)
2 giờ : Thức chúng (một
hồi ba tiếng chuông)
4 giờ đến 5 giờ :
Tọa thiền (ba tiếng chuông)
7 giờ đến 7 giờ 30
: Tụng kinh Bát nhă tại nhà Thiền (ba tiếng chuông)
8 giờ đến 10 giờ :
Tọa thiền công cộng tại nhà Thiền (Hô thiền)
Chủ yếu của Thiền Tông là
: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự
; trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”. Nếu
chúng ta tu thiền mà nghe kinh học luận là trái lại với
chủ trương của Thiền Tông sao ?
Song v́ Phật Giáo Việt Nam thừa
kế gia bảo Thiền Tông mà không khéo giữ ǵn bị mất
gốc. Do đó, cho nên Thiền viện
Chơn Không mới chủ xướng “Thiền giáo đồng
hành” nghĩa là vừa tu theo Thiền Tông vừa học kinh
luận. Bởi v́ hiện t́nh tu sĩ Việt Nam cũng có
lắm người tu Thiền, nhưng không có mấy người
thực tu theo Thiền Tông chánh thống. V́ thế, họ dể
bị lạc lầm và ra bệnh hoạn điên cuồng.
Cho nên có nhiều người
nghe nói tu Thiền là đâm ra kinh sợ. Bởi vậy Thiền
viện Chơn Không đề khởi tu Thiền, nếu
không đem kinh luận của Phật Tổ phối hợp
chặc chẽ th́ không sao tránh khỏi sự nghi ngờ e sợ
của đa số Tu sĩ. Đó là lư do căn bản Tăng
chúng ở đây phải học kinh luận.
NĂM THỨ
NHỨT :
Kinh : 1/ Bát nhă tâm kinh (Hán)
2/ Kinh Kim Cang (Hán)
3/ Kinh Duy Ma Cật (Việt)
4/ Kinh Viên Giác (Hán)
Luận : 1/ Qui
Sơn cảnh sách (Hán)
2/ Nguồn Thiền (Việt)
3/
Tham Thiền Yếu Chỉ (Việt)
4/
Luận Tối Thượng Thừa (Việt)
5/
Kinh Pháp Bảo Đàn
(Việt)
6/ Thuyền
Gia Bảo Thiền Tông Trực chỉ (Việt)
Sử
: 1/ Ba mươi ba vị Tổ
Ấn Hoa
2/ Thung Hoa Chư Thiền
Đức Hành Trạng I
Kinh : 1/ Kinh Lăng Già (Việt)
2/ Kinh Lăng Nghiêm (Việt)
3/ Kinh
Pháp Hoa (Việt)
Luận
: 1/ Thiếu Thất Lục Môn (Việt)
2/ Đốn Ngộ Nhập
Đạo Yếu Môn (Việt)
3/ Luận Đại Thừa
Khởi Tín Hán)
4/ Luận Trung Quán (Hán
5/ Thiền Quan Sách Tấn (Việt)
Sử
: 1/
Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng II
Kinh :
1/ Kinh Niết Bàn (Đại cương) (Việt)
2/ Kinh Hoa Nghiêm (Đại cương) (Việt)
Luận
: 1/
Chơn Tâm Trực Thuyết (Việt)
2/ Chứng Đạo
Ca (Hán)
3/ Vạn
Pháp Qui Tâm (Việt)
4/ Tín
Tâm Minh (Hán)
Sử
: 1/ Sử Thiền Sư Việt Nam
Những kinh, luận, sử
này sẽ được nghe trong ṿng sáu ngày đầu của
mỗi tháng âm lịch (1- 6) đến khi nào hết số kinh...
đó th́ nghĩ. Nghĩa là bắt đầu mồng tám tháng
tư âm lịch khai giảng, về sau từ mùng một đến
mùng sáu nghe kinh đều đều như thế (trừ tháng
giêng âm lịch cho nghĩ). Khi nghe kinh, th́ mỗi ngày khởi
đầu từ 8 giờ đến 10 giờ sáng, 2 giờ
30 đến 4 giờ 30 chiều. Thời gian nghe kinh... bớt
giờ công tác sáng và giờ Tọa thiền công cộng buổi
sáng, buổi chiều.
Người nghe kinh không bắt
buộc có kinh hay không chỉ cần lắng thần ngồi
nghe để thâm nhập yếu lư là đủ.
E - CÚNG DƯỜNG CẦU NGUYỆN
Cúng dường :
Các Phật tử phát tâm cúng dường
chư Tăng tại Thiền viện bằng vật thực
tiền bạc, hoặc trai phạm đều được
chư Tăng hoan hỷ thu nhận. Nếu tiền bạc
vật thực, quí vị nên trực tiếp giao cho thầy
Quản viện, hoặc gián tiếp nhờ thầy Tri Khách
trao lại. Quí Phật tử tuyệt đối không nên cúng
dường riêng cho một vị Tăng nào. Nếu cúng dường
trai phạn cần trực tiếp với thầy Quản
viện để sắp đặc việc nhà trù. Nếu
hôm nào có Phật tử cúng dường trai phạn th́ chư
Tăng khỏi làm bếp, nhà trù trong viện giao toàn quyền
cho Phật tử xử dụng.
II. CẦU NGUYỆN:
V́ muốn giảm bớt duyên ngoài nên
chư Tăng tại Thiền viện không nhận rước
đi cầu an cầu siêu bất cứ nơi nào. Để
đền ơn thí chủ và thể hiện tâm từ bi,
chư Tăng sẵn sàng chấp nhận quí Phật tử
xin cầu an cầu siêu tại Thiền viện qua hai thời
sau buổi ngọ trai và thời kinh Bát Nhă lúc 7 giờ tối.
Điều kiện xin, chỉ chuộng ḷng khách không quí tài
vật.
Chú
ư : Giờ tọa thiền công
cộng, buồi sáng và buổi chiều Tăng, Ni và Cư Sĩ
nam nữ bên ngoài được dự, song phải được
Viện chủ cho phép.
*
Chư
Tăng trong Thiền viện vui vẽ đón tiếp tất
cả khách đến với tinh thần t́m hiểu Phật
pháp hoặc v́ viếng thăm Thiền viện, nhưng phải
theo điều kiện sau đây :
I KHÁCH TĂNG : Khách Tăng đến
viếng Thiền viện cần phải giữ nếp sống
tương tợ với chúng Tăng trong Thiền
viện. Nếu khách Tăng muốn lưu lại trong Thiền
viện th́ không quá một tuần (ngoại trừ trường
hợp đặc biệt do Viện chủ cho phép) Trong thời
gian lưu lại, khách Tăng phải tập sinh hoạt
như tăng chúng tại Thiền viện.
II KHÁCH CƯ SĨ NAM : Khách cư sĩ nam đến viếng
Thiền viện hoàn toàn theo sự hướng dẫn và sắp đặt
của thầy Tri Khách. Nếu cần lưu lại Thiền
viện th́ không quá 3 ngày, ngoại trừ những vị được
cho phép “dự tập tọa thiền”, hoặc “dự học
Phật pháp”. Trong thời gian lưu lại Thiền viện,
khách nên coi ḿnh như đang thọ “Bát quan trai” mặc dầu
không làm lễ thọ. Nghĩa là khách vẫn không được
nghe Radio, không đọc báo chí và không ăn phi thời (v́ chư
tăng chiều không nấu cơm). Đến bữa cơm,
khách phải tự đến nhà trù lănh phần cơm về
pḥng khách tự dùng.
III
. KHÁCH NI VÀ CƯ SĨ NỮ
: Thiền viện có dành một
pḥng khách riêng cho nữ phái, khách nữ
và Phật tử nữ đến viếng Thiền viện
nên dừng lại “nhà khách nữ”. Muốn vào Thiền viện
thăm thân nhân hoặc thưa hỏi điềi ǵ, khách nên
theo thời gian ấn định tiếp khách của chư
Tăng mà đến. Khách cần lưu lại nhà khách này cũng
không quá 3 ngày, ngoại trừ những vị được
cho phép “dư tập tọa thiền” hoặc “dự học
Phật pháp” th́ thời gian lưu lại không nhất định.
Nếu
Phật tử phát tâm cúng dường trai phạn cho chư
Tăng nên đến nhà trù trong Thiền viện sắm soạn. Cúng
dường xong trở lại “nhà khách nữ an nghĩ”.
IV. THỜI
GIAN TIẾP KHÁCH CỦA VIỆN CHỦ:
Viện
chủ tiếp khách từ 10 đến 12 giờ buổi sáng
và từ 4 giờ đến 7 giờ chiều mỗi ngày. Ngoài
thời gian được ấn định, khách cần
hỏi việc ǵ nên trực tiếp với thầy Tri Khách.
V. THỜI GIAN TIẾP KHÁCH CỦA
CHƯ TĂNG :
V́
đem hết tâm tư vào việc tu tập, chư Tăng ở
đây nếu có thân nhân hoặc thiện tín đến thăm
cũng chỉ tiếp vào lúc 10 giờ 30 đến 12 giờ
buổi sáng và 5 giờ đến 7 giờ buổi chiều.
Mỗi khi khách đến thăm, chư Tăng chỉ được
tiếp trong ṿng 15 phút và lúc tiếp phải có Tri Khách ở
đó. Ngoài thời gian ấn định trên, khách cần nhắn
giởi chi cho chư Tăng nên trao thẳng với Tri Khách.
I NGHI THỨC THỈNH NGUYỆN
II
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
III
NGHI THỨC TỌA THIỀN
IV
KHÓA LỄ BÁT NHĂ
V
TUẦN LỄ THAM HỌC
I.
NGHI THỨC THỈNH NGUYỆN
Xưa các ngôi Đại già lam đều có
lễ Bố Tát tụng giới vào hai ngày rằm và ba mươi
(tháng thiếu hai mươi chín).
Thông thường, vào những ngày này,
Phật tử càc nơi về chùa thọ giới Bát quan
trai (tập tu một ngày một đêm). Đến chiều
trong ngày, tất cả đều dự Bố Tát nghe giớ
cùng chư Tăng, Ni.
Riêng các Thiền viện th́ lâu nay không
đặc nặng vấn đề nghi lễ mà chú trọng
phần áp dụng công phu bên trong. Hơn nữa, phút giây nào
cũng đă giữ tâm an nhiên thanh tịnh rồi, hẳn chẳng cần ấn
định ngày giờ như tập tục ngày xưa. Tuy
nhiên, phương tiện sách tấn kẻ sơ cơ và hạng
lười nhác để họ sớm sửa chữa những
sai quấy mà tiến tu, trong Thiền viện cũng có lễ
Thỉnh nguyện, vào sớm mai hoặc chiều trong hai ngày
nói trên.
2 - PHẦN CHÁNH :
I / NGHI
THỨC HÀNH LỄ :
Nghe ba
tiếng chuông, đại chúng y hậu tề chỉnh vân tập
trước điện phật. Thượng tọa Viện
chủ niệm hương lạy một lạy quỳ.
a/
Bài Nguyện Hương :
Biến
năn thập phương giới,
Cúng dường nhứt thiết
Phật,
Tôn pháp chư Bồ tát,
Vô biên Thanh Văn chúng,
Cập nhứt thiết Thánh
Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự,
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành Vô thượng đạo.
Nam
Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha tát.
b/ Kỳ Nguyện :
Tư thời Thỉnh nguyện chi
kỳ, đệ tử chúng đẳng cung tựu Phật
tiền, chí thảnh Thỉnh nguyện. Ngưỡng vọng
Tam Bảo lai lâm chứng giám, linh chúng đệ tử thỉnh
nguyện tam nghiệp thanh tịnh, Trí tuệ viên măn.
Nam Mô Thập Phương Thường
Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh ( 3 lần) (đứng
dậy cắm hương lên lư rồi chấp tay đứng
thẳng và tụng)
c/ Tán Phật :
Pháp Vương Vô Thượng Tôn,
Tam giới vô luân thất,
Thiên nhơn chi Đạo sư,
Tứ sanh chi từ phụ,
Ư nhứt niệm qui y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp,
Xưng dương nhược tán
thán,
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ sở lễ tánh không
tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư
ngh́,
Ngă thử đạo tràng như Đế
châu,
Thập phương chư Phật ảnh
hiện trung,
Ngă thân ảnh hiện chư Phật
tiền,
Đầu diện tiếp túc qui mạng
lễ.
Chí tâm đảnh lễ
: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị
lai, nhứt thiết chư Phật. (lạy một lạy)
Chí tâm đảnh lễ : nam mô tận
hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt
thiết tôn pháp. (lạy một lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận
hư không biến pháp giới quá, hiện, vị là, nhứt
thiết chư Hiền Thánh Tăng. (lạy một lạy)
2/ PHẦN THỈNH NGUYỆN :
Lễ phật xong, Đại chúng
theo thứ tự ngồi thành hai hàng từ trong bàn Phật
ra, Thượng Tọa Viện chủ tuyên bố :
Hôm nay là ngày Thỉnh nguyện toàn chúng
Tăng lặng lẽ nghe đọc nội qui. Sau đó mỗi
vị tự kiểm trong nữa tháng qua, nếu có phạm
lầm lỗi ǵ th́ phát lời sám hối. Đồng thời
cầu xin Đại chúng v́ ḿnh chỉ cho những lầm
lỗi nào mà ḿnh không thấy, để sám hối cho được
thành tịnh. Tri sự đọc Nội quy.
Thầy Tri sự đọc to lên bản
Nội qui của Thiền viện. Sau khi đọc xong, Thượng
tọa bảo :
Phần đọc nội
quy rồi, tiếp theo là phần thỉnh nguyện.
Theo thứ tự...
Lời thỉnh nguyện của mỗi
vị :
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thượng
tọa cùng toàn thể Đại chúng :
Trong
nữa thánh qua, con tự xét không thấy có tội chi (hoặc
có phạm những lầm lỗi ǵ kể ra sám hối) nhưng
ngoài ra, không biết con có phạm lỗi lâm nào mà con không thấy,
kính mong trên Thượng tọa cùng toàn thể Đại
chúng từ bi chỉ cho con, con sẽ y pháp sám hối cho được
thanh tịnh.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thượng tọa
chủ lập lại :
Về phần thầy A... tự kiểm
trong nữa tháng qua, không thấy có phạm lỗi ǵ. Nhưng
không biết c̣n có lầm lỗi ǵ mà thầy A... không thấy,
yêu cầu trong chúng từ bi chỉ cho, để thầy A...
sám hối cho được thanh tịnh.
Bấy giờ tùy mỗi việc sảy
ra, Thượng tọa căn cứ Thanh quy mà giải quyết,
theo lời Thỉnh nguyện, người được
chỉ lỗi phải vui vẻ sám hối. Sau đó Thượng
tọa kết thúc :
Phần
thầy A... xong, kế đó, hoặc tiếp.
Sau phần Thỉnh nguyện,
Thượng tọa nhắc nhở :
Phần Thỉnh nguyện đă
xong, tôi thấy trong chúng đă cố gắng sống đúng
tinh thần Nội quy, đồng thời tinh tấn thực hiện cả hai mặt
tu tập và công tác. Tôi tin rằng cứ theo đà tiến này,
dần dần chúng ta sẽ trở thành những người
tốt, xứng đáng, làm gương mẫu cho đời
sau. Vậy mong toàn thể vững tiến trên đường
Bồ đề, để ḿnh và người đều được
lợi ích.
Bây giờ là phần linh tinh, trong chúng
thấy cần thây đổi điều ǵ không ? Hoặc
có ư kiến ǵ nêu lên ?
Sau cùng Thượng
tọa bảo :
Mọi việc sắp đặc đă
xong, vậy th́ Đại chúng xả ra cùng đứng dậy
hồi hướng.
Thường lệ Thỉnh nguyện
kéo dài khoảng 1 tiếng đến 1 tiếng 30 phút.
3/ Phần Hồi Hướng :
Công
đức Thỉnh nguyện không tính kể,
Thắng
phước vô biên đồng hướng về
Nguyện
khắp pháp giới các chúng sanh
Thảy
đều thể nhập vô sanh nhẫn.
Nguyện
tiêu ba chướng sạch phiền năo
Nguyện
được trí tuệ thật sáng ngời
Nguyện
cả tội chướng thảy tiêu trừ
Đời
đời thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện
đem công đức tu hành nầy
Chan
răi mười phương khắp tất cả
Hết
thảy chúng con cùng các loại
Đồng
được lên ngôi Vô thượng giác.
TAM TỰ QUI
Y
Tự qui y Phật, đương
nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát
Vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện
chúnh sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải (1
lạy)
Tự qui y Tăng, đương
nguyện chúng sanh, thống lư Đại chúng, nhứt thiết
Vô ngại (1 lạy)
3/ PHẦN ĐÚC KẾT:
Ngoài việc thực hiện và hoàn tất
ư hướng ban đầu của người xuất
gia, cùng làm sống dậy phương tiện của người
xưa, tiến tới chỗ lành mạnh phong hóa trong Thiền
môn, đồng thời góp phần xây dựng Phật giáo thế
hệ trong tương lai, ngày Thỉnh nguyện c̣n nói lên được
ư chí tự tỉnh, tự giác, sẵn sàng đón nhận mọi
ư kiến khách quan, cùng luôn luôn ḥa ḿnh căi thiện mọi sái
quấy đă có. Như vậy, chính phút giây Thỉnh nguyện,
ḷng ḿnh được nhẹ nhàng, khoang khoái, lắng đọng
mọi ư tư. Từ đó đời sống trở nên
vui vẻ an nhiên và giải thoát.
Thời thường trong các Thiền
môn, mỗi nữa tháng cũng Bố tát, tụng giới...
Tuy nhiên, lâu dần
chỉ c̣n là thói quen, cứ làm mà không ư thức được
việc làm hết sức quan trọng, rất có ư nghĩa
của Thiền môn, mà biến ra lệch lạc và mất cả
hiệu năng của nó, cũng mất hẵn tính chất
thật tiễn đối với đời sống hằng
ngày của đoàn thể Tăng. V́ thế, chủ trương
Thỉnh nguyện của Thiền viện nhằm phá vỡ
mọi lề thói lỗi thời, mở toan một chân trời
mới, để hướng tiến cho kẻ đồng
tu cùng vươn đến chí đạo.
Hơn thế nữa, ngày Thỉnh
nguyện c̣n thể hiện trọn vẹn tinh thần b́nh
đẳng cao tột của Đạo Phật. B́nh đẳng
ở đây nói là thứ b́nh đẳng không đặt điều
kiện, không c̣n giấu giếm bất cứ ǵ bên trong ḷng
ḿnh. Nghĩa la,ø những lời phát nguyện vào Thiền
viện là những người tinh tấn đi trên con đường
đă chọ, vững chí tiến đến cùng “ tâm nguyện
của ḿnh” và những lời nguyện đem ánh sáng từ
bi trí tuệ của Đạo Phật soi khắp mọi nơi.
Nói khác hơn là những người,
“Trước cầu tự độ
sau độâ
chúng sanh”
Do đó, ngày thỉnh nguyện có một
giá trị thiết thực vô cùng, giờ thỉnh nguyện
là giờ nói lên tinh thần cao cả của điều “kến
ḥa đồng giải”, Phút giây thỉnh nguyện là sống
đúng với ư nghĩa tự giác, tư tỉnh của những
người quyết chí.
“Thượng
cầu Phật đạo
Hạ hóa chúng sanh”.
II. NGHI THỨC TỌA THIỀN :
I.
PHẦN MỞ ĐẦU :
Để thích hợp với sinh hoạt
ṭng lâm hiện tại,và thúc liễm các bạn đồng
tu, Thiền viện tổ chứ Thời khóa tọa thiền
như sau :
Sáng chiều hai thời thuộc ban
ngày. Tối đến có “Khóa lễ Bát Nhă”. Sau đó lúc 8 giờ,
th́ tọa thiền, và một thời buổi khuya bắt đầu
từ khoảng 4 giờ. Như vậy, ngày đêm có cả
thảy là 4 giờ tọa thiền công cộng tại thiền
đường, có thể thục liễm kẻ sơ cơ,
và ngăn ngừa bệnh lười nhác trong thiền viện.
II CÁCH TỌA THIỀN
:
Đến giờ tọa thiền được
báo trước bằng ba tiếng chuông, Đại chúng mặc
áo tề tự trước bàn Phật trong thiền đường,
vị chủ lễ (thường là thầy Tri sự) đánh
chuông xướng :
a)
- Chí tâm đảnh lễ : Nam mô thập
phương tận hư không biến pháp giới quá, hiện,
vị lai nhứt thiết chư Phật (1 lạy)
b) - Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận
hư không, biến pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt
thiết Tôn pháp (1 lạy)
c/
- Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không, biến
pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt thiết chư Hiền
Thánh tăng. (1 lạy)
Chỗ ngồi theo thứ tự đă
được thầy Tri sự sắp đặc trước
và đặc Bồ đoàn sẵn. Từ giờ phút này mọi
người cử động phải nhẹ nhàng, chậm
răi và luôn luôn tưởng đến mấy bài kệ :
“Nếu trải giường ṭa, nên
nguyện chúng sanh, trải mở pháp lành, thấy tướng
chân thật.
Lúc ngồi kiết già, nên nguyện
chúng sanh, căn lành kiên cố, được bực bất
động.
Sửa Bồ đoàn ngay thẳng, từ
từ ngồi xuống theo tư thế thường. Bắt
đầu kéo chân trái để trên vế mặt, gót chân vừa
sát dạ dưới. Xong lại kéo chân phải đặt
trên vế trái, cũng vừa sát dạ dưới chân trái
bên này. Sau một lần kiểm soát toàn thể, nới lưng
quần cổ áo ra, mắt ngó thẳng tới trước,
cách khoảng chừng 6 hoặc 9 tấc tây. bàn tay mặt đặc
trong ḷng bàn tay trái đầu ngón tay giao nhau và để vừa
chấm trên hai gót chân, kề sát dạ dưới. Thong thả
uớm thử người xem ngay ngắn chưa, đồng
thời ấn mạnh hai tay xuống chừng 6 hoặc 7 lần
từ mạnh đến thật nhẹ, thật chậm
và dịu dàng. Hai mắt chỉ mở ¼ thôi.
Khi ngồi ngay thẳng rồi, hai
chân, hai tay, hai vai sóng mũi, hai mắt và hai tai xếp cho thứ
tự, mới hít hơi dài vào (hít vào bằng mũi) và thở
ra (bằng miệng) cũng từ thế mạnh đến
nhẹ dần, khoảng 6 hoặc 7 lần. Mỗi lần hít vô tưởng bao nhiêu thanh
khí trong sạch bên ngoài được đưa vô, và lưu
thông khắp cơ thể. Khi thở ra cũng tưởng
tất cả nóng bức uế trược bên trong được
tống khứ ra hết.
Hai thời Thiền đầu hôm và
buổi khuya, khi đại chúng ngồi yên, thầy Tri sự
hô thiền lớn bài kệ này trong ba hồi chuông.
Đầu Hôm :
Canh một nghiêm
trang ngồi tỉnh tu,
Tinh
thần tịch chiếu đồng thái hư,
Muôn
kiếp đến nay chẳng sanh diệt,
Đâu
cần sanh diệt diệt ǵ ư ?
Gẫm
xem các pháp đều như huyễn,
Bổn
tánh tư không đâu dụng trừ,
Nếu
biết tâm tánh không tướng mạo,
Lặng
im chẳng động tự như như.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3
lần, mỗi lần đánh một tiếng chuông, Đại
chúng niệm theo).
Buổi khuya :
Canh
năm Bát Nhă chiếu vô biên,
Chẳng
khởi một niệm khắp tam thiên,
Muốn
thấy chơn như tánh b́nh đẳng,
Dè
dặt sanh tâm,trước mắt liền.
Lư
diệu ảo huyền không lường được,
Dụng
công đuổi bắt càng nhọc ḿnh
Nếu
không một niệm mới thật t́m,
C̣n
có tâm t́m toàn chẳng biết.
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật (3 lần, mỗi lần đánh một tiếng
chuông, Đại chúng niệm theo)
III. CÁCH
XẢ THIỀN :
Khi thầy Tri sự
reo lịnh báo măn giờ Tọa thiền, cũng phải
theo thứ tự mà xả ra, không nên bột chột.
Trước
nhất, khởi đầu hồi hướng :
Nguyện
đem công đức này,
Hướng về
khắp tất cả,
Đệ tử và
chứng sanh,
Đều trọn
thành Phật đạo.
Khởi sự, thở ra nhè nhẹ rồi
hít vào cũng thế. Lần lần mạnh và dài hơn. Mỗi
hơi hít (hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng)
thở đều tưởng đem thanh khí vào, đưa
bỏ uế trược ra. Tác động này, được
sử dụng khoảng 6 hoặc
7 lần từ từ rất nhẹ đến thật dài.
Từ từ mở lớn
hai mắt, cử động lên xuống hai vai, đầu
và cổ, rồi ấn nhẹ hai tay xuống (vẫn c̣n
trong tư thế kiết già), mỗi thứ khoảng 6 hoặc
7 lần. Cuối cùng dời hai tay ra đầu gối, lật
úp xuống ấn thật mạnh toàn thân, rồi nhẹ nhàng
kéo chân trên để xuống.
Bấy giờ, mọi
cử động đều đặn b́nh thường,
vẫn ngồi yên trong vị trí cũ. Xoa mặt, đầu
trước, lần xuống hai vai, phía sau ót và phía dưới
lưng quần cho thật mạnh để trị cảm
gió và đau lưng sau này.
Hai tay kéo ra từng bắp chân xoa bóp
xong, lại để tự nhiên lại kéo ra xoa cái khác. Sau
cùng, là sát nóng hai g̣ của ḷng bàn tay áp lên hai mắt, cũng
chừng 6 hoặc 7 lần thôi.
Mọi việc xong xuôi, ngồi xếp
bằng an nhiên, chấp tay tụng hồi hướng.
IV. Phần
nghi thức Hồi hướng :
BÁT NHĂ TÂM KINH
Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm kinh,
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa
thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt
thiết khổ ách. Xá Lợi Tử Sắc bất dị không,
không bất dị sắc, sắc tức thị không, không
tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệt
phục như thị.
Xá Lợi Tử Thị chư pháp không
tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất
tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng,
hành, thức, vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư, vô sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhăn giới, năi chí vô ư thức
giới,vô Vô minh diệt, vô Vô minh tận, năi chí vô lăo tử,
diệt vô lăo tử tận, Vô khổ tập, diệt, đạo,
vô Trí diệt vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố Bồ
Đề tát đỏa y Bát Nhă Ba La Mật Đa, cố tâm
vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo, mộng tưởng cứu cánh
Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhă Ba La Mật Đa
cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
coố tri Bát nhă ba la mật đa, thị đại thần
chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị
vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết
khổ, chơn thực bất hư. Cố thuyết Bát nhă
ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết : Yết đế
,yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết
đế, Bồ Đề Tát ba ha. (1 biến)
Tiếp bài :
Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ,
Phiền
năo vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành.
Tự
quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải
đại đạo, phát vô thượng tâm. (lạy 1 lạy)
Tự
quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh
tạng, Trí tuệ như hải. (lạy 1 lạy)
Tự
quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lư đại
chúng, nhứt thiết vô ngại. ( lạy 1 lạy)
V. Phần phụ :
Vài
phương pháp trị các bịnh thông thường trong
khi Tọa Thiền : lúc ngồi Thiền, hành giả nào bị
tán động nhiều, thường thường dạy
phải buông xả hết, giữ tâm điều ḥa lặng
lẽ, hoặc được huấn luyện (coi như đă
chết). Trái lại, hành giả nào bị hôn trầm tới
tấp, không thể chống cự nổi, th́ cách trị có
nhiều : Hít nóng vào khắp châu thân. Mở lớn hai mắt
nh́n trừng trừng xem : Buồn ngủ mi là ǵ ? Động
hai vai hoặc động nhẹ trên thân. Nếu chưa dứt
th́ đứng dậy lễ Phật ra đi kinh hành.
Nên
nhớ hành giả nào mắc phải bệnh này, th́ luôn luôn
dũng mănh, giữ thân và tâm ngay thẳng, như cây cột
sắt. Đừng bao giờ lười nhát hay khiếp
nhược. Ta hăy nhớ, người xưa dụng công
tu hành .đến nỗi không mảy may hối tiết thân
mạng “quên thân v́ đạo như :
Minh Viên Thiền sư chịu lạnh
tột độ nơi đất Phần Dương. Mỗi
khi ma ngủ kéo vào, Ngài lại thẳng tay trừng trị bằng
cách lấy dùi nhọn chích vào hông...
Cao Phong Diệu Thiền sư, ba năm
nguyện đứng chẳng nương giường chơng,,,
và muôn ngàn vị khác không kể xiết, Đâu như bọn
ta ngày nay bụng vẫn no, đă lo đói, nhà sang, nệm ấm
vẫn chư vừa. Ôi, dụng công tu hành như thế
ấy, đến bao giờ mới xong !!! Kẻ ghi mấy
ḍng nầy, mong người đồng tu hăy cùng cố gắng.
Thiên Như Tắc Thiền sư dạy
: người thời nay tu hành không linh nghiệm bởi ba
thứ bệnh :
1/ không
gặp thiện tri thức chỉ dạy.
2/ Không
thống thiết ghi nhớ việc lớn sanh tử, lững
lơ, thong thả, không ngờ ḿnh sống trong vô tích sự.
3/ Đối
với việc danh hư lợi ảo thế gian, quán không
tan, buông chẳng rời. Lên ngồi trên Bồ đoàn mà vọng
duyên ác tập đuổi không được, bỏ chẳng
hết. Chỗ phong ba dấy động, bất giác thân này
lăn vào biển nghiệp trôi giạt đông tây. Ngài lại
khuyên : Chư Thiền Đức :! Nỗ lực cho đời
này liễu ngộ, đừng để vĩnh kiếp chịu
tai ương.
Tuyết Nham Khâm Thiền sư hỏi Tu Thượng
tọa :
Hiện giờ tôi bị hôn trầm,
tán loạn đuổi không đi, phải làm sao ? Thượng
tọa dạy : (Tại ông không mănh liệt, quyết tâm liều
chết, sấn sướt công phu, th́ không làm sao đắc
lực được đáng tiết, dần dà để
ngày tháng qua suông.
Và đây chúng ta hăy nghe lời cảnh
tỉnh của Thiền sư Cổ Mai Hữu : “Vừa lên
Bồ đoàn liền bị ngủ gật, mở được
mắt ra th́ nghĩ đông tưởng tây, xuống Bồ
đoàn th́ đi cặp đôi cặp ba, kề tai giao đầu,
nói to nói nhỏ, nghi một bụng kinh, sách, ngữ lục
trên văn tự, thuật hay luận khéo, dụng tâm như
thế, đến phút lâm chung đều chẳng thể nương
cậy.”
Tóm lại, bởi chúng ta ḷng tin chưa
đến, nên công phu chưa miên mật. Do công phu không miên mật,
nên hôn trầm tán loạn bao vây.
Nếu
tâm như cây, như đá, tợ hồ như đống
tro tàn, đem thân tứ đại huyễn hóa nầy gởi
tận thế giới bên kia : dù có bệnh cũng được,
chết cũng được, có người săn sóc cũng
được, có thầy trị lành bệnh sống đến
120 tuổi cũng được, nếu như chết liền,
bị nghiệp thức lôi vào vạc dầu sôi ḷ lửa đỏ
cũng được... Tất cả cảch giới như
thế đều không làm lay động được tâm.”
Đây là lời than của Thiền sư Y
An mỗi khi trời ngă bóng về chiều, Ngài sa nước
mắt : Ngày nay vẫn chưa được ǵ, ngày mai chư
biết công phu ra sao !!!
Ngoài ra các bệnh như ho, ngứa
ngáy nhảy mũi, động quậy, nếu trong khi ngồi
thiền, hành giả gặp phải những bệnh kể
trên, nên bền chí, chẳng màng tới nó. Hoặc dùng hơi
nóng trong người để vận chuyển trị nó. Như
đang ngồi yên tỉnh lại bắt ho, khi nầy ta phải
chú tâm dùng hơi thở nóng xoa tẩy nơi chỗ ngứa
náy bắt ho đó, Chịu đựng như vậy lần
lần sẽ quen và chiến thắng được tất
cả.
Phải
gan dạ chịu đựng,
Và xem
thường tất cả.
Hăy
giữ vững niềm tin,
Bền
chí tất sẽ được.
II. NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG :
I. PHẦN MỞ ĐẦU :
Giờ ngọ trai được bắc
đầu vào 11 giờ 30. Khi nghe nhà trù đánh 3 tiếng bảngtoàn
chúng mặc áo, mang bát và mâm đựng thức ăn xuống
nhà trù. Thầy Tri khố phân phối thức ăn xong, mỗi
vị tự đến sớt cơm vào bát và bưng lên
trai đường.
Phần nghi thức thọ trai do thầy
tri sự hoắc thầy Duy Na hướng dẫn.
II. PHẦN NGHI THỨC :
Đại chúng đứng thành hàng
tề chỉnh, nghe tiếng khánh chấp tay đồng xá,
và ngồi xuống. Sau ba hồi Bản chúng, đồng tụng
bài cúng dường. (tay trái bắc ấn Tam sơn, tay mặt kiết ấn tam muội để
dựa ngan trong miệng bát, rồi dân lên ngan trong miệng
bát, rồi dân lên ngan tráng đồng tụng bài cúng dường)
I. Cúng dường :
Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na
Phật.
Viên măn Báo thân Lô Xá na Phật.
Thiên bá ức Hóa thân Thích ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.
Cực Lạc Thế giới A Di Đà Phật.
Thập Phương Tam thế nhứt thiết
chư Phật.
Đại Trí Văn Thù sư Lợi Bồ Tát.
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát
nhă Ba La Mật.
Tam đức
lục vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu
t́nh, phổ đồng cúng dường, nhược phạn
thực thời, đương nguyện chúng sanh, thiền
duyệt vi thực, pháp hỷ sung măn. (cúng dường rồi để
bát xuống)
2. Xuất sanh :
(Để chén chung trong ḷng bàn tay
trái, tay mặt gắp 7 hạt cơm để vào chung, quyết
ấn cam lồ mặc niệm) :
Pháp lực bất
tư ngh́,
Từ Bi vô chướng
ngại,
Thất liệp biến thập phương,
Phổ thí châu sa giới
Quỉ tử mẩu khoáng dă,
Thần kim sí điểu vương
Tất linh giai bảo măn
(Ấn độ lợi
ích tá ha, 3 lần)
Nẳng mồ tát phạ đát tha,
nga đa phạt lồ chỉ đế. Ấn tam bạt
ra, tam bạt ra hồng (3 lần)
Nẳng
mồ tô rô bà da đát tha nga đa da, đá điệt tha. Ấn
tô rô bát ra, tô rô bát ra, tô rô ta bà ha (3 lần)
Nhữ đẳng quỷ thần
chúng
Ngă kim thí nhữ cúng,
Thử thực biến thập
phương,
Nhứt thiết quỷ thần
cộng
(Ấn mục lực
lăng tá ha, 3 lần)
(khải móng tay trên chén 3 lần)
Tống thực : (thị
giả)
Chim đại bàng cánh
vàng,
Chúng quỷ thần rừng núi,
Mẹ con quỷ la sát,
Cơm bảy hạt no đầy
(Án mục đế
tóa ha, 7 lần).
Xướng
tăng bạt : (Duy- Na)
Phật
răng : chư Tăng khi ăn phải ǵn năm quán Tán tâm
nói nhảm của Tín thí khó tiêu. Đại chúng nghe tiếng
khánh, mỗi người nhiếp tâm niệm Phật.
Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(đồng niệm)
(Hai tay bưng bát dâng ngan tráng,
thầm đọc :)
Chấp tŕ ấn
khí,
Đương nguyện chúng
sanh,
Thành tựu pháp khí
Thọ thiên nhơn cúng.
Án chỉ rị, chỉ rị, phát
nhựt ra hồng phấn tra (3 lần)
3
Lưu Phạn Kệ Chú :
(để ít cơm ra át, bưng bát cơm lên tay thầm
đọc :
Dĩ kim sở tu
phúc
Phổ triêm ư quỷ chúng
Thực dĩ miễn
cực khổ,
Sả thân sinh lạc xứ,
Bồ tát chi phước báo,
Vô tận nược
hư không,
Thí hoặc như
thị quả,
Tăng
trưởng vô hưu tức.
(Án độ lợi ích
tóa ha (3 lần)
(để bát
xuống cầm muỗng múc cơm rồi tưởng)
4
Tam đề :
Muỗng thứ
nhứt :
Nguyện đoạn nhứt
thiết ác.
Muỗng thứ hai :
Nguyện
tu nhứt thiết thiện.
Muỗng
thứ ba :
Nguyện
độ nhứt thiết chúng sanh.
( Trong khi thọ thực phải
tưởng ngũ quán)
I/ Xét công nhiều ít so chỗ kia đem
đến.
2/ Lượng
đức hạnh của ḿnh đủ hay thiếu mà thọ
của cúng dường.
3/ Ngừa tâm xa ĺa tội lỗi,
tham sân si là cội gốc.
4/ Chính là vị thuốc hay để
chữa lành bệnh khô gầy
5/ V́ thành đạo nghiệp nên thọ
cơm nầy.
7.
Tẩy Bát Kệ Chú :
(Thọ trai xong, cho nước vào tráng bát thầm đọc
:
Dĩ thử tẩy
bát thủy,
Như thiên cam lồ vị,
Thí dĩ chư quỷ thần,
Tất giai hoạch bảo măn.
Án ma hưu ra tất tóa ha. (3
lần)
8.
Ẫm Thủy Kệ
Chú :
Phật quán
nhứt bát thủy,
Bát vạn tứ thiên trùng,
Nhược bất tŕ thử chú,
Như thực chúng
sanh nhục.
Án phạt tất ba ra ma
ni tóa ha (3 lần)
9.
Kiết trai kệ : (đồng tụng)
Sở vị bố thí giả
Tất hoạch kỳ lợi ích,
Nhược vị nhạo bố
thí,
Hậu tất đắc an lạc,
Phạn thực dĩ ngật,
Đương nguyện chúng sanh
Sở tắc giai biện,
Cụ chư Phật pháp.
10. Phục nguyện : ( Duy- Na xướng)
Cơm ngày hai bửa,
thường nhớ công khó khổ của kẻ nông phu. Thân
mặc ba y, hằng xét nghĩ sự nhọc nhằn của
người thợ dệt, Thuốc thang dường chơng
bởi do nhín ăn bớt mặc của đàn na. Học đạo
tiến tu bởi ḷng từ dạy răng của Thầy,
Tổ.
Nguyện
cho thí chủ : Ruộng phước thêm nhiều, đạo
tâm thêm lớn cùng chúng sanh khắp trong pháp giới, kẻ mất
người c̣n đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( đồng
nệm)
V.
KHÓA KỄ BÁT NHĂ
( Vào khoảng
7 giờ mỗi tối)
( chủ lễ
thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương
ngan tráng niệm bài cúng hương)
( cúng
hương tán Phật) :
Nguyện thử
diệu hương vân
Biến măn thập phương
giới
Cúng dường nhứt thiết
Phật
Tôn pháp chư Bồ tát
Vô biên Thanh Văn chúng
Cập nhứt thiết Thánh Hiền
Duyên khởi quan minh đài
Xưng tánh tác Phật sự
Phổ huân chư chúng sanh
Giai phát Bồ đề tâm
Viễn ly chư vọng nghiệp
Viên thành vô thượngh đạo.
( kỳ
nguyện) :
Đệ tử chúng đẳng
nguyện Thập phương thường trú Tam bảo Bổn
sư Thích Ca Mâu Ni Phật, từ bi gia hộ đệ tử...
Bồ đề tâm kiên cố, tự giác, giác tha, giác hạnh
viên măn, giữ pháp giới chúng sanh, nhứt thời đồng
đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3
lần)
( Tán Phật) :
( Đứng dậy cắm hương lên
lư rồi chấp tay đứng thẳng đồng tụng)
Pháp Vương
Vô Thượng Tôn
Tam giới vô luân thất
Thiên nhơn chi đạo sư
Tứ sanh chi từ phụ
Ư nhứt niệm quy y
Năng diệt tam kỳ nghyệp
Xưng dương nhược tán
thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ sở lễ tánh không
tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư
ngh́
Ngă thử đạo tràng như đế
châu
Thập phương chư Phật
ảnh hiện trung
Ngă thân ảnh hiện chư Phật
tiền
Đầu diện tiếp túc quy
mạng lễ.
Chí tâm đănh
lễ : Nam Mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện,
vị lai thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền
Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo ( 1 lạy)
Chí tâm đănh
lễ Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ điều ngự Bổ sư
Thích Ca Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn
Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại
Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng
Phật Bồ tát (1 lạy)
Chí tâm đănh
lễ : Nam Mô Tây phương Cực Lạc, thế giới
đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại
bi Quán Thế Âm Bồ tát, đại Thế Chí Bồ tát, đại
nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh
Đại Hải chúng Bồ tát (1 lạy)
Tán Lư Hương
:
Lư hương xạ nhiệt
Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất điêu văn Tùy xứ kiết tường vân Thành ư phương ân
Chư Phật hiện toàn
thân
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát (3 lần)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần)
Khai
Kinh Kệ :
Vô thượng thậm thâm
vi diệu pháp
Bá thiên
vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngă kim kiến văn đắc
thọ tŕ,
Nguyện
giải Như lai chơn thật nghĩa
BÁT
NHĂ TÂM KINH
Nam
Mô Bát Nhă Hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật đa
tâm kinh, Quán Tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật
Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ
nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi tử : Sắc
bất dị Không, Không bất dị sắc, Sắc tức
thị Không, Không tức thị sắc, Thọ, Tưởng,
hành, Thức, diệc phục như thị.
Xá Lợi tử : Thị
chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị
cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức
; vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư ; vô sắc, thinh, hương,
vị xúc, pháp; vô nhăn giới, năi chí vô y,ù thức giới; vô
Vô minh, diệt vô Vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô
lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô
trí diệt vô đắc.
Dĩ vô sở đắc
cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhă Ba La Mật Đa
cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng
bố, viễn ly điên đảo, mộng tưởng cứu
cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhă Ba La Mật
Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tan miệu Tam Bồ
Đề. Cố tri Bát Nhă Ba La Mật Đa, thị đại
thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng
chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt
thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết
Bát Nhă Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết : Yết
đế, yết đế, Ba La yết đế, Ba La tăng
yết đế, Bồ Đề tát Bà ha.
(tụng 3 lần)
-
Chí tâm đănh lễ :
Nam Mô quá khứ Tỳ bà Thi Phật
- Chí tâm đănh
lễ : Nam Mô hiện tại Bổn sư thích ca Mâu Ni Phật.
-
Chí tâm đănh lễ : Nam Mô đương
lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.
-
Chí tâm đănh lễ :
Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
- Chí tâm đănh
lễ : Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
-
Chí tâm đănh lễ :
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Chí tâm đănh lễ :
Nam Mô Đại Lực Đại Thế Chí ồ tát.
-
Chí Tâm đănh lễ :
Nam Mô Đại Ca Diếp Tổ sư.
-
Chí tâm đănh lễ : Nam Mô ANan Tổ sư.
-
Chí tâm đănh lễ :
Nam Mô Bồ đề Đạt Ma Tổ sư.
-
Chí tâm đănh lễ :
Nam Mô Huệ Khả Tổ sư.
- Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Tây Thiên
Đông Độ việt Nam lịch đại chư vị
Tổ sư.
- Chí tâm đănh lễ : Nam Mô tồi
tà phụ chánh Hộ Pháp chư Tôn Bồ tát.
- Chí tâm đănh
lễ : Nam Mô Đạo tràng hội thượng Phật Bồ
tát.
Đệ tử chúng con một
ḷng thành
Nguyện cho đất nước
chóng thanh b́nh
Tai nạn binh đao đều
dứt sạch
Huynh đệ nh́n nhau con một
nhà
Xót thương cứu giúp tiêu thù
hận
Cả trên thế giới thảy
an lành
Cùng chung nhơn loại ḷng yêu mến
Sớt cơm chia áo một tâm thành
Kết t́nh đồng loại
như ruột thịt
Nguyện cả chúng sanh đén côn
trùng
Cùng khởi ḷng thương
che chở thảy
Ai đành sát hại làm lợi ḿnh
Mong sao toàn thể cùng vui sống
Nguyện mưa
chánh pháp khắp quần sanh
Mọi loài đều được ơn nhuần gội
Nhiệt năo tiêu tan ḷng thanh lương
Tam thừa Thánh quả đều
an trụ.
Nguyện cho dứt sạch mọi
năo phiền
Gắng
tu chẳng chút sanh lười mơi
Lập chí vững chắc như
kim cương
Dù bao sóng gió không lay động;
Thẳng bước tiến lên
quả vô sanh
Yêu ma quỷ mị không ngăn
nổi
Chiếc gươm trí tuệ
tay chẳng rời
Đơn đao đột nhập
vô thượng giác;
Tam độc bát phong không chướng
ngăn
Chỉ
một chơn như tam muội ấn
Tiến thẳng vào trong nhà pháp
thân
trên ngọn diệu phong rong tự
tại
Xem xét mười phương
chúng khổ đau
Hổ thẹn ăn
năn mọi lỗi lầm
Khởi từ phương
tiện tùy ứng hóa
Đưa chúng sanh
đồng lên bờ Niết Bàn
Dù cho gian khổ ḷng
không năn
Công đức tu hành xin hướng
về
Tất cả chúng sanh cùng ḿnh được
Đồng nương chánh pháp tối
thượng thừa
Lên
ngôi chánh giác chứng Phật đạo.
VĂN SÁM HỐI (tối 14 và 29 mỗi tháng)
Chúng con đồng đến trước
Phật đài
tâm thành đănh lễ mười phương
Phật
Tất cả Bồ Tát trong ba đời
Thanh Văn Bích Chi chúng Hiền Thánh
Đồng đến chứng minh
con phát lồ :
Bao nhiêu tội lỗi trong nhiều
kiếp
Ba nghiệp gây nên chẳng nghĩ lường
Nỗi ch́m lăn lộn trong ba cơi
Tội ác chiêu hoài không biết dừng.
Hôm nay tỉnh giác
con sám hối
Cầu xin chư Phật đồng
chứng giám
Bồ
Tát Thanh Văn thảy hộ tŕ
Khiến con tội củ như
sương tuyết
Hiện tại đời con
đang sống đây
Tuy có duyên lành gặp Phật
pháp
Mà đă gây nên lắm nghiệp
khiên :
Ḷng c̣n chứa chấp tham kiêu
mạn
Sân si tật đố hạnh
tà mê
Miệng nói điêu ngoa thêm dối trá
Gạt lường ác khẩu lời
vu oan
Sát sanh hại vật
thân gây tạo
Thương tổn sanh linh để
lợi ḿnh
Tam Bảo chứng minh con sám hối
Dứt tâm tương tục kể
từ đây
Không hề tái phạm dù lỗi nhỏ
Nguyện ǵn ba nghiệp như giá băng.
Nguyện đạt chơn tông giáo
Viên đốn
Kiến tánh viên minh tâm nhất như
Vọng t́nh ngoại cảnh dường
mây khói
Nghiệp thức vốn không trí sáng
ngời.
Liễu sanh thoát tử không ngăn
ngại
Tam giới ra vào độ chúng sanh
Thuyền từ chống măi không dừng
nghỉ
Đưa hết sinh linh lên giác nhạn.
Công đức tu hành xin hồi hướng
Tất cả chúng sanh đều Niết
Bàn
Vào nhà chư Phật ngồi ṭa báu
Mặc áo Như Lai chúng pháp thân
Đồng phát Bồ Đề tâm
bất thối
Đồng ngộ vô sanh pháp giới
chơn
Đồng lên Phật
quả vào Diệu giác
Đồng nhập chơn như thể
sáng tṛn.
- o -
CHỦ LỄ XƯỚNG
Tánh tội vốn
không do tâm tạo
Tâm nếu diệt
rồi tội sạch trong
Tội trong, tâm diệt,
cả đều không
Thế ấy mới
là chơn sám hối.
Nam Mô cầu
Sám Hối Bồ tát ( đồng
tụng 3 lần)
CÁC BÀI PHỤC NGUYỆN
Phục Nguyện Cầu An
Nam Mô Bổ Sư Thích ca Mâu Ni Phật.
Nguyện dĩ thử công đức cần
an Phật tử ( hoặc chư Phật tử, nếu số
nhiều). Thượng thừa Tam Bảo lực, tứ đại
thường an lạc, Bồ đề tâm tăng trưởng.
Phổ nguyện : Thập phương Đàn
Việt tăng ích phước điền, âm siêu dương
thới, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật. (đồng niệm)
Phục Nguyện
Cầu Siêu
Nam
Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.
Nguyện dĩ thử công đức
hồi hướng cầu siêu Phật tử...(hoặc chư
Phật tử nếu có số nhiều)
Thừa tư Phật lực, tốc
thoát khổ luân, tảo đăng chánh giác.
Phổ nguyện : hiện tiền
tang quyến, phước huệ trang nghiêm, âm siêu dương
thới, pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật (đồng niệm)
(
phần này tùy theo vị Duy Na hoặc chủ lễ, nếu
có bài phục nguyện nào thích hợp và hay hơn, th́ cứ
tùy phương tiện sử dụng)
VI.
TUẦN
LỄ THAM HỌC
Thiền Viện
Chơn Không chủ trương “ Thiền giáo đồng hành”
nên mỗi tháng, đều có một tuần lễ học Kinh
Luận, và Sử chư Tổ vào đầu tháng. Chương
tŕnh và các Kinh, Luận, Sử phải học, được
ấn định sẵn trong Thanh Quy.
Tuy nhiên, vị Thượng
tọa có trách nhiệm giảng dạy hướng dẫn
có thể linh động. Tùy theo mỗi tuần, đều
có học Kinh, Luận, Sử để bổ sung cho nhau. Trừ
trường hợp các bộ kinh lớn... phải học
liên tiếp trong nhiều tuần lễ mới xong th́ thôi.
Tuần lễ học
vị nào trong chúng tham dự th́ được miễn công
tác ngoài vườn như thường lệ.
Sáng 8 giờ học tới 10 giờ
Chiều 2 giờ 30 học đến
4 giờ 30.
Lớp học được
tổ chức trong Thiền đường. Trước 15
phút vào Thiền đường nghe kinh, thầy hương
đăng đánh một hồi ba tiếng chuông báo cho toàn
chúng biết, để chuẩn bị.
Và sau đó đúng
giờ đánh ba tiếng chuông vào học mỗi khi măn giờ
học, thầy Hương đăng lại đánh một
hồi chuông, để dạy chúng nghĩ ngơi, vào nhà trù
chuẩn bị ngọ trai.
*
PHẦN III
PHỤ LỤC :
DIỄN VĂN
KHAI MẠC KHÓA I
(1971 -
1974)
DIỄN VĂN KHAI
MẠC KHÓA I
Thiền Viện
Chơn Không ngày mùng 8 tháng tư năm 1971
Kính thưa quư vị
;
Sở dĩ chúng tôi
thành lập Thiền viện Chơn Không nầy bởi có nhiều
lư do :
I/ TRỪ DẸP
MÊ TÍN VÀ LƯ THUYẾT SUÔNG :
Việt
Nam đang mắc hai bệnh nan y : Phổ biến mê tín và lư
thuyết suông.
Số Tăng Sĩ ít học
muốn hoằng hóa Phật pháp, họ không có phương
tiện nào khác hơn là, tổ chức cúng kinh, cầu an cầu
siêu, thậm chí coi ngày, xem tướng, xin xâm bói quẻ, cúng
sao cúng hạn, Phật sự của họ chỉ loanh
quanh chỉ bao nhiêu việc đó. Song với thời chiến
tranh nầy việc ấy rất thạnh hành, ví con người
đă mất hết ḷng tự tín. Cho nên các chùa thường
tổ chức cúng kính cầu nguyện xin xâm, bói quẻ, được
đa số Phật tử hưởng ứng, tới lui
tấp nập cúng dường sung túc. Nhưng sự thanh
nhàn nầy chỉ tạm thời thôi. V́ một ngày nào đó,
thái b́nh trở về trên đất nước, chừng ấy
con người sẽ tin tưởng vào tự lực của
ḿnh. Khi đó những nơi gieo
rắc sẽ bị đào thải.
Hơn nữa, Phật giáo là giáo lư giác ngộ, trái
hẳn với mê tín
và ỷ lại. Nếu người truyền đạo mà
gieo rắc mê tín là phản bội với đức Phật
vậy.
Số Tăng Sĩ hữ học thường
dùng sự giảng kinh, thuyết pháp dạy học làm phương
tiện hoằng hóa. Đối với sự truyền bá nầy
rất hợp lư, gieo cho mọi người niềm tin Phật
chơn chiùnh. Song, v́ nặng ḷng hoằng hóa các vị tăng
nầy không có thời giờ tu tập. Bởi thiếu sự
huân tu, nên khi xúc duyên đối cảnh, các vị Tăng nầy
không có đủ sức tự chủ. V́ thế mà sanh đắm
nhiễm dục lạc thế gian, hoặc sân hận bộc
phát, làm tṛ cười cho thức giả. Sự việc như
thế là do có học mà không có hành, có hiểu biết mà không
có tu, chỉ là lư thuyết suông mà thôi.
Thiền Viện là chỗ học ít tu nhiều,
mỗi thánhg chỉ học một tuần c̣n ba tuần thực
t tập. Có tu học, chúng ta mới khỏi lỗi “ Lư thuyết
suông” Có tu có học chúng ta mới có khả năng dẹp sạch
phiền năo của ḿnh và dạy người dẹp trừ
phiền năo. Được như vậy mới hợp với
đạo giác ngộ giải thoát và gieo rắc sự thật
để cứu khổ chúng sanh, dứt sạch mê tín dị
đoan.
2/ KHAI
THÔNG ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH :
Phương pháp giáo dục ngoài đời,
cấp tiểu học ông thầy chỉ dạy cho học
tṛ học thuộc ḷng những bài văn danh từ và tập
viết đúng chữ đúng câu, không cần t́m hiểu
nghĩa lư sâu xa. Cấp Trung học cho học sinh học tổng
quát về các môn, nhưng chưa chú trọng thực hành. Đến
cấp Đại học, tùy sinh viên chọn lấy một
môn nào thích hợp với ḿnh, học và thực tập hẳn
môn ấy. Có thế sinh viên sau khi ra trường, mới là
người hữu dụng cho quốc gia.
Phương pháp dạy đạo cũng
thế, tu sĩ mới vào chùa chỉ cần học thuộc
ḷng kinh chú để tŕ tụng thôi. Sau khi đă rành kinh chú tụng
niệm, tu sĩ phải học khái quát hết kinh điển
quan trọng. Đến cuối cùng tu sĩ phải chọn
lấy một pháp môn nào trong kinh luận mà ḿnh thích hợp để
tu hành đến chỗ chứng quả. Được vậy,
sự học đạo mới có ngày viên măn.
Song khổ thay ! Phật giáo Việt Nam hiện
giờ chỉ có hai giai đoạn đầu mà không có giai
đoạn cuối. Cho nên có lắm Tăng sĩ sau mười
năm học đạo ở chùa, vẫn không biết ḿnh
đang tu pháp môn ǵ ? Đó là chỗ bế tắc, khiến
nhiều Tăng sĩ đi giữa đường rồi
lui sút, hoặc đâm ra thụ hưởng.
Tu viện ra đời để khai thông
chỗ bế tắc ấy. Tăng sĩ sau khi đă hiểu
khái quát Phật giáo, muốn chuyên tâm tu Thiền hay Tịnh
th́ vào hẳn tu viện Thiền, Tịnh mà tu nơi đây
sẽ khai thác triệt để phương pháp tu, khiến
Tăng sĩ thấy rơ đường lối tu hành của
ḿnh cao siêu thanh thoát, để vui tiến không dừng, lại
tạm đủ tiện nghi để khỏi bận tâm
lo nghĩ về sự sống. Nhờ đó, Tăng sĩ
sẽ tiến măi không lùi và ngoài sự tu không c̣n nghĩ ǵ khác
3/ SỬA
ĐỔI SỰ TU SAI LẦM ĐEM LẠI SỰ TU CHÂN CHÁNH
Phong trào học Thiền, tu thiền đang
chổi dậy trên lănh thổ Việt Nam. Khá nhiều tu sĩ
đang tu thiền và đă tu thiền. Song, những người
đă tu ấy có nhiều người bị cuồng loạn,
hoặc bệnh tật. Đó là lư do khiến nhiều người
kinh sợ, cho rằng “tu thiền để điên”. Nhưng
có biết đâu, những người nói tu thiền đó,
sự thật họ không có tu thiền ǵ hết. V́ chính họ
chưa biết thiền là ǵ ? huống nửa là tu. Bởi không biết
thiề, nên nghe ai dạy ngồi yên quán thế này tưởng
thế nọ, họ cho đó là dạy thiề. Những tệ
hại của những người tu thiền xảy ra, đó
là bởi tu mù luyện quán gây nên.
Tu Viện Chơn Không ra đời cố sửa
những sai lầm ấy và gầy dựng lại đường
lối tu thiền đúng là Thiền Tông Phật giáo. Cho nên
trong Thiền viện ra đời là thổi vào Phật giáo
Việt Nam một luồn sinh khí mới, khiến cho Tăng
sĩ việt Nam thấy rơ đường hướng tiến
thủ của ḿnh, đồng thời đem lại cho Phật
giáo Việt Nam đường lối tu tập vững chắc.
Tuy nhiên, đanh từ Thiền viện chúng
ta thấy răi rác dựng trên mắc các ngôi chùa nhỏ có lớn
có, họ chưa ư thức rơ rệt Thiền viện là thế
nào ? Đó là chỉ dùng lầm danh từ, chớ không có thật
chất Tu Viện.
Tu Viện dùng đúng ư nghĩa của nó là
chỗ đào luyện những ḍng tu theo một lối tu
chuyên môn của ḍng ấy. Thiền viện cũng là nơi
chứa rất đông Tu sĩ cùng một chí hướng đồng
một hạnh nguyện. Thiền viện đă vạch sẵn
một đường lối tu hành và sự học tập
có đường hướng rơ ràng. Đây là khái quát những
lư do căn bản do sự cần ích của Thiền viện,
nếu đi sâu vào chi tiết th́ quá nhiều, không có đủ
th́ giờ tŕnh rơ cùng quư vị.
Sau khi dứt lời, chúng tôi ước
mong Phật giáo Việt Nam sẽ ra đời nhiều Thiền
viện nối gót theo Tu Viện Chơn Không nầy.
Kính chào quư vị
Viện chủ
THÍCH THANH TỪ
CÔNG TÁC
PHỔ THỈNH
A/ DẪN NHẬP :
Mỗi tháng ngày 15 và 30 (tháng
thiếu 29) trong giờ tiểu thực sáng thầy Tri sự
tuyên bố giữa chúng. Hôm nay là ngày công tác phổ thỉnh
sau giờ tiểu thực nghe ba tiếng chuông thỉnh đại
chúng theo tôi đi công tác... Mong toàn chúng liễu tri cho.
Thường th́ công tác phổ
thỉnh được áp dụng với tinh thần b́nh đẳng,
trên từ Thượng tọa viện chủ dưới đến
toàn chúng đều phải đi làm công việc do thầy
Tri sự chỉ định và hướng dẫn. Như công
tác phổ thỉnh làm cỏ ngoài vườn, tiểu thực
xong đại chúng đến kho chứa dụng cụ của
ḿnh sau đó, kẻ cuốc người dao... cùng ra vườn
làm cỏ cho đến khi nào có ba tiếng chuông báo nghỉ
mới được nghỉ ngơi.
B/ PHẦN CHÁNH :
Điểm then chốt
trong Thiền viện là lúc nào cũng thiền, lúc nào cũng
giữ tâm lặng lẽ an nhiên không phải đợi đến
giờ lên bồ đoàn ngồi ngay thẳng mới ngồi
mới tu... Thành thử khi làm việc nặng nhọc, trong
ngày phổ thỉnh cũng như lúc ngồi khoan thay trên bồ
đoàn toàn chúng đều sống đúng với nếp
thiền. Có thể mới xứng hợp với người
xưa, mới không xao lăng công phu tu hành và thực hiện một
đời sống toàn dện.
Sau đây
xin dẫn một câu chuyện trong ngày công tác phổ thỉnh
của đạo tràng vi khai tổ tông Quy Ngưỡng cũng để chứng
tỏ các bực tiền bối dụng công tu hành không phút
giây xao lăng.
- Trong ngày phổ thỉnh, sư cùng
chúng đi hái trà dưới núi. Đến chiều sư bảo
Huệ Tịch (Ngưỡng Sơn) Từ sáng chỉ nghe
tiếng con mà chẳng thấy h́nh con, hảy hiện bổn
h́nh cho ta thấy coi .
- Huệ Tịch liền đập
cây trà.
- Sư bảo :
- Con chỉ được dụng
của nó mà chẳng được thể của nó.
- Huệ
Tịch thưa :
- Chưa biết Ḥa thượng
thế nào ?
- Sư im lặng.
- Huệ Tịch lại thưa :
- Ḥa thượng chỉ được
thể của nó mà chẳng được dụng của
nó.
- Sư
liền bảo :
- Con
đáng ăn 20 gậy của ta.
Ở đây chúng ta miễn bàn đến
chiều sâu của cốt chuyện mà chúng ta chỉ nên để
ư đến yếu điểm gọi là ‘tu tập của
ngưới xưa’. Quả thật lúc nào và bao gờ các Ngài
cũng làm một việc duy nhất, chỉ sống với
cái đó mà thôi. Dù phải tùy duyên tùy cảnh, nhưng tâm các
Ngài vẫn không xao việc đó. Nói rơ hơn là trong sinh hoạt
hằng ngày của các thiền sư ở trong những thiền
viện xưa cũng như nay, luôn luôn lúc nào các Ngài cũng
điều ḥa và an nhiên, không bị đóng khung trong bất
cứ lănh vực nào dù tinh thần hay vật chất. V́ lẽ
đó mới là vô ngại, là đi cũng thiền, ngồi
cũng thiền...
Giả sử lúc nàocác Ngài
không hằng sống với cái đó, không làm chủ được
ḿnh và hằng lặng lẽ xét soi th́ làm sao các Ngài thốt được những lời nói vừa tự nhiên
vừa chân thật như cốt chuyện đă dẫn và vô
lượng cốt chuyện khác, để chứng tỏ
đường đi, chỗ đến của các Ngài như
thế.
C/ PHẦN KẾT :
Tóm lại ngày công tác phổ thỉnh nhằm
giải quyết hai việc như sau :
- Thứ nhứt : Là trong những
công tác hằng ngày, toàn chúng mỗi người làm một
việc, lănh một phận sự.
Ngày công tác phổ thỉnh nhằm giải quyết những
việc c̣n ứ lại mà cần nhiều người thực
hiện mới xong.
Hơn nữa, trong công tác hằng ngày mỗi
người làm việc riêng rẽ với phần việc
của ḿnh, không có dịp tiếp xúc cùng chung làm một việc.
Ngày công tác phổ thỉnh mọi người cùng làm một
việc cùng tiếp xúc nhau. Đó cũng là một cơ hội
tốt để ḍ xét công phu của ḿnh.
XEM :
- Ở chỗ tĩnh gặp động ḿnh
có thối chăng ?
- Đem công phu riêng biệt ḥa cùng mọi
người, xem khế ứng chăng ? và cuối cùng là biết
được đạo lực của ḿnh thâm thiển
thế nào mà tiến thêm cho đến chỗ viên măn nhứt
như.
D/ PHẦN ÁP DỤNG PHÁP TU TRONG KHI CÔNG
TÁC
Trong nhà thiền rất kỵ
hai chữ ‘phân biệt và vọng tưởng’ Hể có phân
biệt tức có vọng tưởng, cũng như bao
giờ vọng tưởng c̣n sinh tức nhiên phân biệt
cũng theo đó mà ứng khởi.
Bởi vậy, bất cứ
công việc nào trong nhà thiền cũng đều nhắm làm
sao cho mọi người ‘đừng vọng tưởng,
thôi phân biệt’ và muốn khởi vọng tưởng th́ đố
duyên xúc cảnh cũng không nên vọng tưởng, cho nên ngày
công tác phổ thỉnh cũng như bất cứ một
công tác nào trong thiền viện, các thiền sư luôn luôn nhắc
nhở đến môn đệ.
Chỉ làm hết bổn phận, không chuộng
thành quả chẳng thích phân biệt, chọn lựa khen chê...
Chỉ hay dụng công tiêu trừ vọng tập, khiến
cho tâm cảnh được như như.
V́ thế phải áp dụng công phu tu tập
vào ngày công tác phổ thỉnh, cũng như mọi sinh hoạt
hằng ngày là “Làm mà không phân biệtsuy tính cốt giữ tâm
thanh tịnh như như. Nói khác hơn tức là hoàn toàn thụ
động, sai đâu làm đó, mọi việc đă có thầy
Tri sự xếp đặc cho rồi, khỏi phải bận
tâm lo lắngđiều ǵ cả, chỉ một bề hạ
thủ công phu mà thôi.
*