ĐUỐC THIỀN

Thích Nhật Quang

GẮNG TỈNH

Buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi sẽ nói về chủ đề “Gắng tỉnh”, nghĩa là gắng để mà tỉnh, tỉnh để mà tu. Vì chủ trương tu thiền là phải tỉnh táo, thiếu tỉnh là mê, mà mê thì bị nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, chịu khổ triền miên. Cho nên muốn thoát khỏi khổ sanh tử, chúng ta phải tỉnh tu.

Trong tất cả các sinh hoạt, người tu lúc nào cũng phải tỉnh, ý thức rõ mình đang làm gì. Ở đây Hòa thượng thường nhắc nhở chư Tăng phải tỉnh tỉnh, không được mê. Không mê tức là giác, giác chính là Phật. Phật là bậc toàn giác, chúng ta đi theo con đường giác ngộ của Ngài, trước tiên phải tỉnh giác, dần dần tiến lên phần giác rồi toàn giác. Đến được chỗ giác ngộ viên mãn là thành Phật.

Người tu nếu lòng chưa quyết, chưa khẳng định thì khó tỉnh lắm. Vì chưa quyết nên dễ bị cảnh duyên bên ngoài kéo lôi, chưa khẳng định nên khó tránh khỏi sự lui sụt. Kiểm nghiệm công phu hằng ngày, rõ ràng chúng ta rất hiếm khi tỉnh, cứ ngược xuôi điên đảo, tơ tưởng miên man không gián đoạn. Nếu có được chút tỉnh, cũng lẫn lộn sóng tư niệm lăn tăn, chớ không tỉnh thức trọn vẹn, vì vậy ta khó phát hiện được bản tâm của chính mình. Giả như có phát hiện được thì vọng tưởng cũng đã dẫn ta đi khá nhiều rồi.

Cho nên nói đến tỉnh là nói đến công phu tu hành. Người quyết liệt tu mới giữ vững được sự tỉnh thức thường xuyên. Chúng ta còn bị những duyên bên ngoài kéo lôi nên sức tỉnh yếu. Đôi khi mình ngồi sờ sờ đây mà niệm bên trong kéo lôi tận đâu đâu. Ví dụ tôi đang ngồi nói chuyện với quí vị, chợt bên ngoài có tiếng kèn, tiếng nhạc vang lên, nếu không tỉnh tôi sẽ chạy theo những âm thanh ấy. Do đó nội dung bài pháp hôm nay bị hỏng, bị lay chuyển bởi những tâm tưởng bên trong tôi hòa quyện theo các âm thanh bên ngoài. Như vậy buổi thuyết pháp xem như không thành công, chẳng những bản thân tôi mất chánh niệm mà quí vị cũng không có chút lợi lạc nào. Đó là tai hại của sự kém tỉnh thức, hay nói cách khác là kém công phu.

Người tu cả ngày lẫn đêm nếu không tỉnh giác, làm gì nói gì cũng không biết, thì đâu thể gọi là đệ tử của Phật. Bởi Phật là bậc giác ngộ, tỉnh thức hoàn toàn. Chúng ta là con Ngài, nếu không tỉnh được như vậy thì cũng tỉnh chút chút, chẳng lẽ mê suốt ngày suốt đêm sao! Từ sáng tới trưa rồi chiều tối, kiểm lại mình không biết đã làm gì nghĩ gì nói gì. Ta tiếp xúc, ăn uống, đi lại, giải quyết mọi việc chung quanh mà không biết mình là gì, tức là hoàn toàn mất tự chủ, thật tai hại. Bởi không tự chủ nên ta bị mắc mứu, bị kéo lôi, tâm không lúc nào an ổn. Đây là điều tối kỵ của người tu.

Vì vậy người tu thiền, trước tiên phải được hướng dẫn ngồi thiền. Ngồi thiền để làm gì? Để tập trung vào hơi thở, vào sự vận hành của thân tâm này, xem ta là gì? Làm sao để ta nhận lại chính mình, biết rõ mình, không lầm mình. Đó là mục đích chánh của người tu thiền. Nếu không nhờ phương pháp tọa thiền, thật ra khó mà nhận được mình là cái gì. Chúng ta nói mình sống, mình ăn, mình làm việc, nhưng mình là gì lại không biết, có tội nghiệp không? Trong thiền có từ “Ngã thị thùy?”, có nghĩa “Ta là ai?”. Hằng ngày chúng ta đi đứng, ăn uống, tiếp xúc, nói năng, hoạt động, làm tất cả các công việc mà không biết mình. Thưa, như vậy thì sự nghiệp tu hành của chúng ta đi tới đâu, chừng nào thành Phật, làm sao hết khổ?

Đó là điều mà không luận hàng xuất gia hay tại gia đều phải đặt ra như vậy. Không khi nào chúng ta dám đầu tư tiền bạc, công sức, thời gian vào một công việc mà mình không biết kết quả ra sao. Chúng ta tu hành nghĩa là bỏ hết sự nghiệp thế gian, vô chùa cầu thầy bạn chỉ dạy nhưng cuối cùng đánh mất mục tiêu của mình thì thử hỏi có phải quá phiêu lưu chăng? Quí Phật tử mỗi khi đến chùa lạy Phật, dâng hương cúng dường đều nguyện cho con hết khổ, gặp chánh pháp, thầy lành bạn tốt, tu hành đến nơi đến chốn, chứ không khi nào nguyện cho con gặp tà sư ngoại đạo, gặp toàn chuyện tào lao thiên đế gì gì đó… không ai nguyện lạ lùng như vậy. Chúng ta có sở nguyện đúng mà không thực hành để đạt được sở nguyện ấy, không có ý thức tự vươn lên mà phó thác hết cho thần thánh thì cũng đồng nghĩa với cầu nguyện sai lầm.

Thấy rõ được điều đó, chúng ta phải chủ động trong mọi sinh hoạt thường ngày, luôn lấy tỉnh thức làm công phu hàng đầu. Nếu tỉnh được, ta mới sáng suốt soi rọi vào bản thân và muôn sự muôn vật, thấy rõ bản chất của các pháp không sai lầm. Như thế mới không chạy theo chúng, không mất tự chủ, không bị kéo lôi. Kết quả tu tập nắm chắc trong tay, dù thời gian lâu mau không thành vấn đề. Không tu thì thôi, đã quyết tâm tu rồi thì nhất quyết phải thành Phật mới vừa lòng con. Chúng ta nỡ lòng nào sa đà để rồi buông cả cuộc đời mình ngược xuôi theo dòng luân lưu sanh tử. Chính các niệm tơ tưởng đó dẫn mình đi trong sanh tử, khiến ta mê muội không biết mình là gì. Cho nên mục đích ban đầu của việc ngồi thiền là đẩy lùi vọng tưởng, vén áng mây mờ che khuất tâm mình, ta mới có cơ hội nhận ra “Ta là ai?”.

 Tu hành mà không có định thì không làm sao có tuệ được. Không định không tuệ thì không thể giải thoát, không thể thành Phật. Tu bằng phương pháp nào, hình thức nào cũng phải có định tuệ, vì định tuệ là gốc của sự giác ngộ giải thoát. Cho nên ở đây chúng tôi nhấn mạnh bước đầu công phu của người tu chúng ta là phải gắng tỉnh. Nghiệm lại hành trạng của người xưa, không vị nào không nhờ công phu mãnh tỉnh mà thành tựu việc lớn. Các Ngài cũng phạm những sai lầm như chúng ta, nhưng các Ngài luôn kiểm nghiệm ngay từ đầu, trong những tâm niệm hết sức nhỏ, nên có sức mạnh cắt đứt hoặc hóa giải phiền não vô minh rất nhanh. Do đó các Ngài tỉnh, sống được với ông chủ và đảm bảo định tuệ hiện tiền.

Chúng ta bây giờ thông minh, học giỏi, hiểu biết nhiều nhưng tỉnh lực kém nên việc tu hành chậm tiến. Nói thì nói, đi thì đi, ăn thì ăn, ngủ thì ngủ nhưng mình không có ông chủ. Giống như nhà vô chủ, ai muốn vào đó làm gì thì làm, khách khứa tạp nham đủ thứ loại. Quí vị kiểm lại xem, có phải thế không? Ví dụ ta đang ngồi gõ mõ tụng Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, ngoài kia có người chửi mình là trâu bò gì đó, ta liền buông mõ nghe ngóng và miệng chửi lại. Đây là khách đầu trâu mặt ngựa tới khuynh đảo trong nhà rồi, ông chủ cũng chạy theo khách, hai bên ấu đả nhau một hồi, đuổi nhau chạy ra ngoài gây gổ cãi vã tiếp, trong nhà trống không, không có chủ. Thế là giặc khác lại áp vào, tiếp tục như thế mãi.

Bao giờ nghe những âm thanh trái tai, thấy những điều gai mắt mà ta vẫn bình thản, xem như những chuyện xàm, như gió như mây, không quan hệ gì đến mình, như vậy mới là ông chủ giữ nhà tốt. Nếu thường xuyên kiểm nghiệm như thế, chúng ta sẽ giảm bớt lượng khách xấu, nhiều khách tốt. Dần dần cả hai loại khách tốt và xấu đều mời ra khỏi nhà, trả lại sự yên tĩnh vốn có của căn nhà. Đó chính là lúc ta làm chủ được hoàn toàn.

Quí vị thử kiểm lại xem một ngày chúng ta gặp bao nhiêu khách phiền não? Cả núi phiền não. Việc tu hành chỉ là buông hết phiền não này, không có cách khác. Tu là để được an lạc, hết khổ, giác ngộ giải thoát chứ không ai muốn thành ma quỷ bao giờ. Nhưng trong lòng cứ hiện ma quỷ hoài là vì ta không tỉnh mà thôi. Cái khéo của người xưa là các Ngài kiểm được mình ngay từ gốc, không phải đợi đến tiếp duyên, đối đầu với các sự kiện bên ngoài mới kiểm nghiệm. Như vị giáo chủ của chúng ta, Ngài ngồi dưới cội Bồ-đề, lắng sâu trong thiền định, thấy rõ từng tâm niệm sanh diệt hư ngụy không thật, buông bỏ chúng hết. Từ đó tịnh tuệ tròn đầy, Ngài chứng được Tam minh Lục thông, giác ngộ viên mãn.

Hành giả tu thiền, khi gần đến phút giây viên mãn, ma quỷ hiện tới với những hình ảnh cha mẹ vợ con thân yêu, rồi thiên binh vạn tướng hung hăng dữ tợn đe dọa rất khiếp sợ. Đối trước những hình ảnh như thế, hành giả dùng định tuệ chiếu soi, thản nhiên điềm tĩnh, chỉ thẳng điểm mặt chúng, tự nhiên chúng sẽ run sợ thối lui. Hôm cuối cùng trước khi thành đạo, ma vương kéo tới hỏi Phật:

- Ông có sợ bọn tôi không?

Ngài đáp:

- Không.

Bọn chúng nói:

- Ông gạt bọn tôi. Chúng tôi đông đảo như thế này, gươm giáo như thế này, ông chỉ có một mình, mà dám nói không sợ.

Phật trả lời:

- Các ngươi đông nhưng toàn là giả, còn ta tuy một mình nhưng ta có cung thiền định, kiếm trí tuệ nên ta không sợ.

Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta thấy sự tỉnh giác cao độ của đức Phật như thế nào rồi. Sau đó chúng giả hiện tiên nữ, Da Du múa hát thoát thể quanh Ngài, nhưng đức Phật vẫn bình thường, không chút dao động, nhờ thế Ngài đã chiến thắng tất cả và thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Nếu là chúng ta liệu xem lúc đó mình bình thường hay không? Thấy hình ảnh dễ chịu thì ta muốn ôm giữ, thấy hình ảnh khó chịu thì ta bực bội muốn đuổi đi. Thế nên tối ngày ta ngồi ngoài cổng, khách nào thấy thương thì mời vô, khách nào thấy ghét thì đánh đuổi đi. Nhưng người mình ghét đâu phải đuổi họ đi dễ dàng. Ta giận ai rồi thì trong lòng cứ lôi kẻ ấy ra lải nhải hoài. Vì thế đức Phật mới dạy “Tăng hận bất cách túc” nghĩa là người tu giận không được quá một đêm. Người thế gian khó bỏ lắm, giận rồi thành hận, khắc ghi trong cốt tủy, chớ không chịu quên đâu. Năm mười năm gặp lại, cái giận cũng còn nguyên. Đó là gì? Là do không tỉnh, không có công phu tu hành.

Danh từ chuyên môn trong nhà Phật gọi sức tỉnh này là tỉnh lực, nghĩa là phải có sức mạnh để tỉnh. Phật tử tu pháp nào cũng được hết, chủ yếu đừng bị cảnh duyên bên ngoài kéo lôi, được thế là có tỉnh lực. Tu hành thật ra dễ chứ đâu phải quá khó, chỉ cần ta biết cách tu là được.

Điểm thứ hai chúng ta cần lưu ý là đừng bao giờ dùng ảo giác của mình để soi rọi bên ngoài. Vì như vậy ta sẽ bị nghiệp dẫn, sẽ thấy những đối tượng thế nầy thế kia, mất hết thì giờ tu hành. Người thật tu phải biết dành dụm thời gian, dành những điều kiện thuận lợi để tập trung cho việc tu của mình, làm sao được tỉnh thức, không bị các hiện tượng bên ngoài kéo lôi. Muốn thế không nên tin ảo giác của mình.

Xưa có anh chàng mất búa, sáng mai anh ra trước cửa ngồi, thấy bất cứ ai đi ngang anh cũng nghĩ là kẻ trộm búa của mình. Chúng ta cũng thế, từ vô lượng kiếp đến nay, trong tâm biết bao nhiêu vết thương đau nhói hoặc đã từng bị thiệt thòi, sứt mẻ gì đó. Cho nên từ mặc cảm đó cứ tạo thêm ảo giác, khiến ngày càng mất hết sự tỉnh táo, mất hết cái nhìn chân chính của người tu. Đó là nguyên nhân khiến chúng ta đánh mất sự tự tin nơi mình.

Phật thì khác, Ngài có cái nhìn bình đẳng, giản dị rằng tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành. Ngài không nhìn người này dễ thương, kẻ kia dễ ghét, mà tất cả đều là Phật, đều đáng trân trọng như nhau. Chúng ta nên nhớ trong vòng đối đãi của thế gian thì nhân vô thập toàn, không có ai hoàn toàn hết. Trong mười điều tốt, ta được năm ba điều là quý lắm rồi. Nếu chúng ta nhìn thẳng, nhìn bằng đôi mắt chân thật, không bị ảo giác làm mờ đi sự tỉnh táo sáng suốt của mình thì cuộc đời này tốt đẹp biết bao nhiêu.

Một người nào đó đi ngang nhà mình, ta nghĩ họ là kẻ trộm búa của mình thì dĩ nhiên phải để ý theo dõi, phải ngó trước coi sau, phải đóng cửa, mất hết thì giờ, còn tâm niệm tu hành gì nữa. Cuộc đời, sự sinh hoạt của chúng ta cứ bị những thứ đó chi phối thì mất hết yên vui. Cho nên người tu rất kỵ sống bằng ảo giác.

Trong giáo lý nhà Phật có môn Duy Thức, phân tích ba lối nhìn thế này. Một là nhìn theo “biến kế”, lối nhìn này rất nguy hiểm, luôn luôn toan tính nghĩ ngợi. Giống như người bị những vết thương hằn sâu do trật té nhiều lần nên thấy cảnh duyên nào cũng tránh né vì sợ. Chữ “Kế” là so đo tính toán, nhìn bằng con mắt so đo tính toán, tức là nhìn bằng ảo giác, không đúng sự thực. Người có đôi mắt như vậy thì phải tập luyện, chuyển hóa lại, nhìn cho đúng với sự thật. Nếu không sửa đổi, người ấy sống rất khổ vì cứ lo sợ theo những ảo giác. Duy Thức học nói “Biến kế sở chấp” là cái nhìn nguy hại, hoàn toàn sai sự thật, chúng ta nên từ bỏ lối nhìn này.

Hai là Y tha khởi. Với cái nhìn này, hành giả quán chiếu muôn pháp do duyên sanh, tạm có không thật. Người tu có cái nhìn như vậy, sẽ tăng tiến định lực rất nhanh. Một khi ta soi rọi được các pháp duyên hợp giả huyễn thì mọi vấn đề chung quanh không có gì đáng ngại nữa. Sự sinh thành, sự hoại diệt của nó đi theo một trật tự như thế. Ta không có năng lực gì dừng được chúng, ta không thể hất những gì mình không thích ra đường hoặc giữ mãi những gì ta thích trong vòng tay giả huyễn. Vì vậy đối với điều lành điều dữ ta luôn bình thản, mặc nó vận hành theo lý duyên sanh.

Trong một giai đoạn ngắn ngủi của kiếp sống này, sự giả hợp của thân ngày hôm nay, ta không biết nó sẽ ra sao, tốt xấu thế nào. Thấy ai tươi tắn thì mình nói người đó có phúc, thấy ai còm cõi thì nói người đó vô phúc, ta cứ đoán như thầy bói vậy. Bởi ta không thấy được xuyên suốt vòng nhân quả chằng chịt của chúng sanh như đức Phật đã thấy, nên khó chấp nhận những nghịch cảnh đến với mình. Bây giờ dùng con mắt Y tha khởi quán các pháp đều có nhân quả của nó, cứ thế mà gỡ ra, tâm sẽ dần ổn định.

Ổn định như thế nào? Biết rõ thân này duyên hợp giả huyễn, mọi thứ chung quanh mình cũng duyên hợp giả huyễn. Phật nói các pháp vô thường, có gì giữ mãi được, nên đặng không mừng mất không buồn. Bước đầu tu hành, chúng ta nên có cái nhìn Y tha khởi để không đắm chấp thân, tâm và cảnh. Đây là lối nhìn duyên sanh, không so đo tính toán như “biến kế”. Khi chúng ta đã có được cái nhìn không bị ảo giác chi phối thì sẽ phát huy được cái thấy như thực của các pháp. Thấy được lẽ thực rồi sẽ không còn lầm lẫn chân ngụy nữa. Đây là giai đoạn thứ hai, giúp chúng ta tiến lên được một bước nữa trong công phu tu tập.

Ba là “Viên thành thật”. Chúng ta trở lại câu nói của đức Phật “Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành”. Đó là cái nhìn chân thật, Duy Thức gọi là Viên thành thật. Bởi vì tất cả chúng ta đều có tính giác, cho nên tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. Chỉ khác nhau ở chỗ người nào phát huy được, đừng chạy ngược xuôi theo ngoại cảnh, quay về nhận và sống với tánh giác ấy thì sớm thành Phật. Người nào còn si mê chạy theo các pháp hư giả, bỏ quên tánh giác thì lâu thành Phật. Thế thôi.

Trong ba cách nhìn trên, trong giai đoạn đang tu tập, chúng ta nên chọn cách nhìn thứ hai. Bao giờ công phu thuần thục, định tuệ tròn đầy, tự nhiên ta sẽ bước sang cách nhìn thứ ba. Chừng ấy chúng ta sống hoàn toàn an vui tự tại, không còn bị các thứ biến kế sai lầm dẫn dắt hay  phải dụng công quán chiếu y tha khởi gì cả. Cho nên người biết nuôi dưỡng sự tỉnh giác đó là người có công phu. Nếu thiếu tỉnh giác dù tụng bao nhiêu kinh điển, ngồi thiền bao nhiêu năm vẫn không thể gọi là có công phu được.

Người đầy đủ sức tỉnh giác rồi, tất cả phiền não sẽ không làm gì được họ. Kinh Di Giáo dạy: “Phiền não như những con rắn độc ngủ ngầm trong thân ta, chúng nằm im đó đợi cơ hội để phá hoại mình”. Nếu là rắn độc mà nuôi dưỡng nó, thì ta là người tỉnh hay không tỉnh? Rõ ràng là không tỉnh rồi. Bao giờ ta đuổi được con rắn độc đó, vất nó ra ngoài thì mới yên ổn được. Chúng ta thường cứ đem hết thứ này đến thứ khác vào trong nhà, mà ít khi để ý tới rắn độc phiền não đang ngủ ngầm trong nhà. Vì vậy chẳng những ta không lo đuổi nó ra mà còn nuôi dưỡng vỗ lớn nó thêm nữa. Thế nên sáng, trưa, chiều, và ngay cả trong giấc ngủ hay lúc tu hành, lúc nào ta cũng bị rắn độc mổ vào đầu vào cổ tơi bời.

Ví dụ mình tính ngồi thiền một tiếng đồng hồ, nhưng mới mười lăm phút nghe đau chân, như thế là rắn độc bắt đầu mổ đó. Ta nghe bực bội, bức rức ngồi không yên, muốn xả cho rồi. Vì vậy nếu thiếu tỉnh giác chúng ta sẽ khó tu với những con rắn phiền não ngủ ngầm này lắm. Lúc đó ta phải phấn phát lên, biết rõ chân này là giả, không thật, đau thì đau nhất định không xả, thử coi nó có chết không. Quyết tâm như vậy, nó sẽ rút lui và khi ta chiến thắng một lần, thì những lần khác sẽ có niềm tin để tiến lên.

Chúng ta thường nuôi dưỡng những bất ổn, những tư niệm lăng xăng điên đảo trong lòng nên khó điều phục được chướng ngại bên ngoài. Khi gặp ngoại duyên cùng loại với tâm trạng bên trong là ta lao theo, mất mình nên tu hoài không thành Phật. Với người xưa, các Ngài hơn chúng ta ở chỗ đó. Khi tu các Ngài khẳng định phải tự chủ được mình nên đối với tất cả cảnh duyên bên ngoài các Ngài cũng làm chủ được, hoàn toàn tự tại. Chữ “tự tại” nghĩa là đối với mình không bị động, thì mọi vấn đề chung quanh không ăn thua gì cả.

Trong công phu tu hành chúng ta phải có được sức định tỉnh, chủ động mới được. Ta hãy xem mình như người đã chết thì không bao giờ mở mắt ra nhìn ai, mở miệng ra nói gì. Chừng ấy con rắn độc trong nhà mới chết tiệt, nó không làm trở ngại sự định tỉnh sáng suốt của mình nữa.

Chúng ta phải từng bước thực tập thế này. Ví dụ mình thích ăn bánh vào sáng sớm, nhưng hôm nay không có bánh chỉ có cơm, mình cũng cứ ăn, không đòi hỏi hay phiền não gì cả. Rồi ăn cơm trưa mình thích có canh, nhưng hôm nay không có canh, mình cũng cứ ăn, không cằn nhằn chi. Dọn thế nào ăn thế ấy, vui vẻ bình thường, như vậy có phải dễ thương không. Đó là ta sống tự tại rồi, không bị tập nghiệp kéo lôi. Đây chính là cách làm chết đi những con rắn độc ngủ ngầm trong nhà. Từ cái ăn cái mặc, ngủ nghỉ, tiếp xúc, làm việc, mọi sinh hoạt đều tập tự chủ như vậy là người có tỉnh.

Nếu xem như mình đã chết thì mọi nợ nần oan trái ngang đây cũng chấm dứt. Ta không cảm thấy buồn phiền hờn giận ai nữa. Những gì đã vay trả đời trước, bây giờ người ta đòi thì mình vui vẻ trả cho xong, không chạy trốn, không thán oán. Được vậy tất cả nghiệp tập sẽ dần dần giảm hết và cuối cùng dứt nghiệp, chúng ta không còn gặp nhau trong oán thù hay yêu thương ràng buộc mãi.

Xưa có một cư sĩ khởi niệm cản trở một Phật tử cúng dường cho thầy Tỳ-kheo. Nhưng rủi cho ông ta, vị Tỳ-kheo đó đã chứng A-la-hán, do đó ông bị hậu quả vô cùng nghèo khổ trong những đời sau. Vào thời đức Phật Thích Ca đang giáo hóa ở cõi Ta-bà, ông sanh trong một gia đình tương đối trung lưu. Nhưng từ khi bà mẹ mang thai ông, gia đình từ từ khánh kiệt, họ phải bỏ làng cũ đi nơi khác sinh sống.

Nhưng khổ thay, gia đình ông đến đâu thì dân cư vùng ấy bắt đầu mất mùa, làm nghề nào cũng thất bại. Dân chúng họp lại tìm nguyên do, cuối cùng họ phát hiện ra sự có mặt của gia đình ông, vì vậy cả nhà lại bị đuổi đi nơi khác. Cuối cùng cha mẹ ông cũng từ bỏ đứa con đã đem lại mối họa hoạn lớn này. Ông bị vứt bên lề đường, ruồi muỗi bu đầy. Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hóa độ ngang qua, thấy đứa bé thảm thương như thế mới đem về tinh xá Kỳ Viên độ cho xuất gia. Chú bé tu hành rất tích cực, hạnh kiểm rất tốt, nhưng có điều đi khất thực không bao giờ được ai cúng cả.

Thấy thế Tôn giả Xá Lợi Phất cho đi theo sau Ngài, nếu có người cúng dường sẽ cúng cho cả hai thầy trò. Nhưng oan nghiệp thật đáng sợ, có chú theo sau thì suốt buổi hôm ấy, chính ngài Xá Lợi Phất cũng không được cúng chút gì. Ngài bèn nghĩ ra cách khác, là để chú ở Tinh xá, Ngài đi khất thực đem cơm về chia cho chú. Nhưng khổ thay mỗi lần sư phụ đưa cơm tới, chú đói quá run rẩy làm đổ cơm hết, không ăn được hột nào. Cứ thế suốt thời gian tu hành không bữa nào được no, phải đành uống nước lạnh sống qua ngày.

Cuối cùng, khi thấy đệ tử sắp qua đời vì kiệt sức, ngài Xá Lợi Phất bưng bát cơm vừa khất thực được đứng trước chú ấy, nói rằng: “Ta là thầy của con, hôm nay duyên của con đã mãn, bát cơm này ta nhường lại hoàn toàn cho con. Hãy dùng cho thật no một bữa”. Nhờ đạo lực và bi nguyện của một bậc Thánh như vậy, ngài Xá Lợi Phất ôm bình bát đứng đó cho đệ tử dùng, không dám để xuống sợ nghiệp tập của chú làm bát cơm đổ hết. Do đó vị Tăng trẻ được ăn no một bữa, nỗ lực thiền quán và đắc quả A-la-hán trước khi lâm chung.

Chuyện tu hành thăng tiến, tăng trưởng đạo lực là chuyện đương nhiên, nhưng quả báo trước cũng phải trả cho xong. Tôi nói điều này để làm gì? Vì trong huynh đệ chúng ta cũng có những trường hợp các vị bị nghiệp tập như thế. Bây giờ không có ngài Xá Lợi Phất, chúng ta phải làm sao đây? Biết đây là định nghiệp của mình, chúng ta vui vẻ chấp nhận bằng một sự tỉnh táo, cộng thêm công phu tu hành tích cực, trả tất cả để được an vui giải thoát. Đây là một cách tu tập đòi hỏi chúng ta phải có trí tuệ và dũng lực mạnh mẽ.

Thầy Tỳ-kheo đó phải chịu một quả báo ghê gớm như vậy mà còn chứng quả, huống là chúng ta đâu đến nỗi như Ngài, vậy tại sao ta không thể tu được? Cho nên đừng đổ thừa thời mạt pháp khó tu. Thời nào cũng là chánh pháp hết, nếu chúng ta chịu tu, tu cho đúng. Biết được nghiệp tập của mình, nắm vững đường lối chủ trương, công phu tu hành rồi, từ đó thăng tiến vững vàng trên bước đường tu hành. Được thế nhất định sẽ thành tựu. Người xưa tu được như thế, dứt khoát chúng ta ngày nay cũng phải tu được như thế.

Người tu hành phải có tâm kiên quyết, phấn đấu khắc phục, tu mới thành công. Chúng ta nên nhớ không có sự thành công nào có giá trị mà không đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt. Tu hành cũng thế, đừng bao giờ ngồi đó đợi Niết-bàn, đợi giác ngộ, đợi giải thoát bay tới cho mình. Nếu ta không cố gắng khắc tỉnh, để ngày qua ngày, tuổi tác chồng chất, bệnh hoạn ập tới rồi chết. Chết mà không biết đi đâu, bởi vì không làm chủ được, không có tư lương, không chuẩn bị sẵn lộ trình, trước sau gì cũng bị nghiệp dẫn mà thôi.

Cổ đức dạy, kẻ tu hành đối với bậc Thánh luôn hổ ngươi. Hổ ngươi tức là hổ thẹn. Ta hổ thẹn điều đó các Ngài làm được, sao mình chưa làm được nên phấn đấu, cố gắng làm cho được. Lúc nào các Ngài cũng tâm tâm niệm niệm, dứt khoát phải thành tựu đạo nghiệp, không có lối khác. Nếu quyết tâm như vậy, chúng ta cũng sẽ thành công. Điều này mọi người phải tự thể nghiệm, tự phấn đấu tích cực, chứ không ai có thể thế cho ai được.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy người tu trong tâm không có phải quấy, không xấu ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại mới gọi là giữ giới. Thật ra những tâm ấy là cái tạp nham bên ngoài tới, chứ nguyên thủy tâm của ta rỗng rang sáng suốt, không có những thứ ấy. Nên tu là lọc bỏ những tâm tham lam, tật đố, xấu ác đó cho trong sạch trở lại chớ không việc gì khác. Dù người thọ 5 giới, 10 giới hay 250 giới đi nữa mà thiếu tâm tỉnh giác, không phấn đấu thanh lọc loại bỏ những thứ xấu, thì cũng không gọi là giữ giới.

Như Lục Tổ dạy tu là quay về sống lại với tánh giác của mình. Mà tánh giác thì thanh tịnh, không xấu ác, không phiền não. Bây giờ chúng ta thiền định như thế nào, tụng niệm như thế nào mà tâm xấu ác không còn là giải thoát, là giữ giới. Lục Tổ lại dạy “Thấy cảnh thiện ác, tự tâm không loạn” là định. Trong cuộc sống của chúng ta đây, đừng để ngoại cảnh kéo lôi tức là mình được định. Thành ra cái định của Lục Tổ dạy không phải là khó, trái lại còn dễ áp dụng nữa. Ngài không bắt mình phải ngồi thiền một hai tiếng đồng hồ hay sám hối 108 lạy v.v… mà đối với tất cả cảnh duyên không bị động, không loạn, không chạy theo, đó là định.

Với lối dạy trở về tự tâm, tự tánh của Lục Tổ, tất cả mọi người đều có thể áp dụng tu tập, không hạn cuộc chỉ hàng xuất gia mới tu được. Hàng cư sĩ tại gia đang trong cảnh duyên bận rộn, tiếp cận với cuộc sống thế gian mà tu được mới đáng quí. Có câu “Nhất tu thị”, thứ nhất là tu tại chợ, mọi thứ nhiễu loạn ràng buộc mà quí vị tu được là hay hơn chúng tôi rồi. Cho nên tu thiền không chạy trốn, không yếu đuối cầu khẩn, không lăng xăng ngược xuôi, mà ngay thực tại phải tỉnh, đừng lầm chạy theo bất cứ cảnh duyên nào.

Lục Tổ cũng dạy “Tự tâm không ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, không tạo các ác, tu tạo các điều lành mà không vướng mắc. Kính trên thương dưới, đùm bọc kẻ cô bần, đây gọi là trí tuệ”. Chúng ta thường mặc cảm mình không có trí tuệ, nếu không trí tuệ làm sao biết nhận định mọi thứ. Nếu không có trí tuệ, quí vị ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ không đến Thiền viện Thường Chiếu nghe pháp được đâu, vì làm sao biết đường mà đi. Nhưng đã đến đây được tức có trí tuệ rồi. Nhưng có điều chúng ta còn vướng mắc, cho nên trí tuệ bị lu mờ, giống như ánh sáng của mặt trăng bị mây dày phủ kín. Bây giờ làm sao chúng ta phát huy được trí tuệ ấy, cũng như vén áng mây mờ thì ánh sáng mặt trăng tự hiện.

Lục Tổ dạy vén những áng mây mờ đó như thế nào? Tự tâm không ngại, như ta đang học đạo tu hành mà bị điều gì làm chùng bước không tiến được là ngại. Những chướng ngại đó không phải khối đất hay cục đá nặng trước mặt, mà nó vô hình. Song lực cản của nó đôi khi cả đời ta không tiến được, ghê gớm thật.

Có nhiều Phật tử ban đầu tinh tấn đi chùa học Phật pháp. Bẵng một thời gian không thấy tăm hơi ở đâu, tìm hiểu nguyên do thì ra vị ấy làm ăn sa sút nên không đi chùa nữa. Đây là mặc cảm làm chướng ngại việc tiến đạo. Nếu người thật hiểu đạo, không quan tâm đến việc thị phi bên ngoài, miễn làm sao ta tu học được là an vui rồi. Cho nên những trở ngại như thế, suy cho cùng cũng tự ta tạo ra mà thôi. Tự mình làm khổ mình là căn bệnh muôn đời của chúng sanh vậy.

Thành ra Lục Tổ dạy phải dùng trí tuệ để san bằng mọi trở ngại. Chúng ta phải sử dụng sự sáng suốt của mình, tạo được sinh khí hòa hợp với tập thể, với cuộc sống cộng đồng thì sự tu mới không bị trở ngại. Là đệ tử Phật phải nắm vững cương lĩnh về sự hòa hợp. Thiếu hòa hợp là mất hết ý nghĩa quý báu của sự tu tập. Người không hòa hợp với tập thể là người cố chấp, bản ngã còn dày đặc, làm sao tu tập tăng tiến được. Hơn nữa nhờ nương tựa vào đại chúng, có người nhắc nhở hỗ trợ cho việc tu hành chúng ta bảo đảm an toàn, không sai lạc. Vì thế lợi ích của pháp hòa hợp trong nhà Phật rất lớn.

Nói về chấp ngã, tôi nhớ một câu chuyện thế này. Xưa có thầy  Tỳ-kheo được Phật tử dâng một bộ y quý, nên thầy khởi tâm đắm trước bộ y ấy. Chẳng bao lâu thầy mất, do tâm đắm trước này quá sâu nặng nên thầy sanh trở lại làm con rận trong chiếc y đó. Đức Thế Tôn biết nên Ngài dạy các thầy giữ chiếc y ấy lại, không phân phát cho chư Tăng theo thông lệ xưa nay. Đợi bảy ngày sau, Phật bảo đem chiếc y đó vào hương thất rồi Ngài thuyết pháp. Các thầy Tỳ-kheo ngỡ Thế Tôn thuyết pháp cho chư Tăng nghe, không ngờ Ngài nói pháp cho con rận trong y nghe.

Thế Tôn bảo: “Người tu không nên chấp trước thân này, hà huống là y áo. Bỏ cha bỏ mẹ tu hành, không nhà học đạo, cốt được định tuệ, giác ngộ giải thoát, vì sao lại ôm giữ chiếc y hư giả này để phải thác sinh vào loài rận như thế?” Nghe đến đây, con rận trong y bò ra, chẳng bao lâu sau nó chết. Nhờ phúc báu được nghe pháp của đức Phật nên thức tỉnh, vị Tỳ-kheo kia sau khi bỏ thân rận được sanh lên cõi trời, tiếp tục tu hành.

Chúng ta thấy tâm chấp ngã, ngã sở nguy hiểm như thế. Cho nên lời cuối cùng trong buổi nói chuyện hôm nay, tôi mong mỏi tất cả chúng ta hãy gắng tỉnh, cởi bỏ những gì mê lầm chấp trước, đừng bao giờ dùng ảo giác soi rọi chung quanh. Được vậy công phu tăng tiến vững vàng, dần dần định tuệ tròn đầy, nhất định quả giác ngộ giải thoát ta sẽ nắm chắc trong tay, không chạy đằng nào khác.

Kính chúc quí vị thành công.

]

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM