THANH QUI TẬP

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THIỀN VIỆN CHÂN KHÔNG

 

 

 

 

 

 

PHẦN   I

THANH  QUY

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

       A- MỤC ĐÍCH THÀNH LẬP THIỀN VIỆN     CHƠN KHÔNG

 

I- CẦN CÓ CHỖ ĐỂ CHƯ TĂNG TU TẬP :

Ngày xưa mỗi ngôi chùa là một Ṭng lâm, một Thiền-viện, nằm trong khung cảnh yên tỉnh tịch mịch, là chỗ để cho chư Tăng tu tập. tín đồ thỉnh thoảng lai văng hỏi đạo cúng dường. Ngôi chùa xưa đa số là ở núi non hoặc nơi xa thành phố, có cây cao, có vườn rộng thích hợp với tâm hồn thanh tịnh của chúng Tăng, đủ sức dung chứa nhiều người ở đây tu tập. V́ thế, một ngôi chùa là một Thiền-viện rồi.

Ngày xưa v́ tai nạn chiến tranh, hầu hết chùa chiền đều cất trong thành phố, vừa ồn ào vừa chật hẹp lại là chỗ qui tụ tín đồ cung kính lễ lượt liên miên. Thành thử những ngôi chùa hiện giờ nặng về hướng dẫn Phật tử hơn là để độ Tăng tu tập. Bởi không có chỗ đầy đủ trợ duyên lành cho những vị Tăng hiếu tu quyết tâm cầu giải thoát, nên họ phải bỏ dở nửa đường không biết nương tựa vào đâu. Để giúp đỡ những người hiếu tu ấy, chúng tôi mới thành lập Thiền-viện nhỏ này. Mong rằng Thiền-viện nhỏ này sẽ mở đường cho những Thiền-viện lớn trong tương lai, nếu giáo hội thấy cần thiết.

II - CỨU VĂN SỰ TU SAI LẠC VÀ GIẢM THIỂU AM CỐC

Chùa chiền hiện nay không thích hợp với những người ham tu quyết tâm cầu giải thoát, cho nên họ tự tiện t́m chỗ thích hợp với ḿnh, cất am cốc riêng để tự tu, không thầy hướng dẫn, không bạn nhắc nhở th́ làm sao tránh khỏi những sự lạc lầm. Bởi thiếu thầy lành bạn tốt, cho nên họ tu một lúc lại sanh bệnh hoạn điên cuồng hoặc chạy theo tà giáo, hoặc tuy h́nh thức xuất gia mà cử chỉ lời nói không khác ǵ thế tục. Muốn cứu văn những tệ hại ấy, cần phải lập Thiền-viện.

III - PHẬT GIÁO MUỐN ĐƯỢC MIÊN VIỄN

Phật giáo muốn được sống măi trong ḷng nhân loại cần có đủ hai mặt:

       a- Từ thiện xă hội: Muốn thực hiện từ bi, Phật giáo phải đi sát quần chúng để chia sớt nỗi đau khổ của họ và hướng dẫn họ trở về với Đạo. Đây là trách nhiệm của Tăng, Ni nặng ḷng từ bi muốn đem đạo vào đời để xoa diệu vết thương đau của họ, hoặc đem đời vào Đạo đặng cứu rỗi những tâm hồn đang sa đọa trong hắc ám vô minh. Đó là bề rộng của Phật giáo.

b- Chuyên tu cầu giải thoát: Chủ yếu của Phật giáo là cứu người thoát khỏi ṿng trầm luân sanh tử. Bao nhiêu kinh điển bao nhiêu phương tiện đều không ngoài mục đích ấy. V́ thế, nếu người tu chỉ một bề lo làm việc từ thiện xă hội, hoặc giảng dạy để hướng dẫn người về với Đạo mà thiếu sự chuyên tu cầu giải thoát là đă hạ giá trị Phật giáo xuống thấp. Khi người tín đồ đă hiểu Tam qui, Ngũ giới, Nhân quả, Luân hồi,... họ muốn tiến lên cầu giải thoát, thử hỏi họ sẽ trông cậy vào đâu, nếu không có những vị Tăng chuyên tu để hướng dẫn họ.

Hơn nữa, chư Tăng phải tự ḿnh được độ mới có thể độ được người, tự ḿnh giải thoát mới cứu được người giải thoát. Do đó, sự chuyên tu không thể thiếu ở một tu sĩ nào. Nếu có làm việc từ thiện xă hội, giảng gaỉi... cũng chỉ là phương tiện trong buổi đầu của tu sĩ mà thôi. Chỗ cứu cánh của tu sĩ là phải thực hiện kỳ được sự giải thoát trong đời hiện tại của ḿnh. Nếu không có Tu-viện th́ lấy đâu làm chỗ ẩn trú vững vàng để tu sĩ thực hiện hoài bảo của họ? Nếu Phật giáo chỉ lo làm việc từ thiện xă hội hoặc bố thí cúng dường làm phước th́ có khác ǵ những tôn giáo khác hay những đoàn thể từ thiện khác. Như vậy hoặc vô t́nh hay cố ư khiến Phật giáo không c̣n ǵ cao siêu kỳ đặc nữa. Cho nên, lập Tu-viện để có một số Tăng sĩ chuyên tu đó là khai thác bề sâu của Phật giáo.

Nếu Phật giáo chỉ lo mở mang bề rộng mà thiếu khai thác bề sâu th́ khó mong tồn tại lâu dài. Để cứu văng chỗ thiếu sót hiện giờ của Phật giáo, lập Tu-viện dành cho một số Tăng sĩ chuyên tu là việc là việc làm tối thiết yếu vậy.

IV - ĐỂ LÀM SÁNG TỎ TỪNG PHÁP TU

    Phật giáo có chia nhiều tông phái, mỗi tông phái có một pháp tu riêng. Mỗi pháp tu phát triển đến cứu cánh th́ sự tu hành mới có thể chứng đắc được. Phật giáo Việt Nam thừa hưởng gia tài của Phật giáo Trung Hoa. Ở Trung Hoa Phật giáo có chia làm mười tông, nhưng hiện lưu hành trên đất Việt Nam chỉ có hai tông chánh là Thiền tông và Tịnh Độ tông. Chúng tôi hy vọng ở Việt Nam sẽ ra đời nhiều Tu-viện sau này, mỗi Tu-viện chuyên tu về Thiền hay Tịnh. Trong mỗi Tu-viện sẽ có một vị thầy đủ sức hướng dẫn và khai thác triệt để những quyển kinh, luận chuyên về tông phái của ḿnh. Có thể, những người tu mới khỏi lo sợ lạc lầm và mỗi ngày niềm tin càng vững chắc. Cũng nhờ đó, người ta mới thấy đường lối tu hành rơ ràng và giáo lư Phật càng sáng tỏ hơn.

V - THIỀN VIỆN CHƠN KHÔNG NHẰM LÀM     SỐNG LẠI THIỀN TÔNG VIỆT NAM

Phật giáo có mặt trên lănh thổ Việt Nam hầu hết đều kế thừa các vị Thiền sư từ Trung Hoa sang. Mở đầu là ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, kế ngài Vô-Ngôn-Thông, ngài Thảo-Đường, và sau này ngài Nguyên Thiều... Bởi kế thừa Thiền-tông nên Phật giáo Việt Nam ngày xưa đều gọi chung là Thiền gia (nhà Thiền), Thiền-môn (cửa Thiền), Thiền-lâm (rừng Thiền)... Nhưng gần đây Tăng sĩ Việt Nam dường như quên lăng Thiền tông, chỉ tôn sùng Tịnh Độ tông. Thật là một sự mất gốc đáng tiếc của Phật giáo Việt Nam. Không nở để cho Thiền tông mai một ở Việt Nam, Thiền-viện Chơn Không chúng tôi sẽ cố gắng khai thác những kinh luận về Thiền tông và thực hành tu tập theo Thiền tông, để làm sống lại nền Phật giáo cố hữu lại Việt Nam.

B - ĐƯỜNG LỐI TỔ CHỨC THIỀN VIỆN CHƠN  KHÔNG

I.  BAN CHỨC SỰ

Ban chức sự của Thiền viện được quy định như sau:

I- Viện chủ: Cai quản toàn viện, hướng dẫn sự tu hành và giảng dạy kinh luận. Trọn quyền trong việc thâu nhận người vào viện và quyết định mời đi nếu vị nào không giữ đúng nội quy Thiền viện.

2- Quản viện: Trông coi tất cả tài sản của viện, thọ nhận tất cả đồ cúng dường, mua sắm ăn mặc và những nhu cầu cho chúng phân chia phẩm vật và xem xét sự thiếu đủ của chúng để lo liệu

.       3- Tri sự: Sắp đặt mọi công tác trong viện là những thời khóa học tu công cộng của chúng, xem sóc vườn tược và phân công người làm cỏ.

4-  Tri khách: Tiếp những khách đến Thiền viện, sắp đặt sự ăn ở của khách, đặt người gát chuông, thay mặt toàn chúng tiếp xúc chánh quyền nếu có việc cần.

5- Tri khố: Ǵn giữ lương thực ở nhà trù và sắp đặt người làm bếp đi chợ.

6- Thư kư: Đánh máy những văn thư của Thiền viện và bài học của chúng. Ǵn giữ những pḥng phẩm của Thiền viện.

7- Hương đăng: Lo việc hương đèn và quét dọn trên chùa, giữ trách nhiệm đánh kiễng cho tất cả thời khóa tu học và công tác.

II.  THÂU CHÚNG

Thiền viện Chơn Không đối với số Thiền sinh chỉ trọng phẩm không nghĩ đến lượng. V́ thế, khi Thiền viện thành h́nh số Thiền sinh tối thiểu là bốn vị, tối đa là hai mươi vị. Những Thiền sinh xin vào Thiền viện phải lựa chọn kỹ càng. Thiền viện tổ chức từng khóa một, mỗi khóa ba năm. Những Tiền sinh tu tại đây ba năm măn khóa sẽ được bổ nhiệm đi nơi khác ngoại trừ trường hợp cần giúp việc cho Thiền viện, hoặc tuổi nhỏ, hoặc phát nguyện nhập thất mới giữ lại.

Mỗi Thiền sinh khi vào Thiền viện phải có đủ giấy tờ hợp pháp, không mắc bệnh truyền nhiễm, phải được Bổn sư hoặc Y chỉ sư giới thiệu, phải có ư chí xả thân v́ cầu đạo giải thoát.

 

 

*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NỘI  QUI

I   LỜI MỞ ĐẦU:

Một Thiền viện muốn có qui củ, có đường lối tu hành vững chắc lâu dài, tất cả Thiền sinh tại các Thiền viện phải triệt để tuân hành đúng Nội qui của Thiền viện. Nội qui không phải sự ép buộc Thiền sinh sống trong cảnh cơ cực vô lư, mà do Thiền sinh tự nguyện khép ḿnh trong khuôn khổ phù hợp với Đạo giải thoát. Nói đúng hơn, nội qui là vị Hộ pháp đầy đủ oai lực để bảo vệ toàn vẹn những người tu hành đạt được sở nguyện của ḿnh. V́ thế, không một Thiền sinh nào đă phát nguyện vào Thiền viện mà có thể lơ là với Nội qui.

II  PHẦN CHÁNH :

A/  Tuân hành lục ḥa :

Để thành một đoàn thể Tăng đúng với ư nghĩa Tăng Thiền sinh trong Thiền viện phải hoàn toàn tuân hành lục ḥa :

1/  Thân ḥa đồng trụ:  Về phần thân, ăn mặc, ở và công tác tất cả Thiền sinh đều ḥa đồng nhau.

2/  Khẩu ḥa vô tranh: Về phần miệng, luận bàn nói chuyện Thiền sinh đều dùng lời ḥa nhă, không bao giờ có lớn tiếng căi rầy.

3/  Ư ḥa đồng duyệt:  Đối đăi nhau, Thiền sinh luôn luôn tâm ư vui ḥa không nên cố chấp phiền hận.

4/  Giới ḥa đồng tu: Tất cả Thiền sinh trong Thiền viện đều giữ 10 giới làm căn bản và sống đúng nội qui.

5/  Kiến ḥa đồng giải: Sống chung nhau, Thiền sinh có những hiểu biết đều giải bày cùng nhau đồng hiểu đồng cảm thông, không nên có thành kiến riêng tư.

6/  Lợi ḥa đồng quân  Tất cả tài lợi trong Thiền viện là của chung của những Thiền sinh hiện có mặt, đều phải chia đồng đều nhau, không ai có quyền nhận giữ riêng một vật ǵ.

B/  Giữ mười giới làm căn bản :

Phần giới luật, Thiền sinh trong Thiền viện phải giữ kỳ được 10 giới làm căn bản :

1/    Không sát sanh

2 /   Không trộm cắp

3/    Không dâm dục

4/    Không nói dối

5/    Không uống rượu

6/    Không dùng dầu thơm, các chất thơm xoa ḿnh và không đeo đồ trang sức.

7/    Không nghe ca nhạc và tự hát múa.

8/    Không nằm giường đẹp rộng lớn

9/    Không ăn chiều

10/  Không giữ vàng bạc và châu báu.

C/  TÓM KẾT

Trong phần chánh này, Thiền sinh nếu phạm một hoặc nhiều điều, tùy nặng nhẹ hoặc phạm một lần liền mời ra khỏi Thiền viện, hoặc cảnh cáo đến ba lần mà không sửa sẽ mời ra khỏi Thiền viện.

III  PHẦN PHỤ :

I/ Để giữ tâm hồn thanh tịnh thuần Đạo lư, Thiền sinh không được đọc báo chí, sách vở ngoài đời và dùng Radio nghe tin tức.

2/ Để tiết kiệm tài sản của Thiền viện cũng như của tín đồ, Thiền sinh tuyệt đối không hút thuốc, không uống bia và các thứ có tánh cách xa xí.

3/ Để tiết kiệm th́ giờ tu học tu học, Thiền sinh không được tiếp khác quá 15 phút.

4/ Để giữ được điều ḥa thứ sáu, Thiền sinh tuyệt đối không được nhận tiền bạc vật dụng cúng dường riêng dù nhiều dù ít đều giao cho Quản viện chia đồng nhau (% nếu có người cúng dường).

5/  Để tránh mọi hoài nghi của người, có việc cần đến am cốc Ni, Thiền sinh không được đi một ḿnh.

6/  Để giữ trật tự cho Thiền viện, tất cả khách đến và ở lại đều do Tri khách sắp đặt, không một Thiền sinh nào được quyền lo riêng dù là thân nhân của ḿnh.

7/ Để phù hợp với tinh thần thiền, Thiền sinh không nên dụm ba họp bảy cười nói ồn náo, chỉ được hợp bàn Đạo lư một cách êm ái.

8/  Để tâm ư khỏi xao động, Thiền sinh hạn chế tối thiểu sự đi lại, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

9/  Để thể hiện tinh thần tương thân tương ái, tất cả Thiền sinh phải triệt để tương trợ nhau không phân biệt thân sơ.

10/  Để thực hiện một đời sống đơn giản, mỗi Thiền sinh chỉ được ba bộ đồ ngắn, hai áo tràng và y hậu, toàn bằng cải màu vàng.

11/ Thư từ qua lại phải tŕnh thầy Viện chủ xem qua.

Trong những điều phụ này nếu Thiền sinh nào phạm sẽ bị mời ra khỏi Thiền viện.

         
               *
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

 

I/  Nghĩ đêán thân chẳng cầu không bệnh, thân không bệnh th́ tham dục dễ sanh.

2/ Ở đời, chẳng mong không nạn, không nạn th́ kiêu xa ắc khởi.

3/ Tham cứu tâm, chẳng cầu không chướng, tâm không chướng th́ việc học không vượt bật.

4/ Lập hạnh, chẳng mong không ma, không ma th́ thệ nguyện không vững.

5/ Sắp đặc việc, chẳng cầu dể thành, việc dể thành th́ chí c̣n khinh mạn.

6/ T́nh nghĩa qua lại, chẳng mong lợi ḿnh, lợi ḿnh th́ kém tổn đạo nghĩa.

7/ Đối tiếp người, chẳng cầu nuông chiều, được nuông chiều th́ tâm sanh kiêu căng.

8/ Thi ân bố đức, chẳng mong đền đáp, mong đền đáp là ư c̣n mưu toan.

9/ Thấy lợi, chẳng cầu ḿnh được, được lợi th́ tâm si dễ động.

10/ Bị hàm oan, chẳng cầu minh oan, minh oan th́ oán hận càng sanh.

Thế nên, Thánh nhơn lập bày giáo hóa, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm tiêu dao, lấy chướng nạn làm giải thoát, lấy chúng ma làm bạn pháp lấy khó khăn làm thành công, lấy kẻ giao hữu tệ bạc làm sự giúp ích, lấy người nghịch làm vườn đẹïp, lấy bố đức làm dép rách, lấy lợi sơ sài làm giàu sang, lấy oan ức làm cửa hạnh.

Như thế ở chỗ ngại biến thành thông, mong được thông trở thành ngại. Như thế Như Lai ở trong chướng ngại được Đạo Bồ Đề.. Đến như bọn ông Ương Quật Ma La và Đề Bà Đạt Đa đều đến làm hại, mà đức Phật vẫn thọ kư cho họ sau sẽ thành Phật. Đâu không phải họ là nghịch mà ta vẫn thuận, kia là hoại mà ta lại thành.

Song thời nay người thế tục học đạo, nếu trước không ở chỗ ngại, khi chướng ngại đến khó bề dẹp nỗi, khiến của báu Pháp Vương do đó mà mất. Đâu chẳng tiết ư ! Đâu chẳng tiết ư !

                    (Bảo Vương Tam Muội Luận)

 

*

 

 
 
 
C -  PHƯƠNG TIỆN TIẾN TU

Thiền Tông chủ trương lấy tánh làm yếu môn nhập Đạo, không dùng những phương tiện quanh co. Song v́ căn cơ người thời nay chậm lụt khó nhận được bản tánh, nên tạm dùng phương tiện hướng dẫn cho họ gọt giũa lần lần để phút giây nào đó tự họ trực ngộ. Phương tiện đó là thời khóa tu tập hằng ngày của chư Tăng tại Thiền viện.

           THỜI KHÓA HẰNG NGÀY

Sáng :

04 giờ đến 06 giờ : Tại nhà công cộng tại nhà thiền (Hô Thiền)

07 giờ       : Tiểu thực (ba tiếng bản nhà trù

07 giờ 30 đến 08 giờ 45: Công tác  (3 tiếng chuông)

09 giờ 30 đến 10 giờ 30: Tọa thiền  (ba tiếng chuông)

   11 giờ 30: Sớt cơm vào bát (ba tiếng bản nhà trù)

       12 giờ       :  Thọ trai

Chiều :

       1 giờ : Chỉ tịnh (một hồi chuông)

       2 giờ : Thức chúng (một hồi ba tiếng chuông)

       4 giờ đến 5 giờ : Tọa thiền (ba tiếng chuông)

       7 giờ đến 7 giờ 30 : Tụng kinh Bát nhă tại nhà Thiền (ba tiếng chuông)

       8 giờ đến 10 giờ : Tọa thiền công cộng tại nhà Thiền (Hô thiền)

D - HẠN KỲ KINH LUẬN SỬ

Chủ yếu của Thiền Tông là : “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự ; trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”. Nếu chúng ta tu thiền mà nghe kinh học luận là trái lại với chủ trương của Thiền Tông sao ?

Song v́ Phật Giáo Việt Nam thừa kế gia bảo Thiền Tông mà không khéo giữ ǵn bị mất gốc. Do đó, cho nên Thiền viện Chơn Không mới chủ xướng “Thiền giáo đồng hành” nghĩa là vừa tu theo Thiền Tông vừa học kinh luận. Bởi v́ hiện t́nh tu sĩ Việt Nam cũng có lắm người tu Thiền, nhưng không có mấy người thực tu theo Thiền Tông chánh thống. V́ thế, họ dể bị lạc lầm và ra bệnh hoạn điên cuồng. Cho nên có nhiều người nghe nói tu Thiền là đâm ra kinh sợ. Bởi vậy Thiền viện Chơn Không đề khởi tu Thiền, nếu không đem kinh luận của Phật Tổ phối hợp chặc chẽ th́ không sao tránh khỏi sự nghi ngờ e sợ của đa số Tu sĩ. Đó là lư do căn bản Tăng chúng ở đây phải học kinh luận.

 

HẠN KỲ NGHE KINH LUẬN SỬ TRONG BA NĂM

           NĂM THỨ NHỨT :

 

Kinh :   1/  Bát nhă tâm kinh           (Hán)

                2/  Kinh Kim Cang              (Hán)

                3/  Kinh Duy Ma Cật           (Việt)

                4/  Kinh Viên Giác              (Hán)

Luận :   1/  Qui Sơn cảnh sách          (Hán)

                2/  Nguồn Thiền                  (Việt)

             3/  Tham Thiền Yếu Chỉ       (Việt)

             4/  Luận Tối Thượng Thừa    (Việt)

             5/  Kinh Pháp Bảo Đàn        (Việt)

     6/  Thuyền Gia Bảo Thiền Tông Trực chỉ (Việt)

Sử :        1/  Ba mươi ba vị Tổ Ấn Hoa

                 2/  Thung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng I

 

NĂM THỨ HAI

 

Kinh :    1/  Kinh Lăng Già            (Việt)

  2/  Kinh Lăng Nghiêm      (Việt)

                 3/  Kinh Pháp Hoa                        (Việt)

Luận : 1/  Thiếu Thất Lục Môn                    (Việt)

              2/  Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn       (Việt)

              3/  Luận Đại Thừa Khởi Tín              Hán)

              4/  Luận Trung Quán                        (Hán

              5/  Thiền Quan Sách Tấn                  (Việt)

Sử :     1/   Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng II

 

                         NĂM THỨ BA

 

Kinh :   1/  Kinh Niết Bàn  (Đại cương)         (Việt)

                2/  Kinh Hoa Nghiêm  (Đại cương)   (Việt)

Luận :   1/  Chơn Tâm Trực Thuyết              (Việt)

                2/  Chứng Đạo Ca                                   (Hán)

                3/  Vạn Pháp Qui Tâm                            (Việt)

                4/  Tín Tâm Minh                        (Hán)

Sử :       1/  Sử Thiền Sư Việt Nam

            Những kinh, luận, sử này sẽ được nghe trong ṿng sáu ngày đầu của mỗi tháng âm lịch (1- 6) đến khi nào hết số kinh... đó th́ nghĩ. Nghĩa là bắt đầu mồng tám tháng tư âm lịch khai giảng, về sau từ mùng một đến mùng sáu nghe kinh đều đều như thế (trừ tháng giêng âm lịch cho nghĩ). Khi nghe kinh, th́ mỗi ngày khởi đầu từ 8 giờ đến 10 giờ sáng, 2 giờ 30 đến 4 giờ 30 chiều. Thời gian nghe kinh... bớt giờ công tác sáng và giờ Tọa thiền công cộng buổi sáng, buổi chiều.

            Người nghe kinh không bắt buộc có kinh hay không chỉ cần lắng thần ngồi nghe để thâm nhập yếu lư là đủ.

E - CÚNG DƯỜNG CẦU NGUYỆN

Cúng dường :

Các Phật tử phát tâm cúng dường chư Tăng tại Thiền viện bằng vật thực tiền bạc, hoặc trai phạm đều được chư Tăng hoan hỷ thu nhận. Nếu tiền bạc vật thực, quí vị nên trực tiếp giao cho thầy Quản viện, hoặc gián tiếp nhờ thầy Tri Khách trao lại. Quí Phật tử tuyệt đối không nên cúng dường riêng cho một vị Tăng nào. Nếu cúng dường trai phạn cần trực tiếp với thầy Quản viện để sắp đặc việc nhà trù. Nếu hôm nào có Phật tử cúng dường trai phạn th́ chư Tăng khỏi làm bếp, nhà trù trong viện giao toàn quyền cho Phật tử xử dụng.

II. CẦU NGUYỆN:

V́ muốn giảm bớt duyên ngoài nên chư Tăng tại Thiền viện không nhận rước đi cầu an cầu siêu bất cứ nơi nào. Để đền ơn thí chủ và thể hiện tâm từ bi, chư Tăng sẵn sàng chấp nhận quí Phật tử xin cầu an cầu siêu tại Thiền viện qua hai thời sau buổi ngọ trai và thời kinh Bát Nhă lúc 7 giờ tối. Điều kiện xin, chỉ chuộng ḷng khách không quí tài vật.

Chú ư :  Giờ tọa thiền công cộng, buồi sáng và buổi chiều Tăng, Ni và Cư Sĩ nam nữ bên ngoài được dự, song phải được Viện chủ cho phép.

 

*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

G          KHÁCH ĐẾN THIỀN VIỆN         

            Chư Tăng trong Thiền viện vui vẽ đón tiếp tất cả khách đến với tinh thần t́m hiểu Phật pháp hoặc v́ viếng thăm Thiền viện, nhưng phải theo điều kiện sau đây :

I           KHÁCH TĂNG : Khách Tăng đến viếng Thiền viện cần phải giữ nếp sống tương tợ với chúng Tăng trong Thiền viện. Nếu khách Tăng muốn lưu lại trong Thiền viện th́ không quá một tuần (ngoại trừ trường hợp đặc biệt do Viện chủ cho phép) Trong thời gian lưu lại, khách Tăng phải tập sinh hoạt như tăng chúng tại Thiền viện.

II     KHÁCH CƯ SĨ NAM :  Khách cư sĩ nam đến viếng Thiền viện hoàn toàn theo sự hướng dẫn và sắp đặt của thầy Tri Khách. Nếu cần lưu lại Thiền viện th́ không quá 3 ngày, ngoại trừ những vị được cho phép “dự tập tọa thiền”, hoặc “dự học Phật pháp”. Trong thời gian lưu lại Thiền viện, khách nên coi ḿnh như đang thọ “Bát quan trai” mặc dầu không làm lễ thọ. Nghĩa là khách vẫn không được nghe Radio, không đọc báo chí và không ăn phi thời (v́ chư tăng chiều không nấu cơm). Đến bữa cơm, khách phải tự đến nhà trù lănh phần cơm về pḥng khách tự dùng.

III .      KHÁCH NI VÀ CƯ SĨ NỮ :  Thiền viện có dành một pḥng khách riêng cho nữ phái, khách nữ và Phật tử nữ đến viếng Thiền viện nên dừng lại “nhà khách nữ”. Muốn vào Thiền viện thăm thân nhân hoặc thưa hỏi điềi ǵ, khách nên theo thời gian ấn định tiếp khách của chư Tăng mà đến. Khách cần lưu lại nhà khách này cũng không quá 3 ngày, ngoại trừ những vị được cho phép “dư tập tọa thiền” hoặc “dự học Phật pháp” th́ thời gian lưu lại không nhất định.

            Nếu Phật tử phát tâm cúng dường trai phạn cho chư Tăng nên đến nhà trù trong Thiền viện sắm soạn. Cúng dường xong trở lại “nhà khách nữ an nghĩ”.

IV.   THỜI GIAN TIẾP KHÁCH CỦA VIỆN CHỦ:

Viện chủ tiếp khách từ 10 đến 12 giờ buổi sáng và từ 4 giờ đến 7 giờ chiều mỗi ngày. Ngoài thời gian được ấn định, khách cần hỏi việc ǵ nên trực tiếp với thầy Tri Khách.

V.   THỜI GIAN TIẾP KHÁCH CỦA CHƯ TĂNG :

V́ đem hết tâm tư vào việc tu tập, chư Tăng ở đây nếu có thân nhân hoặc thiện tín đến thăm cũng chỉ tiếp vào lúc 10 giờ 30 đến 12 giờ buổi sáng và 5 giờ đến 7 giờ buổi chiều. Mỗi khi khách đến thăm, chư Tăng chỉ được tiếp trong ṿng 15 phút và lúc tiếp phải có Tri Khách ở đó. Ngoài thời gian ấn định trên, khách cần nhắn giởi chi cho chư Tăng nên trao thẳng với Tri Khách.

 

                        PHẦN  II
                 NGHI - THỨC

           

I               NGHI THỨC  THỈNH NGUYỆN

II             NGHI THỨC  QUÁ ĐƯỜNG

III            NGHI THỨC  TỌA THIỀN

IV            KHÓA LỄ      BÁT NHĂ

V             TUẦN LỄ      THAM HỌC

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

   I.      NGHI THỨC THỈNH NGUYỆN

PHẦN MỞ ĐẦU :

Xưa các ngôi Đại già lam đều có lễ Bố Tát tụng giới vào hai ngày rằm và ba mươi (tháng thiếu hai mươi chín).

Thông thường, vào những ngày này, Phật tử càc nơi về chùa thọ giới Bát quan trai (tập tu một ngày một đêm). Đến chiều trong ngày, tất cả đều dự Bố Tát nghe giớ cùng chư Tăng, Ni.

Riêng các Thiền viện th́ lâu nay không đặc nặng vấn đề nghi lễ mà chú trọng phần áp dụng công phu bên trong. Hơn nữa, phút giây nào cũng đă giữ tâm an nhiên thanh tịnh  rồi, hẳn chẳng cần ấn định ngày giờ như tập tục ngày xưa. Tuy nhiên, phương tiện sách tấn kẻ sơ cơ và hạng lười nhác để họ sớm sửa chữa những sai quấy mà tiến tu, trong Thiền viện cũng có lễ Thỉnh nguyện, vào sớm mai hoặc chiều trong hai ngày nói trên.

2 -     PHẦN CHÁNH :

I /        NGHI THỨC HÀNH LỄ :

            Nghe ba tiếng chuông, đại chúng y hậu tề chỉnh vân tập trước điện phật. Thượng tọa Viện chủ niệm hương lạy một lạy quỳ.

a/      Bài Nguyện Hương :

         Nguyện thử diệu hương vân,

Biến năn thập phương giới,

       Cúng dường nhứt thiết Phật,

       Tôn pháp chư Bồ tát,

       Vô biên Thanh Văn chúng,

       Cập nhứt thiết Thánh Hiền,

       Duyên khởi quang minh đài,

    Xứng tánh tác Phật sự,

    Phổ huân chư chúng sanh,

    Giai phát Bồ đề tâm,

    Viễn ly chư vọng nghiệp,

    Viên thành Vô thượng đạo.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha tát.

b/   Kỳ Nguyện :

Tư thời Thỉnh nguyện chi kỳ, đệ tử chúng đẳng cung tựu Phật tiền, chí thảnh Thỉnh nguyện. Ngưỡng vọng Tam Bảo lai lâm chứng giám, linh chúng đệ tử thỉnh nguyện tam nghiệp thanh tịnh, Trí tuệ viên măn.

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh ( 3 lần) (đứng dậy cắm hương lên lư rồi chấp tay đứng thẳng và tụng)

c/   Tán Phật :

Pháp Vương Vô Thượng Tôn,

Tam giới vô luân thất,

Thiên nhơn chi Đạo sư,

Tứ sanh chi từ phụ,

Ư nhứt niệm qui y,

Năng diệt tam kỳ nghiệp,

Xưng dương nhược tán thán,

Ức kiếp mạc năng tận.

Năng lễ sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo giao nan tư ngh́,

Ngă thử đạo tràng như Đế châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngă thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt thiết chư Phật. (lạy một lạy)

Chí tâm đảnh lễ : nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt thiết tôn pháp. (lạy một lạy)

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị là, nhứt thiết chư Hiền Thánh Tăng. (lạy một lạy)

2/   PHẦN THỈNH NGUYỆN :

Lễ phật xong, Đại chúng theo thứ tự ngồi thành hai hàng từ trong bàn Phật ra, Thượng Tọa Viện chủ tuyên bố :

Hôm nay là ngày Thỉnh nguyện toàn chúng Tăng lặng lẽ nghe đọc nội qui. Sau đó mỗi vị tự kiểm trong nữa tháng qua, nếu có phạm lầm lỗi ǵ th́ phát lời sám hối. Đồng thời cầu xin Đại chúng v́ ḿnh chỉ cho những lầm lỗi nào mà ḿnh không thấy, để sám hối cho được thành tịnh. Tri sự đọc Nội quy.

Thầy Tri sự đọc to lên bản Nội qui của Thiền viện. Sau khi đọc xong, Thượng tọa bảo :

Phần đọc nội quy rồi, tiếp theo là phần thỉnh nguyện.

Theo thứ tự...

Lời thỉnh nguyện của mỗi vị :

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thượng tọa cùng toàn thể Đại chúng :

Trong nữa thánh qua, con tự xét không thấy có tội chi (hoặc có phạm những lầm lỗi ǵ kể ra sám hối) nhưng ngoài ra, không biết con có phạm lỗi lâm nào mà con không thấy, kính mong trên Thượng tọa cùng toàn thể Đại chúng từ bi chỉ cho con, con sẽ y pháp sám hối cho được thanh tịnh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thượng tọa chủ lập lại :

Về phần thầy A... tự kiểm trong nữa tháng qua, không thấy có phạm lỗi ǵ. Nhưng không biết c̣n có lầm lỗi ǵ mà thầy A... không thấy, yêu cầu trong chúng từ bi chỉ cho, để thầy A... sám hối cho được thanh tịnh.

Bấy giờ tùy mỗi việc sảy ra, Thượng tọa căn cứ Thanh quy mà giải quyết, theo lời Thỉnh nguyện, người được chỉ lỗi phải vui vẻ sám hối. Sau đó Thượng tọa kết thúc :

Phần thầy A... xong, kế đó, hoặc tiếp.

     Sau phần Thỉnh nguyện, Thượng tọa nhắc nhở :

     Phần Thỉnh nguyện đă xong, tôi thấy trong chúng đă cố gắng sống đúng tinh thần Nội quy, đồng thời tinh tấn thực hiện cả hai mặt tu tập và công tác. Tôi tin rằng cứ theo đà tiến này, dần dần chúng ta sẽ trở thành những người tốt, xứng đáng, làm gương mẫu cho đời sau. Vậy mong toàn thể vững tiến trên đường Bồ đề, để ḿnh và người đều được lợi ích.

Bây giờ là phần linh tinh, trong chúng thấy cần thây đổi điều ǵ không ? Hoặc có ư kiến ǵ nêu lên ?

Sau cùng Thượng tọa bảo :

Mọi việc sắp đặc đă xong, vậy th́ Đại chúng xả ra cùng đứng dậy hồi hướng.

Thường lệ Thỉnh nguyện kéo dài khoảng 1 tiếng đến 1 tiếng 30 phút.

3/   Phần Hồi Hướng :

Công đức Thỉnh nguyện không tính kể,

Thắng phước vô biên đồng hướng về

Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh

Thảy đều thể nhập vô sanh nhẫn.

Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền năo

Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời

Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ

Đời đời thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện đem công đức tu hành nầy

Chan răi mười phương khắp tất cả

Hết thảy chúng con cùng các loại

Đồng được lên ngôi Vô thượng giác.

    

      TAM TỰ QUI Y

      Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát Vô thượng tâm (1 lạy)

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúnh sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải (1 lạy)

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lư Đại chúng, nhứt thiết Vô ngại (1 lạy)

3/  PHẦN ĐÚC KẾT:

Ngoài việc thực hiện và hoàn tất ư hướng ban đầu của người xuất gia, cùng làm sống dậy phương tiện của người xưa, tiến tới chỗ lành mạnh phong hóa trong Thiền môn, đồng thời góp phần xây dựng Phật giáo thế hệ trong tương lai, ngày Thỉnh nguyện c̣n nói lên được ư chí tự tỉnh, tự giác, sẵn sàng đón nhận mọi ư kiến khách quan, cùng luôn luôn ḥa ḿnh căi thiện mọi sái quấy đă có. Như vậy, chính phút giây Thỉnh nguyện, ḷng ḿnh được nhẹ nhàng, khoang khoái, lắng đọng mọi ư tư. Từ đó đời sống trở nên vui vẻ an nhiên và giải thoát.

Thời thường trong các Thiền môn, mỗi nữa tháng cũng Bố tát, tụng giới...

Tuy nhiên, lâu dần chỉ c̣n là thói quen, cứ làm mà không ư thức được việc làm hết sức quan trọng, rất có ư nghĩa của Thiền môn, mà biến ra lệch lạc và mất cả hiệu năng của nó, cũng mất hẵn tính chất thật tiễn đối với đời sống hằng ngày của đoàn thể Tăng. V́ thế, chủ trương Thỉnh nguyện của Thiền viện nhằm phá vỡ mọi lề thói lỗi thời, mở toan một chân trời mới, để hướng tiến cho kẻ đồng tu cùng vươn đến chí đạo.

Hơn thế nữa, ngày Thỉnh nguyện c̣n thể hiện trọn vẹn tinh thần b́nh đẳng cao tột của Đạo Phật. B́nh đẳng ở đây nói là thứ b́nh đẳng không đặt điều kiện, không c̣n giấu giếm bất cứ ǵ bên trong ḷng ḿnh. Nghĩa la,ø những lời phát nguyện vào Thiền viện là những người tinh tấn đi trên con đường đă chọ, vững chí tiến đến cùng “ tâm nguyện của ḿnh” và những lời nguyện đem ánh sáng từ bi trí tuệ của Đạo Phật soi khắp mọi nơi. Nói khác hơn là những người,

  “Trước cầu tự độ

    sau độâ chúng sanh”

Do đó, ngày thỉnh nguyện có một giá trị thiết thực vô cùng, giờ thỉnh nguyện là giờ nói lên tinh thần cao cả của điều “kến ḥa đồng giải”, Phút giây thỉnh nguyện là sống đúng với ư nghĩa tự giác, tư tỉnh của những người quyết chí.

“Thượng cầu Phật đạo

Hạ hóa chúng sanh”.

II.        NGHI THỨC TỌA THIỀN :

I.                   PHẦN MỞ ĐẦU :

Để thích hợp với sinh hoạt ṭng lâm hiện tại,và thúc liễm các bạn đồng tu, Thiền viện tổ chứ Thời khóa tọa thiền như sau :

Sáng chiều hai thời thuộc ban ngày. Tối đến có “Khóa lễ Bát Nhă”. Sau đó lúc 8 giờ, th́ tọa thiền, và một thời buổi khuya bắt đầu từ khoảng 4 giờ. Như vậy, ngày đêm có cả thảy là 4 giờ tọa thiền công cộng tại thiền đường, có thể thục liễm kẻ sơ cơ, và ngăn ngừa bệnh lười nhác trong thiền viện.

 

II  CÁCH TỌA THIỀN :

Đến giờ tọa thiền được báo trước bằng ba tiếng chuông, Đại chúng mặc áo tề tự trước bàn Phật trong thiền đường, vị chủ lễ (thường là thầy Tri sự) đánh chuông xướng :

a)                  - Chí tâm đảnh lễ : Nam mô thập phương tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai nhứt thiết chư Phật (1 lạy)

b)  - Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không, biến pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt thiết Tôn pháp (1 lạy)

c/ - Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không, biến pháp giới quá, hiện, vị lai, nhứt thiết chư Hiền Thánh tăng. (1 lạy)

Chỗ ngồi theo thứ tự đă được thầy Tri sự sắp đặc trước và đặc Bồ đoàn sẵn. Từ giờ phút này mọi người cử động phải nhẹ nhàng, chậm răi và luôn luôn tưởng đến mấy bài kệ :

“Nếu trải giường ṭa, nên nguyện chúng sanh, trải mở pháp lành, thấy tướng chân thật.

Lúc ngồi kiết già, nên nguyện chúng sanh, căn lành kiên cố, được bực bất động.

Sửa Bồ đoàn ngay thẳng, từ từ ngồi xuống theo tư thế thường. Bắt đầu kéo chân trái để trên vế mặt, gót chân vừa sát dạ dưới. Xong lại kéo chân phải đặt trên vế trái, cũng vừa sát dạ dưới chân trái bên này. Sau một lần kiểm soát toàn thể, nới lưng quần cổ áo ra, mắt ngó thẳng tới trước, cách khoảng chừng 6 hoặc 9 tấc tây. bàn tay mặt đặc trong ḷng bàn tay trái đầu ngón tay giao nhau và để vừa chấm trên hai gót chân, kề sát dạ dưới. Thong thả uớm thử người xem ngay ngắn chưa, đồng thời ấn mạnh hai tay xuống chừng 6 hoặc 7 lần từ mạnh đến thật nhẹ, thật chậm và dịu dàng. Hai mắt chỉ mở ¼ thôi.

Khi ngồi ngay thẳng rồi, hai chân, hai tay, hai vai sóng mũi, hai mắt và hai tai xếp cho thứ tự, mới hít hơi dài vào (hít vào bằng mũi) và thở ra (bằng miệng) cũng từ thế mạnh đến nhẹ dần, khoảng 6 hoặc 7 lần. Mỗi lần hít vô tưởng bao nhiêu thanh khí trong sạch bên ngoài được đưa vô, và lưu thông khắp cơ thể. Khi thở ra cũng tưởng tất cả nóng bức uế trược bên trong được tống khứ ra hết.

Hai thời Thiền đầu hôm và buổi khuya, khi đại chúng ngồi yên, thầy Tri sự hô thiền lớn bài kệ này trong ba hồi chuông.

Đầu Hôm :

Canh một nghiêm trang ngồi tỉnh tu,

Tinh thần tịch chiếu đồng thái hư,

Muôn kiếp đến nay chẳng sanh diệt,

Đâu cần sanh diệt diệt ǵ ư ?

Gẫm xem các pháp đều như huyễn,

Bổn tánh tư không đâu dụng trừ,

Nếu biết tâm tánh không tướng mạo,

Lặng im chẳng động tự như như.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

(3 lần, mỗi lần đánh một tiếng chuông, Đại chúng niệm theo).

Buổi khuya : 

     Canh năm Bát Nhă chiếu vô biên,

Chẳng khởi một niệm khắp tam thiên,

Muốn thấy chơn như tánh b́nh đẳng,

Dè dặt sanh tâm,trước mắt liền.

Lư diệu ảo huyền không lường được,

Dụng công đuổi bắt càng nhọc ḿnh

Nếu không một niệm mới thật t́m,

C̣n có tâm t́m toàn chẳng biết.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần, mỗi lần đánh một tiếng chuông, Đại chúng niệm theo)

III.       CÁCH XẢ THIỀN :

Khi thầy Tri sự reo lịnh báo măn giờ Tọa thiền, cũng phải theo thứ tự mà xả ra, không nên bột chột.

         Trước nhất, khởi đầu hồi hướng :

          Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chứng sanh,

Đều trọn thành Phật đạo.

Khởi sự, thở ra nhè nhẹ rồi hít vào cũng thế. Lần lần mạnh và dài hơn. Mỗi hơi hít (hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng) thở đều tưởng đem thanh khí vào, đưa bỏ uế trược ra. Tác động này, được sử dụng khoảng 6 hoặc 7 lần từ từ rất nhẹ đến thật dài.

Từ từ mở lớn hai mắt, cử động lên xuống hai vai, đầu và cổ, rồi ấn nhẹ hai tay xuống (vẫn c̣n trong tư thế kiết già), mỗi thứ khoảng 6 hoặc 7 lần. Cuối cùng dời hai tay ra đầu gối, lật úp xuống ấn thật mạnh toàn thân, rồi nhẹ nhàng kéo chân trên để xuống.

Bấy giờ, mọi cử động đều đặn b́nh thường, vẫn ngồi yên trong vị trí cũ. Xoa mặt, đầu trước, lần xuống hai vai, phía sau ót và phía dưới lưng quần cho thật mạnh để trị cảm gió và đau lưng sau này.

Hai tay kéo ra từng bắp chân xoa bóp xong, lại để tự nhiên lại kéo ra xoa cái khác. Sau cùng, là sát nóng hai g̣ của ḷng bàn tay áp lên hai mắt, cũng chừng 6 hoặc 7 lần thôi.

Mọi việc xong xuôi, ngồi xếp bằng an nhiên, chấp tay tụng hồi hướng.

IV.   Phần nghi thức Hồi hướng :

BÁT NHĂ TÂM KINH

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệt phục như thị.

Xá Lợi Tử Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư, vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới,vô Vô minh diệt, vô Vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệt vô lăo tử tận, Vô khổ tập, diệt, đạo, vô Trí diệt vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề tát đỏa y Bát Nhă Ba La Mật Đa, cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo, mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhă Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, coố tri Bát nhă ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thực bất hư. Cố thuyết Bát nhă ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết : Yết đế ,yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề Tát ba ha. (1 biến)

Tiếp bài :

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn,

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

           Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (lạy 1 lạy)

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, Trí tuệ như hải. (lạy 1 lạy)

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, nhứt thiết vô ngại. ( lạy 1 lạy)

V. Phần phụ :

Vài phương pháp trị các bịnh thông thường trong khi Tọa Thiền : lúc ngồi Thiền, hành giả nào bị tán động nhiều, thường thường dạy phải buông xả hết, giữ tâm điều ḥa lặng lẽ, hoặc được huấn luyện (coi như đă chết). Trái lại, hành giả nào bị hôn trầm tới tấp, không thể chống cự nổi, th́ cách trị có nhiều : Hít nóng vào khắp châu thân. Mở lớn hai mắt nh́n trừng trừng xem : Buồn ngủ mi là ǵ ? Động hai vai hoặc động nhẹ trên thân. Nếu chưa dứt th́ đứng dậy lễ Phật ra đi kinh hành.

Nên nhớ hành giả nào mắc phải bệnh này, th́ luôn luôn dũng mănh, giữ thân và tâm ngay thẳng, như cây cột sắt. Đừng bao giờ lười nhát hay khiếp nhược. Ta hăy nhớ, người xưa dụng công tu hành .đến nỗi không mảy may hối tiết thân mạng “quên thân v́ đạo như :

Minh Viên Thiền sư chịu lạnh tột độ nơi đất Phần Dương. Mỗi khi ma ngủ kéo vào, Ngài lại thẳng tay trừng trị bằng cách lấy dùi nhọn chích vào hông...

Cao Phong Diệu Thiền sư, ba năm nguyện đứng chẳng nương giường chơng,,, và muôn ngàn vị khác không kể xiết, Đâu như bọn ta ngày nay bụng vẫn no, đă lo đói, nhà sang, nệm ấm vẫn chư vừa. Ôi, dụng công tu hành như thế ấy, đến bao giờ mới xong !!! Kẻ ghi mấy ḍng nầy, mong người đồng tu hăy cùng cố gắng.

Thiên Như Tắc Thiền sư dạy : người thời nay tu hành không linh nghiệm bởi ba thứ bệnh :

1/  không gặp thiện tri thức chỉ dạy.

2/  Không thống thiết ghi nhớ việc lớn sanh tử, lững lơ, thong thả, không ngờ ḿnh sống trong vô tích sự.

3/  Đối với việc danh hư lợi ảo thế gian, quán không tan, buông chẳng rời. Lên ngồi trên Bồ đoàn mà vọng duyên ác tập đuổi không được, bỏ chẳng hết. Chỗ phong ba dấy động, bất giác thân này lăn vào biển nghiệp trôi giạt đông tây. Ngài lại khuyên : Chư Thiền Đức :! Nỗ lực cho đời này liễu ngộ, đừng để vĩnh kiếp chịu tai ương.

Tuyết Nham Khâm Thiền sư hỏi Tu Thượng tọa :

Hiện giờ tôi bị hôn trầm, tán loạn đuổi không đi, phải làm sao ? Thượng tọa dạy : (Tại ông không mănh liệt, quyết tâm liều chết, sấn sướt công phu, th́ không làm sao đắc lực được đáng tiết, dần dà để ngày tháng qua suông.

Và đây chúng ta hăy nghe lời cảnh tỉnh của Thiền sư Cổ Mai Hữu : “Vừa lên Bồ đoàn liền bị ngủ gật, mở được mắt ra th́ nghĩ đông tưởng tây, xuống Bồ đoàn th́ đi cặp đôi cặp ba, kề tai giao đầu, nói to nói nhỏ, nghi một bụng kinh, sách, ngữ lục trên văn tự, thuật hay luận khéo, dụng tâm như thế, đến phút lâm chung đều chẳng thể nương cậy.”

Tóm lại, bởi chúng ta ḷng tin chưa đến, nên công phu chưa miên mật. Do công phu không miên mật, nên hôn trầm tán loạn bao vây.

Nếu tâm như cây, như đá, tợ hồ như đống tro tàn, đem thân tứ đại huyễn hóa nầy gởi tận thế giới bên kia : dù có bệnh cũng được, chết cũng được, có người săn sóc cũng được, có thầy trị lành bệnh sống đến 120 tuổi cũng được, nếu như chết liền, bị nghiệp thức lôi vào vạc dầu sôi ḷ lửa đỏ cũng được... Tất cả cảch giới như thế đều không làm lay động được tâm.”

Đây là lời than của Thiền sư Y An mỗi khi trời ngă bóng về chiều, Ngài sa nước mắt : Ngày nay vẫn chưa được ǵ, ngày mai chư biết công phu ra sao !!!

Ngoài ra các bệnh như ho, ngứa ngáy nhảy mũi, động quậy, nếu trong khi ngồi thiền, hành giả gặp phải những bệnh kể trên, nên bền chí, chẳng màng tới nó. Hoặc dùng hơi nóng trong người để vận chuyển trị nó. Như đang ngồi yên tỉnh lại bắt ho, khi nầy ta phải chú tâm dùng hơi thở nóng xoa tẩy nơi chỗ ngứa náy bắt ho đó, Chịu đựng như vậy lần lần sẽ quen và chiến thắng được tất cả.

      Phải gan dạ chịu đựng,

      Và xem thường tất cả.

      Hăy giữ vững niềm tin,

      Bền chí tất sẽ được.

II.    NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG :

I.      PHẦN MỞ ĐẦU :

Giờ ngọ trai được bắc đầu vào 11 giờ 30. Khi nghe nhà trù đánh 3 tiếng bảngtoàn chúng mặc áo, mang bát và mâm đựng thức ăn xuống nhà trù. Thầy Tri khố phân phối thức ăn xong, mỗi vị tự đến sớt cơm vào bát và bưng lên trai đường.

Phần nghi thức thọ trai do thầy tri sự hoắc thầy Duy Na hướng dẫn.

II.    PHẦN NGHI THỨC :

Đại chúng đứng thành hàng tề chỉnh, nghe tiếng khánh chấp tay đồng xá, và ngồi xuống. Sau ba hồi Bản chúng, đồng tụng bài cúng dường. (tay trái bắc ấn Tam sơn, tay mặt         kiết ấn tam muội để dựa ngan trong miệng bát, rồi dân lên ngan trong miệng bát, rồi dân lên ngan tráng đồng tụng bài cúng dường)

I.   Cúng dường :

   Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật.

   Viên măn Báo thân Lô Xá na Phật.

   Thiên bá ức Hóa thân Thích ca Mâu Ni Phật.

   Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.

   Cực Lạc Thế giới A Di Đà Phật.

   Thập Phương Tam thế nhứt thiết chư Phật.

   Đại Trí Văn Thù sư Lợi Bồ Tát.

   Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.

   Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

   Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát

  Ma Ha Bát nhă Ba La Mật.

   Tam đức lục vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu t́nh, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung măn.  (cúng dường rồi để bát xuống)

2.   Xuất sanh :

   (Để chén chung trong ḷng bàn tay trái, tay mặt gắp 7 hạt cơm để vào chung, quyết ấn cam lồ mặc niệm) :

                       Pháp lực bất tư ngh́,

                Từ Bi vô chướng ngại,

                             Thất liệp biến thập phương,

                             Phổ thí châu sa giới

                             Quỉ tử mẩu khoáng dă,

                             Thần kim sí điểu vương

                             Tất linh giai bảo măn

                             (Ấn độ lợi ích tá ha, 3 lần)

Nẳng mồ tát phạ đát tha, nga đa phạt lồ chỉ đế. Ấn tam bạt ra, tam bạt ra hồng (3 lần)

Nẳng mồ tô rô bà da đát tha nga đa da, đá điệt tha. Ấn tô rô bát ra, tô rô bát ra, tô rô ta bà ha (3 lần)

     Nhữ đẳng quỷ thần chúng

                    Ngă kim thí nhữ cúng,

                    Thử thực biến thập phương,

                     Nhứt thiết quỷ thần cộng

                     (Ấn mục lực lăng tá ha, 3 lần)

               (khải móng tay trên chén 3 lần)

Tống thực :  (thị giả)

                   Chim đại bàng cánh vàng,

                   Chúng quỷ thần rừng núi,

                   Mẹ con quỷ la sát,

                   Cơm bảy hạt no đầy

                                (Án mục đế tóa ha, 7 lần).

  Xướng tăng bạt : (Duy- Na)

   Phật răng : chư Tăng khi ăn phải ǵn năm quán Tán tâm nói nhảm của Tín thí khó tiêu. Đại chúng nghe tiếng khánh, mỗi người nhiếp tâm niệm Phật.

   Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (đồng niệm)

      (Hai tay bưng bát dâng ngan tráng, thầm đọc :)  

                         Chấp tŕ ấn khí,

                               Đương nguyện chúng sanh,

                               Thành tựu pháp khí

                  Thọ thiên nhơn cúng.

  Án chỉ rị, chỉ rị, phát nhựt ra hồng phấn tra (3 lần)

3        Lưu Phạn Kệ Chú :

(để ít cơm ra  át, bưng bát cơm lên tay thầm đọc :

                      Dĩ kim sở tu phúc

Phổ triêm ư quỷ chúng

                      Thực dĩ miễn cực khổ,

   Sả thân sinh lạc xứ,

   Bồ tát chi phước báo,

                     Vô tận nược hư không,

                            Thí hoặc như thị quả,

Tăng trưởng vô hưu tức.

                                           (Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)

              (để bát xuống cầm muỗng múc cơm rồi tưởng)

4        Tam đề :

   Muỗng thứ nhứt :

     Nguyện đoạn nhứt thiết ác.

  Muỗng thứ hai :

     Nguyện tu nhứt thiết thiện.

Muỗng thứ ba :

Nguyện độ nhứt thiết chúng sanh.

                  ( Trong khi thọ thực phải tưởng ngũ quán)

I/   Xét công nhiều ít so chỗ kia đem đến.

2/  Lượng đức hạnh của ḿnh đủ hay thiếu mà thọ của cúng dường.

3/   Ngừa tâm xa ĺa tội lỗi, tham sân si là cội gốc.

4/   Chính là vị thuốc hay để chữa lành bệnh khô gầy

5/   V́ thành đạo nghiệp nên thọ cơm nầy.

7.        Tẩy Bát Kệ Chú :

(Thọ trai xong, cho nước vào tráng bát thầm đọc :           

               Dĩ thử tẩy bát thủy,

                          Như thiên cam lồ vị,

                          Thí dĩ chư quỷ thần,

                        Tất giai hoạch bảo măn.

                         Án ma hưu ra tất tóa ha. (3 lần)

8.        Ẫm Thủy Kệ Chú :

  Phật quán nhứt bát thủy,

                           Bát vạn tứ thiên trùng,

                           Nhược bất tŕ thử chú,

                      Như thực chúng sanh nhục.

                         Án phạt tất ba ra ma ni tóa ha (3 lần)

9.        Kiết trai kệ :   (đồng tụng)

   Sở vị bố thí giả

                           Tất hoạch kỳ lợi ích,

                           Nhược vị nhạo bố thí,

                           Hậu tất đắc an lạc,

                           Phạn thực dĩ ngật,

                           Đương nguyện chúng sanh

                           Sở tắc giai biện,

                           Cụ chư Phật pháp.

10.    Phục nguyện : ( Duy- Na xướng)

Cơm ngày hai bửa, thường nhớ công khó khổ của kẻ nông phu. Thân mặc ba y, hằng xét nghĩ sự nhọc nhằn của người thợ dệt, Thuốc thang dường chơng bởi do nhín ăn bớt mặc của đàn na. Học đạo tiến tu bởi ḷng từ dạy răng của Thầy, Tổ.

Nguyện cho thí chủ : Ruộng phước thêm nhiều, đạo tâm thêm lớn cùng chúng sanh khắp trong pháp giới, kẻ mất người c̣n đồng thành Phật đạo.

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( đồng nệm)

V.                 KHÓA KỄ BÁT NHĂ

                              ( Vào khoảng 7 giờ mỗi tối)

( chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngan tráng niệm bài cúng hương)

( cúng hương tán Phật) :

    Nguyện thử diệu hương vân

                           Biến măn thập phương giới

                           Cúng dường nhứt thiết Phật

                           Tôn pháp chư Bồ tát

                           Vô biên Thanh Văn chúng

                           Cập nhứt thiết Thánh Hiền

                           Duyên khởi quan minh đài

                           Xưng tánh tác Phật sự

                           Phổ huân chư chúng sanh

                           Giai phát Bồ đề tâm

                           Viễn ly chư vọng nghiệp

                           Viên thành vô thượngh đạo.

( kỳ nguyện) :

            Đệ tử chúng đẳng nguyện Thập phương thường trú Tam bảo Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, từ bi gia hộ đệ tử... Bồ đề tâm kiên cố, tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn, giữ pháp giới chúng sanh, nhứt thời đồng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần)

( Tán Phật) :

( Đứng dậy cắm hương lên lư rồi chấp tay đứng thẳng đồng tụng)

    Pháp Vương Vô Thượng Tôn

                          Tam giới vô luân thất

                          Thiên nhơn chi đạo sư

                          Tứ sanh chi từ phụ

                          Ư nhứt niệm quy y

                          Năng diệt tam kỳ nghyệp

                          Xưng dương nhược tán thán

                          Ức kiếp mạc năng tận.

                          Năng lễ sở lễ tánh không tịch

                          Cảm ứng đạo giao nan tư ngh́

                          Ngă thử đạo tràng như đế châu

                          Thập phương chư Phật ảnh hiện trung

                          Ngă thân ảnh hiện chư Phật tiền

                          Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo ( 1 lạy)

   Chí tâm đănh lễ Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ điều ngự Bổ sư Thích Ca Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát (1 lạy)

   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Tây phương Cực Lạc, thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, đại Thế Chí Bồ tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ tát (1 lạy)

Tán Lư Hương :

                  Lư hương xạ nhiệt

                  Pháp giới mông huân

                  Chư Phật hải hội tất điêu văn                                    Tùy xứ kiết tường vân                                                            Thành ư phương ân

               Chư Phật hiện toàn thân

              Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát (3  lần)   

                   Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Khai Kinh Kệ :

                     Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

                        Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,

                   Ngă kim kiến văn đắc thọ tŕ,

                        Nguyện giải Như lai chơn thật nghĩa

                                BÁT NHĂ TÂM KINH

           

Nam Mô Bát Nhă Hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)

                Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật đa tâm kinh, Quán Tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.

                Xá Lợi tử : Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc, Thọ, Tưởng, hành, Thức, diệc phục như thị.

                Xá Lợi tử : Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức ; vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư ; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhăn giới, năi chí vô y,ù thức giới; vô Vô minh, diệt vô Vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệt vô đắc.

                Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhă Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo, mộng tưởng cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhă Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tan miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhă Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết : Yết đế, yết đế, Ba La yết đế, Ba La tăng yết đế, Bồ Đề tát Bà ha.

                                                             (tụng 3 lần)

     Lễ Phật, Bồ tát và chư Tổ Sư

-                   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô quá khứ Tỳ bà Thi Phật

-    Chí tâm đănh lễ : Nam Mô hiện tại Bổn sư thích ca Mâu Ni Phật.

-       Chí tâm đănh lễ : Nam Mô đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.

-                   Chí tâm đănh lễ : Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

-   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.

-                   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát.

-                   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Đại Lực Đại Thế Chí ồ tát.

-                       Chí Tâm đănh lễ : Nam Mô Đại Ca Diếp Tổ sư.

-                   Chí tâm đănh lễ  : Nam Mô ANan Tổ sư.

-                   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Bồ đề Đạt Ma Tổ sư.

-                   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Huệ Khả Tổ sư.

-    Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Tây Thiên Đông Độ việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư.

-   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô tồi tà phụ chánh Hộ Pháp chư Tôn Bồ tát.

-   Chí tâm đănh lễ : Nam Mô Đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát.

    Văn Phát Nguyện Hồi Hướng

    Đệ tử chúng con một ḷng thành

    Nguyện cho đất nước chóng thanh b́nh

    Tai nạn binh đao đều dứt sạch

    Huynh đệ nh́n nhau con một nhà

    Xót thương cứu giúp tiêu thù hận

    Cả trên thế giới thảy an lành

    Cùng chung nhơn loại ḷng yêu mến

    Sớt cơm chia áo một tâm thành

    Kết t́nh đồng loại như ruột thịt

    Nguyện cả chúng sanh đén côn trùng

           Cùng khởi ḷng thương che chở thảy

    Ai đành sát hại làm lợi ḿnh

    Mong sao toàn thể cùng vui sống

    Nguyện mưa chánh pháp khắp quần sanh

           Mọi loài đều được ơn nhuần gội

           Nhiệt năo tiêu tan ḷng thanh lương

           Tam thừa Thánh quả đều an trụ.

       Nguyện cho dứt sạch mọi năo phiền

       Gắng tu chẳng chút sanh lười mơi

       Lập chí vững chắc như kim cương

       Dù bao sóng gió không lay động;

       Thẳng bước tiến lên quả vô sanh

       Yêu ma quỷ mị không ngăn nổi

       Chiếc gươm trí tuệ tay chẳng rời

       Đơn đao đột nhập vô thượng giác;

       Tam độc bát phong không chướng ngăn

       Chỉ một chơn như tam muội ấn

       Tiến thẳng vào trong nhà pháp thân

       trên ngọn diệu phong rong tự tại

       Xem xét mười phương chúng khổ đau

Hổ thẹn ăn năn mọi lỗi lầm

Khởi từ phương tiện tùy ứng hóa

Đưa chúng sanh đồng lên bờ Niết Bàn

Dù cho gian khổ ḷng không năn

Công đức tu hành xin hướng về

Tất cả chúng sanh cùng ḿnh được

Đồng nương chánh pháp tối thượng thừa

         Lên ngôi chánh giác chứng Phật đạo.

        VĂN SÁM HỐI  (tối 14 và 29 mỗi tháng)

Chúng con đồng đến trước Phật đài

tâm thành đănh lễ mười phương Phật

Tất cả Bồ Tát trong ba đời

Thanh Văn Bích Chi chúng Hiền Thánh

Đồng đến chứng minh con phát lồ :

Bao nhiêu tội lỗi trong nhiều kiếp

Ba nghiệp gây nên chẳng nghĩ lường

Nỗi ch́m lăn lộn trong ba cơi

Tội ác chiêu hoài không biết dừng.

Hôm nay tỉnh giác con sám hối

        Cầu xin chư Phật đồng chứng giám

        Bồ Tát Thanh Văn thảy hộ tŕ

        Khiến con tội củ như sương tuyết

        Hiện tại đời con đang sống đây

        Tuy có duyên lành gặp Phật pháp

        Mà đă gây nên lắm nghiệp khiên :

        Ḷng c̣n chứa chấp tham kiêu mạn

        Sân si tật đố hạnh tà mê

Miệng nói điêu ngoa thêm dối trá

Gạt lường ác khẩu lời vu oan

Sát sanh hại vật thân gây tạo

Thương tổn sanh linh để lợi ḿnh

Tam Bảo chứng minh con sám hối

Dứt tâm tương tục kể từ đây

Không hề tái phạm dù lỗi nhỏ

Nguyện ǵn ba nghiệp như giá băng.

Nguyện đạt chơn tông giáo Viên đốn

Kiến tánh viên minh tâm nhất như

Vọng t́nh ngoại cảnh dường mây khói

Nghiệp thức vốn không trí sáng ngời.

Liễu sanh thoát tử không ngăn ngại

Tam giới ra vào độ chúng sanh

Thuyền từ chống măi không dừng nghỉ

Đưa hết sinh linh lên giác nhạn.

Công đức tu hành xin hồi hướng

Tất cả chúng sanh đều Niết Bàn

Vào nhà chư Phật ngồi ṭa báu

Mặc áo Như Lai chúng pháp thân

Đồng phát Bồ Đề tâm bất thối

Đồng ngộ vô sanh pháp giới chơn

Đồng lên Phật quả vào Diệu giác

Đồng nhập chơn như thể sáng tṛn.

                              - o -

                    CHỦ LỄ XƯỚNG

Tánh tội vốn không do tâm tạo

Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong

Tội trong, tâm diệt, cả đều không

Thế ấy mới là chơn sám hối.

  Nam Mô cầu Sám Hối Bồ tát  ( đồng tụng 3 lần)

         

           CÁC BÀI PHỤC NGUYỆN

     Phục Nguyện Cầu An

               Nam Mô Bổ Sư Thích ca Mâu Ni Phật.

            Nguyện dĩ thử công đức cần an Phật tử ( hoặc chư Phật tử, nếu số nhiều). Thượng thừa Tam Bảo lực, tứ đại thường an lạc, Bồ đề tâm tăng trưởng.

            Phổ nguyện : Thập phương Đàn Việt tăng ích phước điền, âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo

      Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (đồng niệm)

Phục Nguyện Cầu Siêu

Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.

Nguyện dĩ thử công đức hồi hướng cầu siêu Phật tử...(hoặc chư Phật tử nếu có số nhiều)

Thừa tư Phật lực, tốc thoát khổ luân, tảo đăng chánh giác.

Phổ nguyện : hiện tiền tang quyến, phước huệ trang nghiêm, âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (đồng niệm)

( phần này tùy theo vị Duy Na hoặc chủ lễ, nếu có bài phục nguyện nào thích hợp và hay hơn, th́ cứ tùy phương tiện sử dụng)

VI.              TUẦN LỄ THAM HỌC

Thiền Viện Chơn Không chủ trương “ Thiền giáo đồng hành” nên mỗi tháng, đều có một tuần lễ học Kinh Luận, và Sử chư Tổ vào đầu tháng. Chương tŕnh và các Kinh, Luận, Sử phải học, được ấn định sẵn trong Thanh Quy.

Tuy nhiên, vị Thượng tọa có trách nhiệm giảng dạy hướng dẫn có thể linh động. Tùy theo mỗi tuần, đều có học Kinh, Luận, Sử để bổ sung cho nhau. Trừ trường hợp các bộ kinh lớn... phải học liên tiếp trong nhiều tuần lễ mới xong th́ thôi.

Tuần lễ học vị nào trong chúng tham dự th́ được miễn công tác ngoài vườn như thường lệ.

    Sáng 8 giờ học tới 10 giờ

    Chiều 2 giờ 30 học đến 4 giờ 30.

Lớp học được tổ chức trong Thiền đường. Trước 15 phút vào Thiền đường nghe kinh, thầy hương đăng đánh một hồi ba tiếng chuông báo cho toàn chúng biết, để chuẩn bị.

Và sau đó đúng giờ đánh ba tiếng chuông vào học mỗi khi măn giờ học, thầy Hương đăng lại đánh một hồi chuông, để dạy chúng nghĩ ngơi, vào nhà trù chuẩn bị ngọ trai.

 

*

 

 

 

 

             

 

                   PHẦN    III

PHỤ LỤC :

 

  DIỄN VĂN KHAI MẠC KHÓA I

 

                        (1971 - 1974)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DIỄN VĂN KHAI MẠC KHÓA I

Thiền Viện Chơn Không ngày mùng 8 tháng tư năm 1971

Kính thưa quư vị ;

Sở dĩ chúng tôi thành lập Thiền viện Chơn Không nầy bởi có nhiều lư do :

I/   TRỪ DẸP MÊ TÍN VÀ LƯ THUYẾT SUÔNG :

Việt Nam đang mắc hai bệnh nan y : Phổ biến mê tín và lư thuyết suông.

            Số Tăng Sĩ ít học muốn hoằng hóa Phật pháp, họ không có phương tiện nào khác hơn là, tổ chức cúng kinh, cầu an cầu siêu, thậm chí coi ngày, xem tướng, xin xâm bói quẻ, cúng sao cúng hạn, Phật sự của họ chỉ loanh quanh chỉ bao nhiêu việc đó. Song với thời chiến tranh nầy việc ấy rất thạnh hành, ví con người đă mất hết ḷng tự tín. Cho nên các chùa thường tổ chức cúng kính cầu nguyện xin xâm, bói quẻ, được đa số Phật tử hưởng ứng, tới lui tấp nập cúng dường sung túc. Nhưng sự thanh nhàn nầy chỉ tạm thời thôi. V́ một ngày nào đó, thái b́nh trở về trên đất nước, chừng ấy con người sẽ tin tưởng vào tự lực của ḿnh. Khi đó những nơi gieo  rắc sẽ bị đào thải.

            Hơn nữa, Phật giáo là giáo lư giác  ngộ, trái

hẳn với mê tín và ỷ lại. Nếu người truyền đạo mà gieo rắc mê tín là phản bội với đức Phật vậy.

            Số Tăng Sĩ hữ học thường dùng sự giảng kinh, thuyết pháp dạy học làm phương tiện hoằng hóa. Đối với sự truyền bá nầy rất hợp lư, gieo cho mọi người niềm tin Phật chơn chiùnh. Song, v́ nặng ḷng hoằng hóa các vị tăng nầy không có thời giờ tu tập. Bởi thiếu sự huân tu, nên khi xúc duyên đối cảnh, các vị Tăng nầy không có đủ sức tự chủ. V́ thế mà sanh đắm nhiễm dục lạc thế gian, hoặc sân hận bộc phát, làm tṛ cười cho thức giả. Sự việc như thế là do có học mà không có hành, có hiểu biết mà không có tu, chỉ là lư thuyết suông mà thôi.

            Thiền Viện là chỗ học ít tu nhiều, mỗi thánhg chỉ học một tuần c̣n ba tuần thực t tập. Có tu học, chúng ta mới khỏi lỗi “ Lư thuyết suông” Có tu có học chúng ta mới có khả năng dẹp sạch phiền năo của ḿnh và dạy người dẹp trừ phiền năo. Được như vậy mới hợp với đạo giác ngộ giải thoát và gieo rắc sự thật để cứu khổ chúng sanh, dứt sạch mê tín dị đoan.

2/   KHAI  THÔNG ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH :

            Phương pháp giáo dục ngoài đời, cấp tiểu học ông thầy chỉ dạy cho học tṛ học thuộc ḷng những bài văn danh từ và tập viết đúng chữ đúng câu, không cần t́m hiểu nghĩa lư sâu xa. Cấp Trung học cho học sinh học tổng quát về các môn, nhưng chưa chú trọng thực hành. Đến cấp Đại học, tùy sinh viên chọn lấy một môn nào thích hợp với ḿnh, học và thực tập hẳn môn ấy. Có thế sinh viên sau khi ra trường, mới là người hữu dụng cho quốc gia.

            Phương pháp dạy đạo cũng thế, tu sĩ mới vào chùa chỉ cần học thuộc ḷng kinh chú để tŕ tụng thôi. Sau khi đă rành kinh chú tụng niệm, tu sĩ phải học khái quát hết kinh điển quan trọng. Đến cuối cùng tu sĩ phải chọn lấy một pháp môn nào trong kinh luận mà ḿnh thích hợp để tu hành đến chỗ chứng quả. Được vậy, sự học đạo mới có ngày viên măn.

            Song khổ thay ! Phật giáo Việt Nam hiện giờ chỉ có hai giai đoạn đầu mà không có giai đoạn cuối. Cho nên có lắm Tăng sĩ sau mười năm học đạo ở chùa, vẫn không biết ḿnh đang tu pháp môn ǵ ? Đó là chỗ bế tắc, khiến nhiều Tăng sĩ đi giữa đường rồi lui sút, hoặc đâm ra thụ hưởng.

            Tu viện ra đời để khai thông chỗ bế tắc ấy. Tăng sĩ sau khi đă hiểu khái quát Phật giáo, muốn chuyên tâm tu Thiền hay Tịnh th́ vào hẳn tu viện Thiền, Tịnh mà tu nơi đây sẽ khai thác triệt để phương pháp tu, khiến Tăng sĩ thấy rơ đường lối tu hành của ḿnh cao siêu thanh thoát, để vui tiến không dừng, lại tạm đủ tiện nghi để khỏi bận tâm lo nghĩ về sự sống. Nhờ đó, Tăng sĩ sẽ tiến măi không lùi và ngoài sự tu không c̣n nghĩ ǵ khác

3/ SỬA ĐỔI SỰ TU SAI LẦM ĐEM LẠI SỰ TU CHÂN CHÁNH

            Phong trào học Thiền, tu thiền đang chổi dậy trên lănh thổ Việt Nam. Khá nhiều tu sĩ đang tu thiền và đă tu thiền. Song, những người đă tu ấy có nhiều người bị cuồng loạn, hoặc bệnh tật. Đó là lư do khiến nhiều người kinh sợ, cho rằng “tu thiền để điên”. Nhưng có biết đâu, những người nói tu thiền đó, sự thật họ không có tu thiền ǵ hết. V́ chính họ chưa biết thiền là ǵ ? huống  nửa là tu. Bởi không biết thiề, nên nghe ai dạy ngồi yên quán thế này tưởng thế nọ, họ cho đó là dạy thiề. Những tệ hại của những người tu thiền xảy ra, đó là bởi tu mù luyện quán gây nên.

            Tu Viện Chơn Không ra đời cố sửa những sai lầm ấy và gầy dựng lại đường lối tu thiền đúng là Thiền Tông Phật giáo. Cho nên trong Thiền viện ra đời là thổi vào Phật giáo Việt Nam một luồn sinh khí mới, khiến cho Tăng sĩ việt Nam thấy rơ đường hướng tiến thủ của ḿnh, đồng thời đem lại cho Phật giáo Việt Nam đường lối tu tập vững chắc.

            Tuy nhiên, đanh từ Thiền viện chúng ta thấy răi rác dựng trên mắc các ngôi chùa nhỏ có lớn có, họ chưa ư thức rơ rệt Thiền viện là thế nào ? Đó là chỉ dùng lầm danh từ, chớ không có thật chất Tu Viện.

            Tu Viện dùng đúng ư nghĩa của nó là chỗ đào luyện những ḍng tu theo một lối tu chuyên môn của ḍng ấy. Thiền viện cũng là nơi chứa rất đông Tu sĩ cùng một chí hướng đồng một hạnh nguyện. Thiền viện đă vạch sẵn một đường lối tu hành và sự học tập có đường hướng rơ ràng. Đây là khái quát những lư do căn bản do sự cần ích của Thiền viện, nếu đi sâu vào chi tiết th́ quá nhiều, không có đủ th́ giờ tŕnh rơ cùng quư vị.

            Sau khi dứt lời, chúng tôi ước mong Phật giáo Việt Nam sẽ ra đời nhiều Thiền viện nối gót theo Tu Viện Chơn Không nầy.

 

                        Kính chào quư vị

                         Viện chủ

                        THÍCH THANH TỪ

 

 

 

 

 

CÔNG TÁC PHỔ THỈNH

A/  DẪN NHẬP  :

            Mỗi tháng ngày 15 và 30 (tháng thiếu 29) trong giờ tiểu thực sáng thầy Tri sự tuyên bố giữa chúng. Hôm nay là ngày công tác phổ thỉnh sau giờ tiểu thực nghe ba tiếng chuông thỉnh đại chúng theo tôi đi công tác... Mong toàn chúng liễu tri cho.

            Thường th́ công tác phổ thỉnh được áp dụng với tinh thần b́nh đẳng, trên từ Thượng tọa viện chủ dưới đến toàn chúng đều phải đi làm công việc do thầy Tri sự chỉ định và hướng dẫn. Như công tác phổ thỉnh làm cỏ ngoài vườn, tiểu thực xong đại chúng đến kho chứa dụng cụ của ḿnh sau đó, kẻ cuốc người dao... cùng ra vườn làm cỏ cho đến khi nào có ba tiếng chuông báo nghỉ mới được nghỉ ngơi.

B/  PHẦN CHÁNH :

            Điểm then chốt trong Thiền viện là lúc nào cũng thiền, lúc nào cũng giữ tâm lặng lẽ an nhiên không phải đợi đến giờ lên bồ đoàn ngồi ngay thẳng mới ngồi mới tu... Thành thử khi làm việc nặng nhọc, trong ngày phổ thỉnh cũng như lúc ngồi khoan thay trên bồ đoàn toàn chúng đều sống đúng với nếp thiền. Có thể mới xứng hợp với người xưa, mới không xao lăng công phu tu hành và thực hiện một đời sống toàn dện.

   Sau đây xin dẫn một câu chuyện trong ngày công tác phổ thỉnh của đạo tràng vi khai tổ tông  Quy Ngưỡng cũng để chứng tỏ các bực tiền bối dụng công tu hành không phút giây xao lăng.

-  Trong ngày phổ thỉnh, sư cùng chúng đi hái trà dưới núi. Đến chiều sư bảo Huệ Tịch (Ngưỡng Sơn) Từ sáng chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy h́nh con, hảy hiện bổn h́nh cho ta thấy coi .

   -   Huệ Tịch liền đập cây trà.

   -   Sư bảo :

   -   Con chỉ được dụng của nó mà chẳng được thể của nó.

   -   Huệ Tịch thưa :

   -   Chưa biết Ḥa thượng thế nào ?

   -   Sư im lặng.

   -   Huệ Tịch lại thưa :

   -   Ḥa thượng chỉ được thể của nó mà chẳng được dụng của nó.

   -   Sư liền bảo :

   -   Con đáng ăn 20 gậy của ta.

Ở đây chúng ta miễn bàn đến chiều sâu của cốt chuyện mà chúng ta chỉ nên để ư đến yếu điểm gọi là ‘tu tập của ngưới xưa’. Quả thật lúc nào và bao gờ các Ngài cũng làm một việc duy nhất, chỉ sống với cái đó mà thôi. Dù phải tùy duyên tùy cảnh, nhưng tâm các Ngài vẫn không xao việc đó. Nói rơ hơn là trong sinh hoạt hằng ngày của các thiền sư ở trong những thiền viện xưa cũng như nay, luôn luôn lúc nào các Ngài cũng điều ḥa và an nhiên, không bị đóng khung trong bất cứ lănh vực nào dù tinh thần hay vật chất. V́ lẽ đó mới là vô ngại, là đi cũng thiền, ngồi cũng thiền...

            Giả sử lúc nàocác Ngài không hằng sống với cái đó, không làm chủ được ḿnh và hằng lặng lẽ xét soi th́ làm sao các Ngài thốt được  những lời nói vừa tự nhiên vừa chân thật như cốt chuyện đă dẫn và vô lượng cốt chuyện khác, để chứng tỏ đường đi, chỗ đến của các Ngài như thế.

C/  PHẦN KẾT :

            Tóm lại ngày công tác phổ thỉnh nhằm giải quyết hai việc như sau :

            - Thứ nhứt : Là trong những công tác hằng ngày, toàn chúng mỗi người làm một việc, lănh một phận sự. Ngày công tác phổ thỉnh nhằm giải quyết những việc c̣n ứ lại mà cần nhiều người thực hiện mới xong.

            Hơn nữa, trong công tác hằng ngày mỗi người làm việc riêng rẽ với phần việc của ḿnh, không có dịp tiếp xúc cùng chung làm một việc. Ngày công tác phổ thỉnh mọi người cùng làm một việc cùng tiếp xúc nhau. Đó cũng là một cơ hội tốt để ḍ xét công phu của ḿnh.

            XEM :

            - Ở chỗ tĩnh gặp động ḿnh có thối chăng ?

            - Đem công phu riêng biệt ḥa cùng mọi người, xem khế ứng chăng ? và cuối cùng là biết được đạo lực của ḿnh thâm thiển thế nào mà tiến thêm cho đến chỗ viên măn nhứt như.

D/  PHẦN ÁP DỤNG PHÁP TU TRONG KHI CÔNG TÁC

            Trong nhà thiền rất kỵ hai chữ ‘phân biệt và vọng tưởng’ Hể có phân biệt tức có vọng tưởng, cũng như bao giờ vọng tưởng c̣n sinh tức nhiên phân biệt cũng theo đó mà ứng khởi.

            Bởi vậy, bất cứ công việc nào trong nhà thiền cũng đều nhắm làm sao cho mọi người ‘đừng vọng tưởng, thôi phân biệt’ và muốn khởi vọng tưởng th́ đố duyên xúc cảnh cũng không nên vọng tưởng, cho nên ngày công tác phổ thỉnh cũng như bất cứ một công tác nào trong thiền viện, các thiền sư luôn luôn nhắc nhở đến môn đệ.

            Chỉ làm hết bổn phận, không chuộng thành quả chẳng thích phân biệt, chọn lựa khen chê... Chỉ hay dụng công tiêu trừ vọng tập, khiến cho tâm cảnh được như như.

            V́ thế phải áp dụng công phu tu tập vào ngày công tác phổ thỉnh, cũng như mọi sinh hoạt hằng ngày là “Làm mà không phân biệtsuy tính cốt giữ tâm thanh tịnh như như. Nói khác hơn tức là hoàn toàn thụ động, sai đâu làm đó, mọi việc đă có thầy Tri sự xếp đặc cho rồi, khỏi phải bận tâm lo lắngđiều ǵ cả, chỉ một bề hạ thủ công phu mà thôi.

 

*