PHƯƠNG TIỆN CHO NGƯỜI TU THIỀN
Phật pháp có
vô lượng pháp môn. Hàng Phật tử chưa thông hiểu thì thấy có sự khác nhau
giữa các pháp môn, vì vậy trong việc tu hành thường xảy ra vấn đề cục bộ.
Phạm vi của bài giảng hôm nay là phá những lầm chấp ấy, để có thể áp dụng
Phật pháp với tinh thần rộng rãi cởi mở.
Pháp môn của
Phật không có cao thấp nhưng do nghiệp tập của chúng sanh mà thấy có cao
thấp. Pháp Phật không dành riêng cho bất cứ ai, căn cơ nào tu cũng được.
Mục đích mà người tu nhắm đến để tu hành, gọi là lý tột, thì không có sự
sai khác. Nhưng trong phần áp dụng thấy có sự sai khác rõ ràng chính là do
nghiệp tập của mỗi người. Trên thực tế, nhiều người lại cho rằng Phật pháp
thực có cao thấp. Vậy chúng ta phải hiểu thế nào tu thế nào?
Trước tiên,
đối với bất cứ việc tu hành và công đức nào, nếu ta làm trong tinh thần
trao đổi hai chiều thì phải biết đây là sự hạn cuộc cục bộ. Phật tử phải
phá bỏ những dấy khởi như vậy để hướng đến chỗ rốt ráo. Ta không tu để cầu
gia đình bình yên, phước lộc đầy nhà hay tu để được quí trọng v.v... mà tu
để thành Phật. Đó là mục đích duy nhất. Chỉ khi đạt được chỗ tột cùng này,
ta mới thật sự bình an, còn các hiện cảnh, hiện tượng trước mắt không có
thứ gì bảo đảm vững chắc. Đây là quan niệm tu hành chân chánh. Muốn đạt
được chỗ cuối cùng này, ta phải thực hiện tuần tự một số giai đoạn. Những
giai đoạn này chỉ là bước đầu của người học Phật. Còn chỗ cuối cùng chính
là tâm hoàn toàn bình an thanh tịnh của mình. Đó là Niết bàn. Niết bàn
không có cảnh giới chỉ là tâm mà thôi. Thông thường, khi có người phát tâm
tu thì các vị thầy luôn luôn nhắc nhở là đừng mang tính chất cục bộ, hạn
chế việc tu hành của mình.
Như một số
Phật tử tu theo tông Tịnh độ thì quan niệm rằng, phải tu tịnh mới bảo đảm
gần Phật, được Phật rước. Quan niệm này không sai. Tuy nhiên điều kiện để
được Phật rước thì ai cũng biết, phải niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. Còn
niệm kiểu ù ơ ví dầu, thì không chắc Phật rước. Có rước sang chắc gì mình
đã chịu ở. Chỉ mới vào chùa, vào thiền viện một thời gian, có người còn
chưa chịu nổi huống là cõi Phật thanh tịnh giải thoát. Ở vài tuần đã than
buồn quá, đòi về... Tâm còn ngược xuôi, chạy theo thứ này thứ kia thì khó
hòa nhập được với sự yên ắng vắng vẻ, huống là sự thanh tịnh hoàn
toàn.
Còn Phật tử tu
thiền thì hay mắc bệnh nói tận trời xanh, toàn là kiến tánh rồi đốn
ngộv.v... nhưng đụng đến thì sanh sự, rầy rà ... đủ thứ chuyện.
Vấn đề quan
trọng không phải là tu thiền tốt hay tu tịnh độ đúng mà quan trọng là tu
như thế nào để giải quyết sanh tử. Đừng nên vướng vào những thứ cục bộ
trên. Đả thông rồi thì pháp hội nào ta cũng tới được. Phật pháp nơi nào ta
cũng nghe được. Nghe để có thêm kinh nghiệm, thêm sự hiểu biết mà hoàn bị
cho việc tu học của mình.
Phải nói, tu
hành với tính cách trao đổi hai chiều đã trở thành thông lệ. Như thắp
nhang cúng Phật xong, liền “Lạy Phật cho con tháng này trúng số, cho con
được bình yên”v.v... Ít khi nào việc dâng hương cúng Phật chỉ đơn thuần là
do lòng quí kính và ngưỡng mộ. Dâng hương chỉ với lòng thành kính thôi đủ
rồi, cần thêm gì nữa?. Muốn thêm gì nữa, cũng đòi hỏi ta phải đầu tư tâm
huyết và công sức của mình, chứ không thể cầu nguyện suông. Như muốn lòng
mình yên ổn thì không thể chỉ thắp hương nguyện với Phật rằng “Lạy Phật
cho lòng con yên ổn” mà phải nổ lực trong công phu hằng ngày. Nổ lực thế
nào? Tụng kinh thì phải tập trung vào lời kinh tiếng kệ đừng để tạp niệm
xen vào. Niệm Phật thì chỉ niệm Phật và nhớ Phật thôi. Ngồi thiền thì phải
được thiền định. Những gì dấy khởi làm mình bất an bất ổn thì phải buông.
Như vậy mới đạt được ước nguyện, còn nếu chỉ ao ước suông mà không đầu tư
công sức thì việc mơ ước trở thành hảo huyền. Người Phật tử chân chính
không làm như vậy.
Tu ít tu nhiều
gì là tùy mỗi người. Biết cách tu thì dù tu ít chăng nữa, ta vẫn hưởng
được sự bình an trong từng phút, từng giây công phu đó. Còn nguyện cầu
nhiều mà không tu hay không biết cách tu, dù thắp bao nhiêu nhang, đốt
thêm bao nhiêu vàng mả cũng chẳng ích gì. Chưa kể, nguyện cầu nhiều mà
không được đáp ứng thì có khi còn tăng thêm sự bực bội và bất an.
Muốn phá trừ
thói quen tu hành có tính cách hai chiều này thì ta phải học, hiểu, sống
thực với bản hạnh của Phật và Bồ Tát. Đời sống của chúng ta đầy những dấy
niệm lăng xăng, toan tính ngược xuôi, không giống với các ngài. Làm thế
nào bỏ đi, những điên đảo loạn tưởng, những toan tính ngược xuôi tức là
chúng ta sống thực được bản hạnh Bồ tát.
Việc tu hành
không đòi hỏi ta phải đến chùa hoặc phải có thời gian cố định. Chỉ cần
kiểm nghiệm tư tưởng và hành vi của mình trong mọi sinh hoạt, đó là tu.
Những gì gần gũi với bản hạnh của Phật và Bồ tát thì chúng ta gìn giữ phát
triển. Vọng tưởng dừng, việc làm của mình có kết quả. Tụng kinh, tạo công
đức chỉ là những phương tiện giúp chúng ta sống gần với bản hạnh của chư
Phật và Bồ Tát. Nó chưa thể đảm bảo cho việc thanh tịnh giải thoát. Nếu
làm những việc đó mà được thanh tịnh giải thoát thì chúng tôi đã thành
Phật hết rồi. Nhưng chúng tôi đâu đã thành Phật. Quí vị chọc giận thì có
khi chúng tôi cũng nổi sân. Trong quan hệ tương giao lợi lộc nếu quí vị
làm mích lòng quá thì chúng tôi cũng đâm đơn kiện. Những thứ như vậy nằm
sâu bên trong không ai biết được. Vậy thì, làm sao những việc làm bên
ngoài có thể giải quyết và mang lại sự thanh tịnh giải thoát cho chúng ta,
nếu chúng ta không chịu buông bỏ và tu ngay những thứ bên trong này. Đây
là chỗ đáng lưu ý.
Một thiền sư
đã nói :
Phong quyện tàn vân vũ trụ khoan
Bích thiên như thủy nguyệt như hoàn
Tổ
sư tâm ấn phân minh tại
Đối thử bằng quân tử tế khan
Dịch :
Gió cuộn mây tàn vũ trụ thênh
Trời xanh như nước một vầng trăng
Tâm ấn tổ sư rành rành đó
Chỗ này ai nấy tự xem bằng
Tâm ấn của tổ
sư chính là tâm chân thật. Ai cũng có, không hề dấu diếm và chính là Niết
bàn thường tại. Chỉ cần gió cuộn mây tan, tức những lăng xăng điên đảo và
loạn tưởng đã quét sạch thì bầu trời bao la thênh thang hiện bày.
Tu như vậy là
tu thẳng tắt không qua một quá trình phương tiện nào. Nó đòi hỏi chúng ta
phải có quyết tâm buông bỏ và loại trừ những tăm tối điên đảo của mình.
Như muốn nhà sáng thì phải thắp đèn. Thắp như thế nào? Nghĩ bậy đừng nghĩ,
nói bậy đừng nói, làm bậy đừng làm... được vậy thì dần dần tâm ta sẽ
sáng. Đây là một phương thức mà ai cũng có thể áp dụng.
Trời xanh như
nước một vầng trăng, bầu trời không mây thì thênh thang xanh biếc. Giữa
cái thênh thang xanh biếc ấy trăng sẽ hiện ra. Đó là tâm chân thật của ta
hiện tiền. Ngoài ra “một vầng trăng” còn diễn tả hình ảnh của một việc làm
duy nhất, không bị những lăng xăng điên đảo làm rối loạn. Việc gì chỉ tập
trung một việc đó thôi. Làm vậy thì ta được bình an tức thì.
Tâm ấn tổ sư
rành rành đó, một khi tâm đã rỗng rang bình an thì sự ấn chứng của chư vị
tổ sư cũng sẵn sàng. Tức ta sống được với bản hạnh của Bồ tát.
Tuy nhiên đó
chỉ mới là một bước trong công phu tu hành, chưa phải rốt ráo. Ngài Tử
Thuần nói:
Đình đình nhựt ngọ du khuy bán.
Tịch tịch tam canh thượng vị viên.
Lục hộ bất tằng chi noãn ý.
Vãng lai thường tại nguyệt minh tiền.
Dịch :
Dừng dừng đúng ngọ chữa tròn khuyên
Lặng lặng canh ba chẳng hiện tiền.
Sáu cửa chưa từng hơi hướm ấy.
Tuy nhiên trăng sáng vẫn không riêng.
Tuy dừng được
tất cả những lăng xăng phiền não thì bầu trời thênh thang rộng mở, trăng
sáng hiện tiền. Nhưng vầng trăng này chưa phải là vầng trăng tròn đầy.
Trạng thái tâm lặng lẽ như sự tịch tịnh yên lắng vào lúc giữa đêm chưa
phải là chỗ rốt ráo. Phiền não hết nhưng tâm vẫn còn bị chi phối bởi những
quan điểm nhận thức, nên nói, dù đã tịch lặng nhưng chưa thật tròn đầy.
Thường trong
đời sống, ta làm được việc gì thì hay bị mắc kẹt vào việc ấy. Những gì đã
thành nếp mà có sự đổi khác thì sinh phiền não. Giả như mình đang tụng
kinh mà ai làm gì ồn náo thì mình bực. Hoặc ngược lại mình không thích
tụng kinh mà ai tụng kinh thì mình không ưa. Đó là do chúng ta chưa thoát
khỏi những quan niệm, định kiến. Nó làm chướng ngại tâm chân thật hiển lộ
tròn đầy. Nên nói, lặng lặng canh ba chẳng hiện tiền.
Tuy nhiên, dù
cho chỗ tịch lặng ấy chưa được rốt ráo, sáu căn của mình còn dong ruổi
ngược xuôi, ánh sáng của vầng trăng vẫn tỏa khắp. Đây là chỗ ai cũng có
thể nhận được nếu biết cách tu. Chỉ cần chúng ta chịu buông bỏ, đừng vướng
mắc, làm chủ được mình.
Ngày tháng như
thoi đưa, tuổi già chồng chất, mạng sống ngắn ngủi. Hiểu đạo mà không cố
gắng tu hành thì thật đáng tiếc! Người xưa chí thiết tu hành mà còn than
thân, trách phận, lý nào chúng ta lại để ngày tháng trôi suông. Thiền sư
Duy Công đã tự thán :
Công phu chưa đến chỗ vuông tròn
Hằng tựa lan can luống lo âu
Hôm nay là ba mai lại bốn
Tuyết sương dễ đến phủ trên đầu
Tâm trạng khắc
khoải này là tâm trạng chung. Nếu như chỉ thích làm phước làm lành để
chuẩn bị cho đời sau thì không nói làm chi.Còn với thiền sinh chúng tôi,
thì việc tu hành quả là bức thiết. Từ đời sống cho đến quan niệm, hiểu
biết, tất cả đều được xây dựng theo đúng bản hạnh của Phật và Bồ Tát. Vậy
mà, hôm nay mùng ba, mai mùng bốn rồi ngày kia mùng năm, tới mùng sáu...
thời gian trôi chẳng hề dừng, tới chẳng hề lui, tóc bạc phủ đầu, thân thể
suy yếu nhưng công phu chưa đến chỗ vuông tròn, đạo cả chưa sáng. Chẳng
trách “hằng tựa lan can luống lo âu”.
Một thiền sư
đã nói “Dù khi sống bị người khinh bỉ, nghèo khổ, đói rách, khi chết bị
cày bừa hành hạ trăm ngàn muôn kiếp trong địa ngục A tỳ, nhưng một khi đã
nhận được yếu chỉ tu hành thì không có gì để ta phải sợ hãi”. Yếu chỉ tu
hành là gì? Đây chính là tâm an ổn của mình. Muốn nhận được thì chỉ cần
buông bỏ những lăng xăng điên đảo. Nhận được, có bình yên tự tại. Những
thứ chung quanh không còn làm mình động lòng và sợ hãi nữa.
Biện Thủ Tọa,
trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn, áo quần thường không tươm tất và hay có
thói quen xâu giày qua gậy trúc vác trên vai. Một hôm ngang qua chùa Đông
Lâm đất Cửu Giang, Hòa thượng Hỗn Dong thấy vậy liền mắng “Sư là mô phạm
của người đời, cử chỉ như thế chẳng những tự khinh mình, mà còn thất lễ
lớn đối với chủ nhân”
Biện Thủ Tọa
cười bảo “Ta có lỗi gì vậy?”. Nói xong lấy bút làm bài kệ để lại rồi đi.
Bài kệ như sau:
Chớ bảo Thê Hiền nghèo
Thân nghèo đạo chẳng nghèo
Giày cỏ tợ như hổ
Gậy chống trông tựa rồng
Khát uống nước Tào Khê
Đói ăn lật cức bồng
Kẻ
đầu đồng trán sắt
Đều trong núi cùng ta.
Thân nghèo đạo
chẳng nghèo là gia phong của ngài Thê Hiền và cũng là nếp sống cần có của
một người tu. Đạo chính là tâm chân thật của chúng ta. Chúng ta tu chỉ để
sống lại với tâm chân thật này. Còn những hình thức bên ngoài không quan
trọng.
Giày cỏ tợ như
hổ, gậy chống trông tựa rồng là nói đến những hoạt dụng phi thường của
người tu khi đã sống được với tâm chân thật của mình. Giày cỏ và gậy trúc
tuy chỉ là những thứ tầm thường dưới mắt người đời, nhưng qua công phu của
ngài Thê Hiền thì mọi thứ trở thành dữ tợn như hổ, linh hoạt như rồng. Với
những phương tiện như vậy thì còn gì để sợ hãi mà không bình an?
Khát uống nước
Tào Khê, đói ăn lật cức bồng. Nước Tào Khê là chỉ cho pháp môn “Trực chỉ
nhân tâm kiến tánh thành Phật” của Tổ Huệ Năng. Lật cức bồng là gai cây
dẽ. Huệ mạng là nguồn nước nuôi sống tâm ngài. Những thứ tầm thường khó
nuốt là thức ăn nuôi sống thân ngài. Vậy thì còn gì để vướng bận mà không
tự tại?
Kẻ đầu đồng
trán sắt, đều trong núi cùng ta. Đầu đồng trán sắt chỉ cho những con người
có thể đương đầu với những thế lực mạnh mẽ dữ dằn nhất. Chính là những con
người đã bình an và tự tại thật sự, là kẻ đồng chí đồng hạnh với ngài,
hiểu được nếp sống của ngài.
Kinh Viên Giác
dạy chúng ta tu như sau: Trong tất cả thời chẳng khởi vọng niệm. Đối với
vọng tâm cũng chẳng dứt diệt. Nơi cảnh vọng tưởng chẳng thêm liễu tri. Khi
không liễu tri chẳng biện chân thật.
Trong tất cả
thời chẳng khởi vọng niệm là, trong tất cả mọi sinh hoạt đi, đứng, nằm,
ngồi chúng ta đừng để những thứ như suy nghĩ, tơ tưởng... chi phối dẫn dắt
mình. Nghĩa là, ngay trong cuộc sống đây, những gì mình đã lên kế hoạch
thì cố gắng trôi tròn. Những gì dấy khởi ngoài sự sắp đặt đó thì thôi, bỏ
qua một bên. Ngay trong công việc đang làm cũng đừng dấy niệm. Làm việc gì
thì chỉ biết việc ấy. Đừng làm việc này mà để tâm dong duỗi tận đâu đâu.
Với các vọng
tâm cũng chẳng dứt diệt. Không khởi vọng niệm nhưng cũng không được dứt
diệt. Tức không lấy mà cũng không bỏ. Đây là pháp tu “Biết vọng không
theo” của Hòa thượng dạy chúng ta. Chỉ cần biết vọng, không để nó dẫn dắt
ngược xuôi thì yên. Không cần phải dùng thêm một phương tiện nào, hay một
lực nào để dằn nén hay dứt diệt. Khi biết là vọng, vọng tan rồi thì cũng
không cần phải ôm khư khư cái biết làm gì. Khi nào niệm dấy thì cái biết
hiện tiền, niệm không thì cái biết cũng không. Không cần dấy thêm một cái
gì để biết về những cái đó, cũng không khởi diệt hay phân biệt về những
vọng tưởng đó. Nên nói ngay cảnh vọng tưởng chẳng thêm liễu tri. Khi không
liễu tri chẳng biện chân thật.
Nói chung là
làm sao phát huy được cái biết của mình. Sở dĩ ta đau khổ ngược xuôi trôi
dạt trong vòng luân hồi sanh tử nhiều đời nhiều kiếp là do không sử dụng
tánh biết. Bởi không biết nên lao theo, chấp chặt rồi tạo nghiệp. Đã tạo
nghiệp thì có khổ đau. Từ khổ đau lại gây tạo nghiệp... cứ vậy mà loay
hoay luẩn quẩn không có lối thoát. Cái biết này là ngọn đèn trí tuệ xua
tan bóng tối vô minh. Đèn đã sáng thì bóng tối tự mất không cần phải dùng
thêm phương tiện. Chỉ cần biết vọng thì vọng tự mất, không dấy khởi thêm
gì nữa. Còn dấy khởi là còn vọng. Chúng ta có tánh biết làm chủ những vọng
động, ngay đó bình an hiện tiền.
Nếu không tỉnh
sáng thì việc lớn việc nhỏ gì mình cũng ôm đồm, thứ gì cũng làm mình lo sợ
bất an. Vậy thì khổ lắm. Thứ gì cũng có duyên, có nghiệp của nó, ôm và lo
đến bao giờ? Càng ôm đồm, càng vướng mắc càng khổ đau. Phật nói, chưa có
muốn có là cái khổ thứ nhất, có rồi muốn giữ là cái khổ thứ hai, muốn giữ
mà mất là cái khổ thứ ba. Những cái mình muốn có muốn giữ đó lại là những
thứ giả tạm bên ngoài, tránh sao khỏi sự mất mát mà không đau khổ? Đây là
chỗ chúng ta phải tỉnh sáng nhận định.
Cuối cùng tôi
xin kể một câu chuyện làm bài học cho việc tu hành của chúng ta. Ngày xưa
có một vị thần biển, trao cho ông thợ chài bốn viên ngọc, nhờ dâng cho
quốc vương của nước ông. Viên ngọc thứ nhất có khả năng tạo được tất cả
thức ăn sơn hào hải vị. Viên ngọc thứ hai tạo ra lụa là gấm vóc son phấn.
Viên ngọc thứ ba tạo ra các dụng cụ và khí giới. Viên ngọc thứ tư tạo ra
tiền bạc. Quốc vương nhận xong, cảm kích lòng thật thà của người thợ chài,
bèn tặng lại ông một viên, tùy ông chọn lựa.
Ông xin về hỏi
ý kiến vợ con rồi sẽ lên nhận sau. Tuy nhiên sau khi bàn bạc thì mỗi người
mỗi ý không ai nhường ai. Gia đình rối rắm vì sự tranh dành lớn tiếng này.
Người thợ chài quá mệt mỏi bèn tâu với vua: Từ khi có chuyện bốn viên
ngọc, gia đình con xào xáo không yên. Đời sống ngày xưa của con tuy bình
dị nhưng yên ổn hạnh phúc. Thôi, cho con khỏi nhận viên nào nữa.
Việc tu hành
của mình cũng vậy. Nếu bất cứ một vọng niệm, một dấy khởi nào mà mình cũng
dám trả hết như ông thợ chài thì mình sẽ được yên ổn sung sướng. Còn dù
cho ngọc ngà châu báu gì mà mình cứ nắm lại, lao theo rồi tính toán ngược
xuôi thì tránh sao khỏi lao tâm tổn trí. Câu chuyện này nhắc chúng ta đừng
tin, đừng lao theo vọng tưởng để được yên ổn hoàn toàn. |