CHỌN BẠN ĐỂ TU
Tổ Quy Sơn nói: “Sinh ta là cha mẹ, thành
ta là thầy bạn”. Từ câu nói này chúng ta xét lại cuộc đời của mình thấy
rất đúng. Như lời Tổ nói, mình làm được việc gì, thành tựu tất cả các công
đức cũng như tăng tiến trong việc tu tập là nhờ ở thầy bạn lành. Cho nên
đề tài chúng tôi nói hôm nay, phần đầu là “Chọn bạn để tu”, phần thứ hai
nói về công phu tu hành.
Cha mẹ tạo tác ra thân này, nhưng như thế
chưa phải là đủ. Muốn cuộc đời, con người của mình giá trị, làm những việc
thực sự ích lợi thì phải có thầy bạn mới thành tựu. Thế nên tổ Quy Sơn dạy
tiếp: “Gần gũi bạn lành như đi trong sương mai, tuy chẳng ướt áo nhưng dần
dần có thấm”. Nghĩa là chúng ta gần gũi bạn tốt như đi trong sương mai,
thoáng qua thì không thấy ướt áo, nhưng lâu dần dần sẽ thấm ướt.
Kinh Hiền Nhân có dạy: “Bạn có bốn bâïc.
Thứ nhất bạn như hoa, thứ hai bạn như cân, thứ ba bạn như núi, thứ tư bạn
như đất”. Trong bốn bậc này, chúng ta nên chọn bậc nào?
Thứ nhất bạn như hoa. Hoa đẹp, có hương
thơm ai cũng thích, muốn hái để trang sức thân này hoặc trang trí quanh
nhà. Tuy nhiên, khi hoa héo tàn hết hương sắc thì bị quăng vào sọt rác,
hoặc bên vệ đường. Bạn như thế, chúng ta không chọn làm chi.
Thứ hai bạn như cân. Chúng ta thấy cái cân
có hai dĩa bằng nhau treo ở hai bên, chính giữa là cán cân. Dĩa này để
mười phân thì dĩa kia cũng phải mười phân mới giữ được thăng bằng. Đây
đúng là loại bạn trao đổi hai chiều, hợp đồng này phải chính xác mới được,
nếu không chính xác sẽ đổ như chơi. Loại bạn này dễ gây phiền não lắm, ta
không nên chọn.
Thứ ba bạn như núi. Tương truyền ở Ấn Độ
có núi Kỳ Xà Quật, đức Phật hay thuyết pháp tại núi này. Trong núi thường
chiếu ra màu sắc đặc biệt. Chim muông sống ở đây cũng nhờ ánh sáng ấy mà
màu lông óng ánh rất đẹp. Loại bạn thứ ba này có thể nương tựa. Vì từ bạn
mà ta có được những tiếng thơm, thành tựu sự tốt đẹp cho mình. Đây là bạn
tốt rất cần thiết trong đời sống của chúng ta.
Thứ tư là bậc sau cùng, bạn như đất. Đất
là cơ sở chịu đựng, là nền tảng vững chắc dung chứa sự sống của vạn vật.
Ta đi dép bằng nhung hay bằng gỗ, đất cũng không hề lên tiếng. Ta đổ nước
hoa hay phân hôi, đất cũng không có thái độ thích thú hay phản đối. Một bề
chịu đựng chấp nhận nâng đỡ, tương trợ cho muôn vật sinh sôi nẩy nở từ
đất. Loại bạn này hiếm có trong đời, chỉ một bề chăm sóc, lo lắng, giúp đỡ
cho người mà không đòi hỏi cho mình bất cứ điều gì. Trong bốn bậc, đây là
loại bạn cao quí nhất và cũng khó gặp nhất. Nếu đầy đủ thiện duyên gặp bạn
lành như thế, chúng ta lo gì không thành tựu được đạo nghiệp. Cho nên gặp
được bạn như đất, chúng ta cúi đầu đảnh lễ nguyện suốt đời nương tựa, tu
tập cho đến ngày viên mãn.
Tuy hiếm nhưng không phải không có. Nếu
chúng ta sống bằng tấm lòng chân thật, sống trong đạo tình thanh khiết,
nhất định sẽ gặp được hạng bạn này. Nói tới đây tôi mong sao Phật tử chúng
ta ứng xử với nhau như đất, vui vẻ chịu đựng chấp nhận và không mong cầu
gì cả. Được thế lo gì giặc phiền não không thối lui. Chọn bạn cũng là chọn
cách tu, ta đừng bao giờ để phiền não cấu kết trong lòng và sai sử mình.
Đồng thời bằng đạo tình chân thật, chúng ta tương trợ giúp nhau để thành
tựu đạo nghiệp. Đó là việc chính.
Trong đời sống tương giao giữa người với
người, muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp thì tình bạn này là cần thiết hơn
bao giờ hết. Trong bốn loại bạn, đây là loại tối ưu nhất, kế đó là bạn như
núi. Còn hai loại kia ta tránh, không nên thân cận. Muốn chọn bạn như đất
hoặc như núi, điều trước nhất chúng ta phải sống chân tình, đối xử tốt với
người, thấy lỗi liền can gián trong tình thương yêu đùm bọc. Như quí vị là
bạn đạo với nhau, cùng đi chùa cùng học đạo, khi thấy bạn mình có sơ suất
điều gì liền nhắc nhở bằng tấm lòng chân thành, không có chút tư ý gì
khác. Đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai khi thấy người bạn làm được
những việc tốt, chúng ta tùy hỷ. Kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm hoặc các
kinh điển Đại thừa nói về công đức tùy hỷ rất lớn. Tùy hỷ là vui mừng
theo. Công đức này có được nhờ tấm lòng cởi mở, không cố chấp. Thông
thường ta thấy ai làm được việc, mình ít tùy hỷ lắm mà lại trề nhúng. Đó
là thể hiện tâm lượng hạn hẹp, nhỏ nhen của mình, nó mới sai sử cái môi
trề nhúng, cặp mắt liếc xiên liếc dọc rất xấu. Có khi phát ra âm thanh
chát chúa, đay nghiến nữa. Nếu để tâm ích kỷ nhỏ nhen ấy sai sử thì thân,
miệng, ý của chúng ta mất hết công đức tùy hỷ.
Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy khi thấy
người trì tụng kinh Pháp Hoa hoặc các kinh điển Đại thừa, mình tùy hỷ
khuyến khích, hoặc giúp đỡ, như đem nước cho uống, đem ghế cho ngồi, thắp
hương trầm hoặc đốt nhang cúng dường... khiến người kia thân tâm thanh
tịnh tụng kinh, công đức của mình cũng ngang bằng công đức của người trì
kinh. Hoặc nghe người làm những việc tốt, ta vui vẻ khuyến khích, chứ đừng
chê bai dè bĩu thì dù ta chưa làm được như người, nhưng công đức tùy hỷ
ngang bằng công đức của người đang làm các việc thiện ấy. Phật dạy phát
tâm tùy hỷ là để trị bệnh ích kỷ tật đố của con người. Thế nên chúng ta
phải tu tập. Đó là điều thứ hai.
Điều thứ ba, khi gặp nạn đừng bao giờ bỏ
nhau. Đây là một bài học luân lý. Như khi bạn đang trong đà tiến bỗng gặp
trục trặc, ta phải gần gũi thăm hỏi, giúp đỡ hoặc tháo gỡ phụ những khó
khăn với bạn. Vui cùng hưởng buồn cùng chia, cùng đi cùng tiến, đừng bao
giờ bỏ nhau. Trong cuộc sống rất cần những người bạn như vầy.
Con đường từ đây cho đến ngày thành Phật
xa xôi diệu vợi, không phải dễ dàng thực hiện. Nếu nói dễ là để khuyến
khích chúng ta có thể thực hiện được khả năng thành Phật của mình. Nhưng
làm sao gột rửa, chặt đứt hết dây mơ rễ má phiền não thật là thiên nan,
vạn nan. Cho nên việc chọn bạn cùng một lý tưởng hướng thượng, luôn hỗ trợ
trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc là điều hết sức cần thiết. Vì vậy hai mẫu bạn
thứ ba và thứ tư, tức là bạn như núi và như đất, chúng ta luôn trân trọng,
khuyến khích phát triển loại bạn ấy.
Phật tử chúng ta làm sao trong sinh hoạt
hằng ngày, tự mình thắng vượt được tất cả phiền não sai sử đồng thời tùy
hỷ tha thứ giúp đỡ bạn hữu cùng tiến tu, xây dựng lý tưởng giác ngộ giải
thoát hoàn bị. Điều này không phải dễ cũng không phải quá khó, chúng ta có
thể thực hiện được, nhưng phải đúng phương thức tùy theo ý chí, khả năng
và sự sắp xếp của mỗi người. Đó là chúng tôi nói lược qua phần thứ nhất
“Chọn bạn để tu”.
Đến phần thứ hai, chúng tôi nói những điều
kiện không thể thiếu của người tu. Nương theo những điều này chúng ta thực
hành công phu sẽ có kết quả tốt đẹp.
- Thứ nhất là phải có tâm tha thiết.
- Thứ hai đừng
bao giờ khởi nhị tâm.
- Thứ ba là
tin quả quyết vào pháp tu, vào việc làm của mình. Niềm tin đó phải được
xây dựng trên lý nhân quả.
- Thứ tư là biết tận gốc rễ sanh tử.
Chúng ta sẽ đi
lần lượt từng yếu tố trên.
1. Tâm tha thiết:
Người tu phải có tâm tha thiết cầu đạo. Do
tâm tha thiết ngày đêm không xao lãng, việc tu tập mới tập trung dẫn đến
kết quả viên mãn. Nếu chúng ta thực hiện được tâm này, dần dần tâm trí
tỉnh táo, không có gì khuấy động được mình. Nhờ sự tỉnh táo sáng suốt ấy
ta yên ổn tu tập. Ví dụ ta muốn thực hiện một giờ lễ Phật tụng kinh, nếu
không có tâm tha thiết, lễ Phật một hồi mỏi chân mỏi tay hoặc ngồi tụng
kinh lâu bị muỗi cắn, liền nghe bực bội, khó chịu không muốn lễ Phật tụng
kinh nữa.
Người tu không có tâm tha thiết thì không
thể thực hiện chí nguyện, lý tưởng của mình. Vì thiếu tâm đó ta rất dễ bị
lay chuyển rồi, bị động thì làm sao an ổn tu được. Như khi ngồi tụng kinh
hay tọa thiền, mình phải tập trung tư tưởng, nếu không mọi thứ chung quanh
ồn náo sẽ tác động đến tâm, chúng ta không sao yên tu được. Chỉ khi nào
tha thiết, quyết tử vào một việc, chúng ta mới gác qua mọi cảnh duyên lăng
xăng bên ngoài, giữ tâm yên định. Khi tâm có định tỉnh thì trí sáng suốt,
việc tụng kinh hay tọa thiền của chúng ta mới có kết quả.
Tha thiết nghĩa là chí thiết chí thành vào
một viêc mà thôi, không có việc gì khác. Ngay khi làm việc đó, dù có những
cản trở, bức xúc ta cũng vượt qua, cố gắng khắc phục được hết. Như vậy mới
thành công. Còn có chút gì e ngại nghi ngờ trong lòng, chúng ta sẽ thoái
chí ngay, không tiến được nữa. Đó là vì thiếu tâm tha thiết.
Phật tử đối với việc tu hành phải tha
thiết, đừng bao giờ tu lấy lệ. Ví dụ mỗi đêm quí vị có chừng nửa giờ tụng
kinh, thắp hương cho Phật, nếu không tha thiết việc làm ấy sẽ không đạt
chút kết quả nào, cụ thể quí vị không có chút định tỉnh, an vui trong sự
tu hành ấy. Dù làm một việc nhỏ thôi mà tâm thành tha thiết thì đều có kết
quả. Kết quả trong từng phút giây, từng tâm niệm an lạc của chúng ta.
Tâm an ổn, bất động trước tất cả những
cảnh duyên chung quanh, từ đó ta có thể thành tựu được đạo nghiệp của
chính mình. Cho nên tâm tha thiết là điều kiện tiên quyết để dẫn đến thành
công trong sự tu học của chúng ta. Thiếu tâm này dù người thông minh trí
tuệ đến đâu cũng dễ gãy đổ giữa chừng. Vậy nên quí Phật tử phải có tâm tha
thiết cầu tu học.
2. Không khởi nhị tâm:
Không khởi nhị tâm tức là làm việc gì chỉ
một việc đó, không có thứ khác xen vào. Người xưa khi tu tập, chuyên nhất
một việc là tập trung tu mà thôi, không để tâm dấy khởi niệm gì khác.
Chúng tôi xin nêu dẫn một số gương của các bậc cổ đức xưa tu hành, các
Ngài khắc phục tất cả những trở lực, khó khăn từ bệnh hoạn cho đến các
chướng duyên để đi đến thành công viên mãn.
Thiền sư Tịnh Lâm trước là một giảng sư
rất nổi tiếng. Sau một thời gian giảng pháp, khuyến hóa Phật tử hiểu đạo
tu hành, Ngài ngừng việc giảng dạy để tu. Nhưng do lúc trước giảng dạy,
tiếp xúc với Phật tử nhiều, nên khi ngồi yên lại có những khó khăn làm
chướng ngại, nhất là ngủ gục và tán loạn. Đây là hai thứ bệnh giống như
hai gọng kềm, sẵn sàng siết cổ người tu. Mình vừa yên một chút thì la đà
ngủ gục hồi nào không hay. Khi giật mình ráng gượng cho tỉnh thì đầu óc
nghĩ đông nghĩ tây, ngược xuôi chuyện năm trên năm dưới của thiên hạ, khó
có phút giây nào yên được.
Ngài Tịnh Lâm bị tình trạng ngủ gục làm mờ
mịt nên rất loạn tâm. Lúc diễn giảng không thấy điều này, nhưng khi nghỉ
giảng thì ma ngủ đến quấy nhiễu liên tục. Bấy giờ Ngài thấy gần chỗ mình ở
có một gốc cây to trườn mình ra ngoài, dưới đó là một hố sâu gai góc đá
sỏi lởm chởm. Với quyết tâm phải trị cho được bệnh ngủ gục, dù có bỏ thân
cũng không sao, Ngài trèo lên nhánh cây chìa ra ngoài hố, sắp đặt một chỗ
ngồi trên đó. Ngài tự lập thệ nguyện: “Nếu không trị được bệnh ngủ gục thà
rớt xuống hố chết còn hơn, sống chi mờ mịt không tỉnh táo sáng suốt để tu
hành gì cả”. Lập nguyện như thế rồi, Ngài lên đó tọa thiền. Bởi sợ hơ hỏng
rớt xuống tan xác nên Ngài ngồi rất tỉnh từ giờ này sang giờ khác, nhập
sâu trong chánh định, trí tuệ bừng sáng, phát minh tâm địa và ngộ đạo ngay
trên nhánh cây đó.
Người xưa đã tu tập như vậy, không lý gì
bây giờ chúng ta không thực hiện được. Chúng ta phải có quyết tâm, khẳng
định rồi thì tùy theo hoàn cảnh mà hạ thủ công phu, chớ không phải bắt
buộc chúng ta leo lên cây như Ngài mới thành tựu được sở nguyện của mình.
Ví dụ như chỗ tụng kinh của quí vị nóng bức, mồ hôi tuôn dầm dề. Không lẽ
mỗi lần mồ hôi tuôn ta bỏ tu sao? Phải tu. Nếu có thể sắm quạt máy thì
sắm, không sắm được thì dùng quạt giấy. Nhưng ngồi tu mà cứ quạt xoạt xạc
hoài không yên cũng khó coi, vậy thì ta khẳng định ngồi yên, chịu đựng
khắc phục sự nóng bực này, xem ai thắng ai. Nhất định làm sao cho tâm mình
được yên. Khi thắng được hoàn cảnh một lần rồi ta sẽ có đà tiến thủ, cứ
thế mà tu tiến.
Mỗi người tùy theo nghiệp tập của mình,
làm sao cố gắng tu tiến, cố gắng khắc phục mọi hiện tượng chung quanh, đó
là quyết tâm phải thực hiện cho bằng được lý tưởng của mình. Đừng vì bất
cứ một cảnh duyên, một lý do gì mà đạo tâm lui sụt, quí vị nhớ cho điều
đó. Sáng được việc của mình tức là thấy rõ ràng tất cả những hiện tượng
chung quanh không thật, thấy tất cả những gì lâu nay mình say mê đắm trước
đều không thật, hoàn toàn làm chủ, không bị động, không bị sai suyển đối
với tất cả pháp trần. Đây là người sáng đạo.
Một Thiền sư nữa là ngài Thông Đạt. Ngài
cắt đứt mọi duyên bên ngoài vào sâu trong núi Thái Bạch quyết tâm tu hành.
Uống nước suối, ăn rau rừng, tọa thiền liên tục, một lòng chuyên tâm tu
tập. Nhờ quyết tâm như thế nên chẳng bao lâu, ngài thắng phục được tất cả
hoàn cảnh chung quanh và thành tựu đạo nghiệp.
Chúng ta thấy rõ ràng mọi khó khăn không
thể làm chùn bước người có quyết tâm. Cho nên Phật tử trong đời sống bình
thường, dù khó khăn bao nhiêu, cũng không đến đổi không tu hành được nếu
ta quyết tâm. Chỉ sợ không quyết tâm thôi, nghe Phật pháp cũng nghe, hiểu
Phật pháp cũng hiểu mà quyết tâm hành trì thì chưa. Bởi thế nên chúng ta
tu hoài mà chưa thành tựu được gì hết.
Có vị đi chùa năm mười năm cũng chưa sáng
đạo. Năm nào cũng đi thập tự, cúng kiếng lung tung mà phiền não chẳng giảm
bớt chút nào. Bây giờ làm sao chúng ta có một khẳng định đối với việc tu
học của mình. Như vậy mới có cơ hội thành tựu đạo nghiệp. Thật ra việc tu
học không phải quá khó, nhưng cần có tâm trường viễn, kiên cố, nỗ lực hành
trì liên tục mới thành tựu được. Chúng ta có phước được thân người, có tất
cả những phương tiện cơm ăn áo mặc, bạn hữu, kinh sách, Phật pháp thế mà
tu không được là lỗi tại chúng ta.
Trên phương diện tu hoàn cảnh càng khó
chừng nào ta càng tiến chừng ấy. Quí vị đừng sợ, đừng đổ thừa tại ở nhà
con bận quá, hoặc vì công việc làm ăn con không có thì giờ tu. Phật pháp
bất ly thế gian pháp, nghĩa là ở đâu lúc nào ta cũng có thể tu được hết.
Với tâm khẳng định lúc ta làm việc là lúc tu. Tu như thế nào? Khi quí vị
bán một món hàng nào đó, chỉ biết món hàng ấy thôi, không nghĩ gì khác.
Đừng đưa cho người ta nửa chừng rồi lấy lại, nói thêm giá, trong đầu lung
tung không nhất định. Nếu có tâm như vậy là đã đánh mất cơ hội tu, mất sự
định tỉnh.
Chúng ta không hẹn thời gian nào mới tu
cả, vì vô thường đến bất cứ lúc nào. Chúng ta tu trong từng tâm niệm,
trong mọi hoàn cảnh. Nếu áp dụng như vậy tâm định tỉnh, ma buồn ngủ, ma
tán loạn đều trị được hết. Quan trọng mỗi vị tự khắc phục, tự nhìn lại quá
trình tu học của mình, làm sao được định tâm. Được thế rồi thì sáng suốt
dẹp được giặc phiền não. Người thiếu sáng suốt không cách gì trị giặc
phiền não. Ta không biết nó ở chỗ nào làm sao trị được.
Ví dụ lâu nay mình tưởng con mắt mình đẹp,
bây giờ có người nói con mắt mình xấu, tự nhiên giặc phiền não hiện ngay
đó liền. Hoặc lâu nay ta cho mình là người thật thà chân chất, bây giờ
nghe ai nói mình xảo trá thì giặc phiền não sẽ hiện ra ngay. Thành ra chỉ
cần người ta chơi xấu, đặt một trái mìn ở điểm yếu của mình thì phiền não
nổ ngay.
Chúng ta là Phật tử, đừng bao giờ dại dột
mắc lừa người, thả giặc phiền não cho nó sai sử mình. Phải tỉnh táo, làm
chủ để không bị đánh lừa. Người gạt được thì ta sẽ bị mất mình. Ví dụ tôi
đang ngồi đây nói chuyện với quí vị, bất ngờ đằng sau có tiếng nổ “đùng”.
Nếu tôi bình tĩnh tập trung nói chuyện thì vẫn ngồi yên, gương mặt bình
thản. Nhưng nếu nghe “đùng” tôi ngó lại, chạy băng ra ngoài thì điều tôi
nói bay theo luôn. Phật tử đừng bao giờ làm việc nhị tâm như thế, phải có
chủ đích đàng hoàng. Như vậy việc làm của mình mới tới nơi tới chốn.
Vị thứ ba là ngài Kim Cương Chiếu. Vị này
xuất gia năm 13 tuổi. Năm 19 tuổi vào núi Hồng Dương nương Hòa thượng Ca
Diếp tu tập. Ngài chuyên cần ngót ba bốn năm trường, không hề giải y áo.
Ngài dụng công tu tập như thế suốt thời gian dài, không có thì giờ hớt
móng tay, cạo râu nữa, chỉ chuyên tâm chú mục một việc tu thôi. Mọi sai sử
phiền não trong lòng tắt lịm nên Ngài thành tựu đạo nghiệp, sáng được việc
lớn của mình.
Chúng ta thấy tu hành như các Ngài làm sao
không thành tựu được. Còn mình chẳng những có thời giờ cởi áo, mà còn có
thời giờ nằm dài ngáy ngủ nữa thì Phật nào chứng minh cho, nói gì thành
tựu đạo nghiệp. Chúng ta có thể bỏ thời giờ dắt trâu đi chơi mông lung,
nghĩ chuyện năm trên năm dưới, nói hay dở tốt xấu của thiên hạ, nên việc
mình không sáng. Chủ yếu của người tu là phải sáng việc mình mới đạt đạo.
Muốn thế phải tập trung soi lại mình, trong nhà thiền gọi là phản quan tự
kỷ. Chứ còn rọi ra ngoài thấy việc thiên hạ thì mất mình, làm sao sáng
được việc lớn.
Tuy nhiên, trong cái quyết tâm chuyên nhất
ấy phải biết chừng mực hợp thời hợp lý mới thành tựu được. Nếu thái quá
hay bất cập đều dẫn đến phản tác dụng, chẳng những không được lợi ích mà
còn tai hại nữa. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu chuyện về thầy
Tỳ-kheo do phát tâm tu hành mãnh liệt nhưng không tiến được, Ngài đâm ra
thoái hóa. Như giờ chư Tăng nghỉ ngơi Thầy lại không nghỉ mà tu học, thiền
quán. Do tinh tấn tu tập thái quá nên thân thể Thầy nhọc nhằn sanh ra bệnh
hoạn. Từ đó Thầy thoái tâm Bồ-đề. Bấy giờ giọng tụng kinh của Thầy không
còn hay mà nghe áo não, buồn bã lắm.
Đức Phật nghe sự việc ấy nên gọi Thầy tới
hỏi nguyên do. Tỳ-kheo ấy trình bày với đức Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Con nhất định hạ thủ
công phu quyết liệt vì nghĩ rằng trong thời gian ngắn sẽ đạt được thánh
quả, nhưng bây giờ thân thể con kiệt quệ, tinh thần căng thẳng quá, không
muốn tu nữa.
Đức Phật hỏi:
- Hồi trước khi đi tu, ông thích trò chơi
nào?
- Bạch Thế Tôn! Trước khi tu con thích
chơi đàn cầm.
Phật hỏi:
- Khi dây đàn dùn quá thì âm thanh thế
nào?
- Bạch Thế Tôn, khi dây đàn dùn quá sẽ
không có âm thanh.
Đức Phật hỏi:
- Khi dây đàn căng quá thì âm thanh thế
nào?
- Bạch Thế Tôn, khi dây đàn căng quá nó sẽ
đứt và không thể phát ra âm thanh nữa.
Đức Phật hỏi lần thứ ba:
- Như vậy dây vừa phải thì âm thanh thế
nào?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn vừa phải thì
âm thanh thật tuyệt diệu.
Phật bảo:
- Này Tỳ-kheo! Tu hành cũng như thế, nếu
Thầy phát tâm mãnh liệt quá mà chưa thực hiện được, thân thể mỏi mòn bệnh
hoạn sẽ thoái lui vì giặc phiền não sai sử. Giống như dây đàn căng quá bị
đứt, không thể đàn được nữa. Dây chùn quá cũng không được, ví như Thầy cứ
nằm ngủ hoài mà muốn thành Phật, chuyện đó không bao giờ có. Giống như dây
đàn chùn quá không thể phát ra tiếng. Chỉ khéo dung hòa thôi, tùy thời tùy
lúc nỗ lực công phu. Thái quá vượt bực mà không có tâm trường viễn kiên
cố, sẽ không thực hiện được đạo nghiệp.
Cho nên người tu phải khéo điều hòa cuộc
sống, khéo sử dụng thân mong manh này thành tựu pháp thể kim cương thanh
tịnh đặc biệt của chính mình. Phật tử nên noi theo các kinh nghiệm trên mà
nắm vững phương thức tu hành, sao cho có thể thực hiện được đạo lý ngay
trong cuộc sống của mình.
3. Tin quả quyết vào pháp tu:
Chữ tin ở đây trước tiên là tin nơi mình.
Đức Phật đã từng nói “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều là Phật
sẽ thành”. Chúng ta tin nơi khả năng thành Phật của mình thì mới có thể tu
tập giác ngộ giải thoát. Song sự giải thoát đó phải được thực hiện ngay
nơi chính bản thân chúng ta. Cho nên nếu không tin mình thì không có cơ
sở, không có nền tảng để đạt được giác ngộ giải thoát.
Mỗi vị có thể chọn một pháp tu thích hợp
cho mình, song pháp ấy phải chân chánh, đúng như Phật dạy. Đã có pháp môn
tu rồi thì tin tưởng, dốc lòng giữ vững phương pháp ấy mà tiến tu. Không
nên nay theo pháp này, mốt theo pháp nọ, tu như vậy không bao giờ đạt được
kết quả mong muốn. Giống như người qua sông, muốn mau tới bờ nên đi hai
thuyền một lượt, kết quả là rơi xuống sông thay vì đến bờ sớm.
Chúng ta cũng vậy, như Phật tử chọn pháp
tu thiền ở đây thì cứ theo sự hướng dẫn của Hòa thượng, từng bước thực tập
tọa thiền theo thứ lớp Ngài đã chỉ dạy. Không nên nay tọa thiền, mai trì
chú, mốt niệm Phật. Như thế tâm sẽ tán loạn, không nhiếp niệm chuyên nhất
thì việc tu không có kết quả. Hơn nữa có đi sâu vào mỗi pháp môn, chúng ta
mới có kinh nghiệm sâu sắc và phát minh được những điều lý thú trong việc
tu tập. Từ đó mới có thể truyền đạt, giúp cho huynh đệ đồng tu cùng thăng
tiến.
Ngày xưa Thiền sư Pháp Thường sau khi được
pháp ở Mã Tổ với câu “Tức tâm tức Phật”, Ngài lui về núi Đại Mai ở ẩn. Một
hôm Mã Tổ sai người đến thăm. Ngài hỏi: “Gần đây Mã Tổ dạy người thế nào?”
Thiền khách đáp: “Phi tâm phi Phật”. Thiền sư Pháp Thường nói một cách quả
quyết: “Mặc cho ông già phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật”.
Người xưa đã có niềm tin kiên cố như vậy mới thành tựu được việc lớn.
Không như chúng ta nghe đâu tin đó, chẳng có lập trường gì cả, trách gì tu
hoài chẳng tới đâu.
Lại, trong đạo Phật niềm tin phải được xây
dựng trên lý nhân quả. Người làm lành nhất định được quả tốt, kẻ làm ác
chắc chắn sẽ chuốc quả xấu. Nhân quả tương tác qua lại trong nhiều đời,
song đều tuân thủ theo nguyên tắc này. Nhờ tin nhân quả, chúng ta mới
chuyển nghiệp, dứt nghiệp và không tạo nghiệp nữa. Còn không tin nhân quả
thì không thể chuyển nghiệp, dứt nghiệp. Không dứt nghiệp làm sao giải
thoát sanh tử được. Do đó Phật tử phải có niềm tin kiên định nơi mình,
đồng thời tin nhân quả thì việc tu tập chắc chắn sẽ thành tựu.
4. Biết tận gốc rễ sanh tử:
Người tu nếu không biết gốc rễ của sinh tử
thì khó tu lắm. Đây là vấn đề có thể nói trọng yếu nhất của chúng ta. Vậy
gốc rễ của sanh tử là gì? Gốc rễ của sanh tử là si mê phóng tâm chạy theo
thinh sắc, chạy theo mọi hiện tượng bên ngoài. Bây giờ muốn giải quyết vấn
đề sanh tử thì ta phải làm chủ được mình. Chỉ khi nào không chạy theo
những bóng giả bên ngoài, chúng ta mới dừng được sanh tử. Chính điều này
là chủ chốt của việc tu hành.
Trong nhà thiền dạy phản quan tự kỷ, nghĩa
là tự soi lại mình tự làm chủ lấy mình cũng chỉ vì một mục đích giải
thoát, chấm dứt sanh tử. Từ nhiều đời chúng ta cứ chạy theo bên ngoài. Con
mắt ngó ra chứ không bao giờ ngó vô, cũng ít ngó xuống nữa. Bây giờ làm
sao ta thấy được mình. Thấy thế nào? Thấy nghiệp tập, thấy thói hư tật xấu
của mình, thấy để sửa đổi chuyển hóa. Ví dụ như mình định nói người ta dở,
nhìn lại thấy mình dở hơn nên thôi không nói. Đó là tu, là chuyển nghiệp,
dừng nghiệp để đi đến dứt sạch nghiệp, giải thoát sanh tử.
Thành ra chủ yếu của việc tu hành là làm
sao soi lại mình, ta mới tu được, mới hết điên đảo. Nếu thấy mình còn dở
thì cố gắng phấn đấu lên, nếu thấy mình có gì hay thì lấy đó làm đà tiến
thủ tu tập, chớ không tự cao tự đại. Ví dụ thấy người kia bị chọc sân, họ
nổi khùng lên nói tùm lum. Do đó khi bị chọc sân mình cố gắng khắc phục,
cố gắng tự chủ không nói tùm lum, tức là khá hơn người kia rồi. Thấy khá
để tiến chứ không phải để tự hào vỗ ngực khen tôi hay hơn, như thế là thất
bại.
Thiền tông Việt Nam vào thời Trần, các bậc
vua chúa nước ta đã thực hiện pháp tu này, có những cách thức tu tập đạt
được kết quả cụ thể. Bây giờ chúng ta nên hướng theo các Ngài thực hiện tu
tập như vậy để làm chủ được mình. Khi đó đã được an ổn, tất cả những lăng
xăng lặng xuống hết thì trí tuệ phát sanh. Chừng ấy mọi dây mơ rễ má sanh
tử đều bị ta chém phăng, thong dong tự tại đi trong cuộc đời, tùy duyên
cảm hóa cứu độ chúng sanh, còn gì hay bằng!
Cho nên công phu soi lại mình là cẩm nang
để chúng ta đi đến giác ngộ giải thoát. Phật tử nếu thật tâm tu hành cầu
chấm dứt sanh tử đau khổ, nên đối trước Tam Bảo tha thiết phát trọng
nguyện: Nếu không rõ suốt việc sanh tử, không vượt khỏi cửa chư Tổ, thệ
không bỏ phương pháp mình tu hành.
Nhờ khẳng định như thế, chúng ta mới gắng
nỗ lực vượt cửa sinh tử, sáng được việc mình, phá vỡ tất cả nghi lầm, mê
muội từ nhiều đời. Việc này đòi hỏi tâm kiên cố, trường viễn của chúng ta.
Quí vị nhớ, nói là làm, không phải nói suông. Tất cả chúng ta là con Phật
đồng quy hướng về Ngài, quyết định như thế không bao giờ thay đổi. Có tâm
quyết liệt như thế mới mong chấm dứt sanh tử khổ đau.
Nói những lời
tâm nguyện tha thiết như thế, chúng tôi không chỉ nhắn nhủ với quí Phật tử
mà thật ra chúng tôi nói với chính mình nhiều hơn. Bởi chúng tôi cũng đang
trên con đường trở về với chính mình, việc dụng công phu còn trải qua
nhiều giai đoạn lắm. Nếu không phát đại nguyện ắt không thể thực hiện đến
ngày viên mãn.
Với tâm nguyện tha thiết này, cúi mong chư
Phật chứng minh, tất cả chúng ta đều thực hiện thành tựu sở nguyện của
mình. |