NHỮNG TAI HẠI CỦA NGŨ TRẦN
Hôm nay tôi sẽ
nói về những tai hại của ngũ trần. Trong kinh Phật dạy, những ai đã phát
tâm hướng về Phật đạo, phấn đấu trừ bỏ những vọng tập của mình để trở
thành người tốt, sống theo tinh thần thanh tịnh giải thoát của Phật, đều
phải tự giữ gìn, không để các đối tượng bên ngoài làm trở ngại việc tu
hành của mình. Một trong những đối tượng ấy chính là ngũ trần.
Là những người
đã có ít nhiều kinh nghiệm trong việc tu học, chúng ta thấy chỉ có giới
luật mới rào cản được sự xâm phạm bên ngoài. Tuy nhiên bấy nhiêu đó cũng
chưa đủ để đưa chúng ta đến sự giác ngộ giải thoát, mà còn phải có lòng
thành, tâm niệm quyết tử thì ta mới đủ sức đương đầu và chuyển hóa những
nghiệp tập của mình từ nhiều đời.
Trong kinh có
những đoạn như sau nói về phương pháp diệt trừ tai hại của ngũ trần. Phật
mượn hình ảnh: Trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, có những vùng đi lại rất cam go
và bất tiện. Vùng này chẳng dành riêng cho loài khỉ mà cũng chẳng thuộc
quyền sở hữu của loài người. Đây là vùng nguy hiểm, không thuận lợi cho
việc đi lại đối với loài người mà ngay cả loài khỉ vượn cũng thế. Phật nói
như vậy để làm gì? Để thấy, những đoạn đường khó khăn không đi được, mà
chúng ta cứ đi thì sẽ gặp gian nan nguy hiểm.
Lại có một
vùng khác, đường đi cũng gập ghềnh khó khăn nhưng đó là chỗ an trú của
loài khỉ vượn. Loài người không thể xâm phạm. Vùng này hiểm trở nhưng là
vùng khỉ vượn tới được. Đây là chỗ chúng tập trung sinh sống. Nghĩa là nếu
người sáng suốt thì phải biết lo liệu hậu quả của việc mình làm. Cũng như
người xưa thường nói: Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần. Để làm gì? Để
nói mà không có lỗi. Đó là những kinh nghiệm sâu dày của cổ nhân.
Chuyện tu hành
mà hấp tấp không trước không sau, thì thời gian đâu để mình tới một bước,
lùi ba bước. Tu như vậy cả đời chẳng đi đến đâu. Uổng lắm! Người này sẽ bị
các bậc thức giả chê cười, xem thường. Bởi vì làm một việc mà không tiên
liệu trước, đường lối chủ trương không nắm vững, thì nhất định việc làm sẽ
không tới đâu. Thành ra người tu phải quyết tâm quyết tử đối với việc tu
hành.
Sang một đoạn
kinh khác, đây là vùng đồng bằng phì nhiêu rộng rãi. Ở đây loài khỉ vượn
và cả loài người cùng sinh hoạt chung vui. Vùng phì nhiêu này ai cũng có
thể sống được, thì chúng ta có thể gầy dựng cuộc sống ở đây. Nghĩa là đối
với người tu, một khi chúng ta muốn đi hết đoạn đường mình đã chọn thì
phải có thầy, bạn tốt… Là người tu chúng ta phải tỉnh táo sáng suốt chọn
hướng đi và quyết định hướng đi của mình.
Trong kinh
Phật nói có vô lượng pháp môn, nhưng chúng ta phải biết chọn pháp môn
thích hợp với mình. Rồi theo đó mà thực hành công phu cho đến chết cũng
không lui sụt. Người xưa nói “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Việc gì
chuyên nhất thì sẽ thành công tốt đẹp. Với pháp môn thích hợp, mỗi ngày tu
là mỗi ngày ta gọt dủa những si mê điên đảo của mình, để làm chủ và chiến
thắng những thói hư tật xấu của mình. Chọn đúng pháp rồi thì dù cho gặp
khó khăn gì ta cũng cứ an nhiên tự tại mà tiến bước. Cứ lẫm liệt như thế
mà đi thì chắc chắn thành công.
Trong kinh
Phật đã nói về câu chuyện của một con khỉ như thế này. Có người thợ săn nọ
đặt chiếc bẫy với nhiều chất keo nhựa. Chú khỉ tham ăn nhất trong đàn đã
tìm tòi đến cái bẫy đó. Nó chụp tay thứ nhất liền dính, rồi đến tay thứ
hai, tiếp theo là chân thứ nhất, chân thứ hai và cuối cùng là cái miệng.
Tất cả đều dính vào chất nhựa trong chiếc bẫy. Bấy giờ gã thợ săn chỉ có
việc khiêng về, lột da xé thây tùy ý, con khỉ không còn nhúc nhích gì được
nữa.
Phật bảo tai
hại của ngũ trần đối với chúng ta cũng thế. Năm trần là sắc, thanh, hương,
vị, xúc. Quỷ vô thường là gã thợ săn, con khỉ là chúng ta. Năm giác quan
của chúng ta luôn luôn bị trói buộc bởi sắc dục, mùi thơm, vị ngọt và
những xúc chạm. Cứ nghiệm thì thấy, nhiều khi mình còn tệ hơn cả khỉ, Vì
bất cứ lúc nào chúng ta cũng dính chặt với ngũ trần. Cuối cùng quỷ dữ vô
thường đến nắm cổ lôi đi, ta đành phải bó tay chẳng làm sao chống chế lại
nổi. Cho nên nếu không tự giải tự cứu mình khỏi những thứ này, thì ai giải
cứu cho ta?
Vì vậy người
tu phải gan dạ đừng để ngũ trần làm hại, đừng để con quỉ vô thường cuốn
trôi trong dòng thác luân hồi. Nhưng gan dạ thế nào? Gan dạ dừng tâm phóng
ra, quay lại yên ổn với chính mình. Như chúng ta đang ngồi yên tại Thiền
viện, chợt nghĩ đến việc nhà, ta liền nhận ra mình dấy niệm rồi đây, tức
thì mạnh dạn cắt đứt dòng suy nghĩ ấy ngay, đó là gan dạ. Nếu không dừng
được thì bị phân tâm. Bị phân tâm thì không có thiền định. Trong khi người
tu thiền phải có thiền định, mới mong phát huy được trí tuệ.
Trí tuệ ở đây
không phải là trí tuệ do học hiểu bên ngoài, hoặc ghi nhớ từ trong cuộc
sống. Vì trí tuệ ấy chỉ là những hiểu biết tạm thời, không có giá trị
thật, luôn thay đổi theo thời đại và nền văn minh của con người. Còn trí
tuệ trong nhà thiền là trí tuệ chân thật, không gì thay thế được, nó có
công năng phá tan vọng tưởng phiền não, trị được những tật bệnh thâm căn
cố đế của con người. Trí tuệ này có sẵn nơi mỗi chúng ta, nhưng nếu không
tu cứ vướng mắc bên ngoài, thì không bao giờ có thể sử dụng được trí tuệ
này.
Tu không phải
là việc gì nặng nhọc khổ cực làm mất nhiều thì giờ của chúng ta, mà chỉ
đòi hỏi sự phấn đấu từ nội tâm của mình. Ta vẫn sống, vẫn đi, vẫn ngồi,
vẫn sinh hoạt như bao người khác, nhưng lúc nào cũng tỉnh táo sáng suốt,
bỏ được những gì cần bỏ, làm chủ được mình. Cần yếu là đừng đem tâm tìm
cầu, dù pháp của Phật cũng là phương tiện thôi. Tâm tức là Phật, mà tâm ấy
có trong tất cả thời tất cả nơi, tất cả mọi hoạt động thi vi của chúng ta.
Trong phạm vi
thiền chúng ta phải tu như vậy. Nếu không có định thì trí tuệ không viên
mãn. Trí tuệ không viên mãn, làm sao ta sống được bình an trước quỉ dữ vô
thường, trước những phong ba bảo táp mà mình phải luôn luôn đối đầu. Nếu
không tỉnh, không sáng mình sẽ bị động, sẽ bị quấy rầy rồi điêu đứng, bức
xúc, mất ăn, mất ngủ và đau khổ.
Kẻ nào bước
chân vào cánh đồng cỏ bị ngăn cấm, vào những vùng thuộc sở hữu của kẻ khác
thì phải bị khổ não. Đây như trong nhà thiền nói, con trâu mình chăn mà cứ
để nó dẫm vào lúa mạ người, thì sẽ có chuyện phiền phức khổ não. Người
chăn trâu lúc nào cũng nắm chặt dây thừng, có vàm, có roi mới trị được con
trâu hoang. Nó không chịu đi con đường ngay thẳng, thì mục đồng phải giựt
dây kéo vàm và nếu nó chứng nữa thì quất cho mấy roi. Chẳng như thế, nó cứ
tự do chạy nhảy làm hư lúa mạ của người thì ta phải gánh tai vạ thôi.
Người đời
vướng vào trần cảnh cũng như con trâu hoang chạy loạn vào ruộng lúa nhà
người. Thấy cảnh thích thì vui, thấy cảnh nghịch thì buồn. Đó là dẫm vào
lúa mạ của người. Đã thế làm sao tránh khỏi khổ đau. Chúng ta nhớ lại ngày
xưa mẹ ẳm mình trên tay, có bao giờ ta thấy cái này tốt, cái kia xấu đâu.
Hoặc thế này là thương, thế kia là ghét. Đứa bé nào cũng nhìn sự vật với
một ánh mắt ngây thơ không phân tích. Nhưng rồi lớn lên mọi thứ đều đổi
khác. Đó là vì tâm đã nhiễm ô với năm trần.
Muốn cái thấy
cái nghe của mình được hồn nhiên như xưa thì ta phải tháo gỡ lớp bụi trần
dính trên da thịt của mình đi. Nghĩa là, tốt thấy cũng vậy, xấu thấy cũng
vậy. Bởi chúng chỉ là duyên hợp, huyễn hóa, không thật, tạm có mặt trong
một thời gian nào thôi. Nếu tâm tâm niệm niệm luôn thấy các pháp như vậy,
chúng ta sẽ không vướng mắc, không khổ đau vì chúng. Thấy chỉ thấy, không
thương không ghét thì được tự do tự tại hoàn toàn rồi. Tu là thế.
Tụng kinh,
niệm Phật, ngồi thiền cho nhiều, chưa hẳn là tu. Đấy chỉ là những phương
tiện, những nghi thức cốt giúp cho việc tu hành được tốt hơn. Chủ yếu là
đối với ngũ trần thấy, nghe… đầy đủ mà đừng dấy niệm phân biệt. Không dấy
niệm phân biệt thì không khổ. Chúng ta khổ chính là từ những vọng tưởng
của mình. Vọng tưởng không thật nhưng vì ta ôm ấp chấp giữ nên nó thành
thật. Bởi thật nên rồi tạo nghiệp, luân hồi và đau khổ.
Vậy thì nỗi
khổ này ai gỡ được cho mình, nếu không phải tự mình gỡ tự mình cứu. Gỡ
bằng cách nào ? Hoán chuyển ngay những phiền não trong tâm, thì tất cả
cảnh giới bên ngoài sẽ được tháo tung. Như ngày xưa, ta chưa đi chùa chưa
biết tu thì con cháu không nghe lời khuyên răn, mình bực bội nhiều. Giờ đi
chùa, biết tu rồi, ta cởi mở dần, ít bực bội hơn. Ngày xưa nghe con cháu
nói một câu phạm thượng là giận lắm, đứa nào thương nhiều càng giận nhiều,
có khi nó xin lỗi cũng không chịu. Bây giờ tu rồi biết thông cảm, lứa tuổi
nó là vậy, nên ta từ từ uốn nắn khuyên răn, tạo duyên cho nó sửa đổi mà
không khởi niệm bực bội hay tức giận. Được vậy là ta đã tiến một bước quan
trọng trong việc tu hành.
Tu không phải
là tự tại hay thành Phật liền. Việc gì cũng từ từ, một khi ta chịu tu thì
sẽ có tiến. Đó là càng ngày mình thấy lòng càng cởi mở, bao dung và mọi
thứ trong cuộc sống không còn quan trọng nữa.
Đến một đoạn
kế, Không nên hành trì sai lạc, lâm vào chỗ không phù hợp sẽ bị khổ, sẽ bị
hãm hại vào cảnh khổ. Đó là điều cần nên học, nên nhớ và nên hành trì.
Không nên bỏ qua, không nên xem thường và đừng bao giờ hành trì mà không
thấu đáo. Đây là lời nhắc nhở của những vị đi trước chúng ta. Đừng làm một
việc gì để bị rơi vào sự sai lạc. Phải nhận định rõ ràng những phương tiện
tu hành mà người trước đã chỉ dạy.
Có vị nói với
tôi, thưa thầy con có giác quan đặc biệt, hễ làm điều gì mà con thấy hơi
do dự thì y như là có chuyện. Nghĩa là ngoài năm giác quan bình thường, ta
còn có loại giác quan này. Nếu tiếp xúc với người nào mà vừa chạm mặt,
mình đã thấy trong không yên thì phải dè dặt coi chừng và tự chỉnh đốn.
Như bước vào chánh điện, thì tự nhiên ta phải bỏ dép, nhẹ nhàng, trang
nghiêm. Đi ngang tượng Phật ta phải cúi đầu kính lễ.
Cũng vậy, làm
việc gì mà thấy trong lòng không an thì phải thận trọng. Đó là vì việc làm
ấy không phù hợp. Như người xuất gia thì phải ở chùa. Nhưng hôm nào quý vị
thấy có một ông tăng ngất nga ngất ngưỡng trong tiệm cà phê, miệng phì
phèo thuốc lá, là biết ông ta có vấn đề rồi đó. Bản thân chúng tôi, một
khi làm như vậy thì trong lòng không yên, vì điều đó trái với phong cách
của một người tu. Khi trong lòng có sự báo động thì chúng ta phải biết,
việc làm của mình không thích hợp với con người, với tư cách của
mình.
Nên cần phải
lưu ý chỗ nào không phù hợp với người tu, với Phật tử đang trong giai đoạn
tu hành thì chúng ta đừng đến. Còn đối với năm căn, mắt thấy sắc, tai nghe
tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, mà chúng ta thấy trong đó
có xen lẫn buồn, thương, giận, ghét v.v… thì xin dừng cho. Dừng được là
không phạm vào chỗ không thích hợp. Đó là tu. Vừa đơn giản, vừa dễ hiểu dễ
hành.
Nghiệp tập của
mỗi chúng ta, không ai giống ai. Mỗi người đều có suy nghĩ, kiến giải,
quan niệm sống riêng. Vì chỗ lập cước khác nhau nên rồi sự ưu tư và ưa
thích cũng khác nhau. Quan trọng là chúng ta phải nhận cho rõ báo nghiệp,
tập nghiệp của mình để sửa đổi và đừng vi phạm hay làm một việc gì không
thích hợp. Như ngồi nói chuyện thiên hạ lâu, thấy đau lưng và vô ích, thì
đừng ngồi nữa. Vậy thì an ổn, ăn được, ngủ được. Cũng như biết uống cà phê
là đau đầu mất ngủ thì đừng uống. Giản dị vậy thôi.
Nhưng có khi
việc giản dị như vậy chúng ta không làm được. Mình cứ nghĩ phải làm một
cái gì đó thánh thiện cao siêu hơn kìa. Không phải đâu. Chỉ cần những việc
thông thường trong sinh hoạt sống hằng ngày, ta làm chủ được, dừng được là
tốt rồi. Làm sao khi các giác quan tiếp xúc với ngũ trần, mình dừng được
đừng lao theo, tức là không dẫm vào đồng cỏ của kẻ khác, không đi vào
những chỗ bị ngăn cấm. Đó là tu trực chỉ, là tu thiền.
Phật nói tiếp
Nên đi chỗ nào, vùng nào không bị ngăn cấm, thuộc quyền sở hữu của mình,
phù hợp với địa vị của mình, hành trì chân chánh. Như vậy những tai hại
và khổ đau không làm sao loạn động mình được. Đây là những lối đi của
người tu. Trong nhà Phật thường gọi là tứ niệm xứ hay tứ niệm tưởng. Đó là
bốn điều Phật dạy cho chư tăng cũng như các Phật tử mà hầu hết những bài
kinh trong tạng Nikaya đều nhắc đến.
Thứ nhất là
niệm thân bất tịnh. Niệm thân bất tịnh là biết thân thể vốn không trong
sạch. Pháp này chưa bắt người tu phải bỏ tất cả những dấy niệm của mình,
vẫn cho dấy khởi các niệm tưởng. Nhưng niệm tưởng ở đây là thấy rõ thân
này bất tịnh, như cái bô chứa đồ ô uế. Tưởng như vậy để đừng đắm trước,
đừng tham luyến thân này, không vì thân này mà tạo nghiệp. Rõ ràng vì thân
mà nhiều khi chúng ta khổ điêu đứng. Thành ra niệm tưởng thân bất tịnh là
điều cần thiết đối với người tu. Đây là con đường, là đồng cỏ phù hợp với
mình. Chúng ta có thể đi được trên con đường này.
Thứ hai là
niệm tưởng cảm thọ là khổ. Khi biết tu rồi, thì cảm thọ vui hay buồn cũng
làm ta mất thì giờ không yên. Như xem phim, có những đoạn quý vị cười,
nhưng cũng có những đoạn quý vị khóc. Nên biết dù vui chăng nữa, nó cũng
sẽ qua mất. Rõ ràng nó làm mình mất thời giờ, mệt mỏi, không yên. Có khi
mệt mỏi quá, ta nói lần sau nhất định không xem nữa. Nhưng đến lần sau lại
dùi đầu vào, rồi cũng khóc cũng cười. Đó là cái dỡ không làm chủ được của
mình.
Nên làm sao
dừng được. Một khi biết nó làm mình mệt, thì dù có ai đem cái gì hay đến
tận mây xanh, ta cũng nhất quyết không đụng đến. Bởi nó cũng chỉ là trần
cảnh bên ngoài, không phải của mình. Cho nên Phật dạy thọ là khổ; dù thọ
vui, thọ khổ, hay thọ không khổ không vui cũng đều như thế cả.
Chủ yếu là mở
mang và sử dụng được tâm thật của mình. Đó mới thực sự là nguồn an vui của
mình. Những điều này thông thường trong cuộc sống thôi, nhưng tu được thì
đó là trực chỉ. Gọi là trực chỉ vì ta sẽ đạt được Niết-bàn ngay khi mình
làm chủ được trong hiện đời. Niết-bàn ấy là Niết-bàn vô định xứ, vô trụ
xứ. Ở đâu, bao giờ mình cũng có thể có được Niết-bàn này.
Đừng nghĩ rằng
Niết-bàn là một cõi nào đó khác thường. Không ! Niết-bàn là mở mắt thấy
bình thường, mọi người chung quanh nói qua nói lại, ta vẫn nghe bình
thường nhưng tâm an ổn không vướng mắc gì. Muốn thể nhập Niết-bàn này, các
giác quan chúng ta phải tỉnh táo, sáng suốt, mới tiếp thu được đạo lý siêu
việt. Do trí tuệ sáng suốt, phá tan được phần vô minh nào thì được
Niết-bàn phần ấy.
Thứ ba là niệm
tâm vô thường. Đây là tâm suy tư nghĩ tưởng. Nó là một dòng chuyển biến
thay đổi liên tục, lăng xăng ngược xuôi dấy khởi liên miên, không phải là
tâm thật của mình. Nhưng chúng ta cứ cho rằng suy nghĩ nào cũng là mình là
tôi: Tâm tôi nghĩ như thế, tôi nói bằng tấm lòng thành của tôi v.v… Nên
rồi, những gì xảy ra ngược lại với tâm thành, với tôi thì sinh bực. Bực
thì không phải là tâm thật rồi. Vì tâm thật là thể trùm khắp sáng suốt,
không một đối tượng, không một chút bợn nhơ.
Chúng ta muốn
sống được với tâm thật này thì phải người tỉnh táo, làm chủ được những dấy
niệm, những suy nghĩ của mình. Đừng bao giờ để một đối tượng nào hiện hình
trong tâm. Vậy chúng ta mới thực sự yên, thực sự an lạc. Đây là chỗ hết
sức khó khăn, rất khó nắm bắt. Nếu còn một thứ gì, một ngôn từ nào để diễn
bày, chẳng qua chỉ là vọng kiến, như Lục Tổ thường nói “Lấy cỏ tranh che
đầu”.
Bởi ngôn ngữ
giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Kinh điển văn tự chỉ là phương tiện giúp
chúng ta nhận ra cái chân thật của mình. Đừng lầm ngón tay là mặt trăng.
Nếu nhận lầm ngón tay là mặt trăng thì vừa không nhận được mặt trăng mà
còn làm hỏng cả ngón tay. Mặt trăng dụ cho tâm chân thật, tâm này không
thể diễn tả bằng ngôn ngữ, cho nên các Thiền sư tạm dùng đánh, hét để chỉ
cái đó. Người khéo biết nhân đó mà nhận.
Như vậy những
gì thuộc về thân thì bất tịnh, khổ. Những gì thuộc về tâm thì vô thường
nên cũng khổ. Đây là chỗ người tu cần phải thấu đáo để ứng dụng công phu
tu hành.
Thứ tư là niệm
các pháp là vô ngã, không có thật thể, không cố định. Các pháp do nhân
duyên sinh nên không thực thể, luôn biến chuyển theo duyên nên không cố
định. Niệm như vậy để làm gì ? Để đừng tham đắm, không tham đắm thì không
tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì không luân hồi sanh tử khổ đau.
Kết luận, tứ
niệm xứ là con đường, là cánh đồng phù hợp với người tu. Vì vậy, chúng ta
có thể an trú trong đó để tiến tu và nhập Niết-bàn vô trụ xứ.
Nhân nói đến
niệm tưởng, tôi có mấy điều xin được nêu ra đây để quí Phật tử nhận hiểu
và áp dụng trong đời sống của mình.
Thứ nhất là
“tưởng đến cái chết”. Nói vậy không phải để chúng ta bi quan, mà để gắng
tiến tu. Cái hay của đạo Phật là chỉ rõ cái giả để nhận ra cái thật. Chứ
không phải thấy các pháp không thật rồi bỏ tất cả. Thấy sự nguy hiểm chết
chóc vô thường, chúng ta gắng gỗ tu hành.
Như thấy thân
này vô thường, có thể hoại bất cứ lúc nào nên không lệ thuộc vào thân mà
phấn đấu công phu, phấn đấu tập trung niệm tưởng, gầy dựng lại thế làm chủ
cho mình. Nghĩa là, làm chủ được bệnh tật, làm chủ được nghiệp tập, làm
chủ được cảnh duyên. Được thế đời sống chúng ta sẽ thanh tịnh, vì mình
sống đúng như chánh pháp.
Thứ hai là
“niệm tưởng ghê tởm các món ăn”. Tưởng như vậy để đối trị tật tham ăn, đắm
vị của mình. Nếu chúng ta không cẩn thận với vấn đề này thì có khi chính
mùi vị làm mình khổ thân mệt óc. Điều này sẽ ảnh hưởng đến công phu tu
hành rất nhiều. Ngày xưa tôi có mấy ông bạn vong niên. Đang đêm, các vị có
thể xách xe xuống tận nhà hàng nổi ở Mỹ Tho, ăn uống nhậu nhẹt đến khi đi
hết nổi mới về.
Khi tỉnh lại
thì quá mệt mỏi uể oải, tốn hao tiền bạc còn mang thêm bệnh tật. Nhưng
tỉnh được vài ba bữa thì đâu cũng vào đó, vì đắm vị chưa quên. Chừng bác
sĩ báo động nếu không ngưng rượu thì chết, mới biết sợ. Họ xúm nhau ăn gạo
lức muối mè và tìm đến cầu cứu tôi. Tôi nói “Mấy anh cứ nghiệm lại sau
những lần thụ hưởng đó, thấy thân thể thế nào thì đủ hiểu, đủ có cách cứu
mình rồi, cần gì phải nhờ đến tôi. Tôi đâu có kinh nghiệm đó.”
Cuối cùng các
ông bạn tôi cũng tìm ra được một phương pháp: Trên đường đời, nếu ai chịu
tu thì chỉ cần nhìn lại mình, nghiệm lại những lỗi lầm hư hổng của mình đã
qua rồi bỏ, đừng gây tạo thêm nữa. Quả thật là vậy. Biết dỡ liền bỏ, là
sám hối, là tu.
Thứ tứ là
“niệm tưởng không hân hoan đối với tất cả thế giới”. Trong kinh Pháp Hoa,
Phật dạy “Tam giới vô an du như hỏa trạch”. Nghĩa là, ba cõi không yên như
trong nhà lửa. Đây là loại niệm tưởng giúp chúng ta nhận ra đời là khổ,
thân là vô thường, các pháp không thật. Nếu không niệm tưởng này thì không
bao giờ chúng ta chịu buông những thứ mình đã gầy dựng. Vì vậy niệm tưởng
“thế giới không an” là niệm tưởng không thể thiếu đối với người tu. Nó là
nền tảng giúp chúng ta sống dần trở về với tâm thật của chính mình.
Tâm thật này
còn gọi là tánh giác. Kinh nói giác tánh hiện tiền, đơn giản, sáng suốt vì
nó luôn luôn nhận biết. Không lời nào có thể mô tả được nó. Nó chưa từng
sanh cũng chưa từng diệt, chưa từng có cũng chưa từng không. Sanh tử không
làm nó xấu hơn, Niết-bàn không làm nó tốt hơn. Nó là cái sẵn có trong mỗi
chúng ta. Chỉ cần mình quay về nhận lại và sống được với tánh giác này thì
mọi mê lầm đau khổ sẽ tiên tan, như chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa nhận
lại hạt châu trong chéo áo của mình và trở nên giàu có.
Vậy để kết
thúc bài giảng hôm nay, một lần nữa tôi xin nhắc lại, tất cả chúng ta đừng
để năm căn chạy theo năm trần thì ngay đây cuộc sống này là an vui giải
thoát. Bằng ngược lại, nếu cứ để năm căn rong ruổi vướng mắc với năm trần
thì muôn kiếp ta phải chịu nó kéo lôi đi trong luân hồi sanh tử, khổ sở
không biết đến bao giờ. |