DẶN LÒNG THÔI LĂNG XĂNG
Buổi giảng hôm nay chúng tôi sẽ nói tập
trung về việc tu với đề tài Dặn lòng thôi lăng xăng. Đây chính là lời tự
hứa tự khắc không lăng xăng nữa để lo tu.
Trước khi đi sâu vào nội dung, chúng tôi
dẫn một đoạn kinh Phật dạy: “Ta không thấy một pháp nào mau lẹ như tâm. Nó
giống như khỉ vượn, một tay buông, một tay bắt, tâm không chuyên định”.
Đức Thế Tôn nói chưa từng thấy một pháp nào mau lẹ như tâm của mình. Tâm
này là vọng tâm, tức tâm vọng tưởng điên đảo, không phải tâm thật. Có thể
nói, suốt hai mươi bốn giờ, chúng ta thường sống với vọng tâm lăng xăng
điên đảo ngược xuôi đó. Đức Phật ví nó cũng như khỉ vượn, tay này bắt, tay
kia buông, không dừng được một phút giây nào hết.
Kiểm lại trong sinh hoạt hằng ngày của
chúng ta, quả thật lời Phật nói không sai. Vì thiếu trí tuệ, chúng ta
không nhận ra những vọng tưởng loạn động kia hư giả, nên chẳng những không
khắc phục được mà còn chạy theo nó. Theo đó mà ngôn hạnh, tư tưởng và hành
động của mình vấp phải sai trái, tạo nghiệp không tốt. Chiếu theo luật
nhân quả, hễ tạo nghiệp thì phải chịu quả báo, do đó chúng sanh thọ khổ
không có ngày thôi.
Nói đến đây ta càng ghi nhớ thâm ân của
các bậc thiện hữu tri thức, nhất là các bậc thầy đã trực tiếp chỉ dạy cho
mình con đường thoát khỏi nỗi khổ trầm luân. Nhờ các Ngài hướng dẫn chúng
ta mới biết cách dừng vọng tưởng, không chạy theo ngoại trần, làm chủ được
mình. Bởi nghĩ đến thâm ân này nên ta phải tự hứa với lòng mình “đừng lăng
xăng nữa”. Nói thế đâu có nghĩa là dừng được ngay. Hễ ngồi lại là nghĩ
chuyện trên chuyện dưới, chuyện tốt chuyện xấu, chuyện thương chuyện ghét…
trăm ngàn chuyện. Nếu là chuyện mình thích thì muốn ôm giữ, muốn được, nếu
là chuyện mình không thích thì muốn xua đuổi. Tóm lại, trong hai mươi bốn
giờ, làm việc, ăn, nghỉ, tiếp xúc, chúng ta đều bị cái thương ghét chi
phối hoàn toàn, không làm chủ được.
Cho nên Phật dạy, chúng ta phải quyết định
cho sự tu học của mình là làm sao tự chủ được những vọng động đó. Trước
hết ta phải lắng nghe các bậc thầy chỉ dẫn pháp tu, sau đó áp dụng những
chỉ giáo trên vào bản thân, nỗ lực khắc phục vọng tưởng của mình. Phật đã
nói tâm ta như khỉ như vượn, rất khó điều phục. Bởi vậy có nhiều Phật tử
tu đã lâu, nhưng rồi cũng than: “Thưa Thầy, sao con tu hoài không hết vọng
tưởng?” Tại sao như thế? Vì chưa quyết nên dễ quên. Ví dụ mình tự hứa sẽ
làm chủ, không chạy theo các cảnh nữa, đó là lúc bình thường. Nhưng sáng
nay vừa nghe người thân bị tai nạn, ta cuống cuồng lên, chẳng còn nhớ gì
đến tự chủ hay không tự chủ. Chuyện tu hành chi cũng gác qua, lo chạy
trước cái đã. Thế là xong, thua một keo nữa. Nên biết việc tu học không
phải dễ, rất khó, đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm, định tỉnh, sáng
suốt, công phu mới gắn bó với lời Phật dạy được.
Phật dạy “Tâm cũng như thế, tư tưởng trước
tư tưởng sau chẳng đồng, tâm xoay chuyển mau lẹ. Thế nên tất cả những
người tu hành đều biết rằng, kẻ phàm phu không thể quán sát tâm ý, chỉ
người tu mới thường hàng phục được tâm ý, khiến cho nó đi theo con đường
tốt đẹp”. Ở đây hợp pháp lại, Phật nói tâm chúng ta cũng như thế, tư tưởng
trước tư tưởng sau chẳng đồng. Nghĩa là trong từng phút giây, tư tưởng
thay đổi liên tục, vì nó là cái vọng động nên không thể đứng yên. Kinh
Lăng Nghiêm nói vọng tưởng là bóng dáng của tiền trần rớt lại trong tâm
ta. Phật nói chỉ người biết tu mới hàng phục được tâm và hướng tâm đi theo
con đường tốt đẹp.
Theo lời dạy của đức Phật, trước nhất
chúng ta phải hàng phục được tâm vọng động. Đây là một pháp tu chánh yếu,
quan trọng. Dù mỗi ngày ta có làm bao nhiêu việc mà tâm vọng động chưa
hàng phục được, thì cũng bị nó dẫn đi tạo nghiệp như thường. Chúng sanh
lẩn quẩn trong luân hồi là vì thế, không biết chừng nào mới dừng được. Chỉ
người quyết tâm tu, công phu thâm hậu mới có năng lực hàng phục được tâm
vọng động.
Hòa thượng dạy tất cả dấy niệm vọng tưởng
điên đảo, chúng ta buông đi, bố thí đi, đừng dính mắc, đừng chạy theo nó
nữa. Điều này không khác với đức Phật dạy phải hàng phục tâm. Tuy nhiên
chúng ta chưa thể một lúc thực hiện rốt ráo được. Vì vậy từng bước ta
hướng tâm về con đường tốt đẹp để dần dần thay đổi, quán chuyển, tu tập
cho hoàn chỉnh. Trong công phu, chúng ta tập trung làm chủ ở niệm thứ hai
cũng đã khó khăn rồi, huống gì ở niệm đầu, thường là thua thôi. Bởi vì
mình còn lao lự, lăng xăng ngược xuôi quá. Chỉ khi nào ta nhập định, hoàn
toàn tỉnh sáng, mới làm chủ được ở niệm thứ nhất.
Các Thiền sư sống làm việc, tất cả sinh
hoạt đều không ngoài công phu tu hành, duy nhất một việc đó thôi, nên các
Ngài mau sáng đạo, chóng thành tựu việc lớn. Ta đọc thiền sử của các Thiền
sư, vào đầu nói chuyện gì thì nói, tựu trung cũng chỉ chỗ đó, sáng được
việc lớn, nhận ra và sống với ông chủ của mình, không có gì khác hơn. Còn
chúng ta đang ngồi tu, nhưng nghe ai nói đến tên mình là tự động đi theo
liền, không đợi ai dẫn cả. Chúng ta có bệnh dễ quên việc chính của mình,
mà lại là bệnh nặng nữa chứ. Tu như vậy bao giờ mới thành tựu?
Bây giờ làm sao kéo về, nắm cổ đừng cho nó
ngược xuôi nữa. Sáng mai ngồi đó, ai đến nói gì ta cũng “Thế à”, được vậy
hy vọng khá hơn một chút. Gốc dẫn ta đi trong luân hồi sanh tử chính là
tâm vọng động không ngừng này. Nếu chúng ta tu mà chưa nhận ra nó thì
không thể nắm được đầu dây, không thể xoay chuyển vận mệnh của mình trong
vòng luân hồi. Phải khẳng định và kiên quyết vạch trần bộ mặt thật của nó
mới có thể chiến thắng kẻ giặc mưu mô xảo quyệt ngủ ngầm trong chính ta.
Như vậy hy vọng mới thoát khỏi luân hồi sanh tử.
Phật bảo cái lăng xăng điên đảo này đã
được tích tập từ nhiều đời kiếp, nên nó đã thành nếp tức là tập quán.
Nhưng sau đó Phật cũng chỉ cho chúng ta cách thức đổi sửa, tức là tu. Nếu
không, chúng ta cứ xuôi theo, mặc tình cho nó kéo lôi thì không biết đời
kiếp nào mới chấm dứt khổ sanh tử. Cho nên là người Phật tử, phát tâm đến
với đạo, có duyên học đạo, hành đạo, chúng ta phải nắm vững điểm này. Biết
được gốc gác rồi, ngay đó mà bứng lên, không nên chần chừ nữa. Bởi càng
chần chừ thì dây mơ rễ má càng nhiều, càng khó dẹp phá hơn. Vì vậy chúng
ta đã nói tu là phải tu cho đàng hoàng nghiêm túc, không thể nói chơi cho
vui. Quỷ dữ vô thường không thích giỡn với mình đâu, chúng nói đến là đến
thật đấy!
Ngày nay cuộc sống của con người càng văn
minh tiến bộ thì đầu óc họ càng lăng xăng điên đảo. Cuối cùng khi khoa học
lên đến đỉnh cao, con người lại muốn quay trở lại phút khởi thủy ban đầu.
Ví dụ hồi xưa ông bà mình giã gạo bằng chày bằng cối, dần dần người ta đưa
máy xay lúa vào. Thế là chày cối và đôi tay của người dân lao động coi như
lạc hậu. Song văn minh tới lúc hạt gạo được chế biến trắng tinh, bấy giờ
con người lại muốn ăn trở lại hạt gạo lức ngày xưa. Hỏi vì sao? Vì gạo giã
sạch quá không còn chất bổ dưỡng nữa, còn gạo lức là gạo giã sơ, lớp tinh
bột bổ dưỡng bên trong còn nguyên mới cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng.
Thật là một vòng luân hồi.
Phật Tổ dạy làm sao làm chủ được, sống với
tâm thể ban đầu của mình thì an vui giải thoát. Có thể đây là cái cũ kỹ
nhất của con người từ thuở ban sơ, cái nguyên thủy, cái bản lai gì đó
không biết, mà mình đã quên đi, rồi tưởng chừng như nó đã mất. Cũng như ăn
gạo lức cũng là gạo, nhưng biết đâu đó là phương pháp mà các Bác sĩ muốn
bệnh nhân sống lại với thời nguyên sơ, đừng chạy theo văn minh, bóng dáng
bên ngoài nữa thì sẽ khỏe mạnh hết bệnh.
Tóm lại, cách thức ứng dụng tu hành tuy
nhiều, có khi rườm rà nhiều phương thức nữa, nhưng cuối cùng hay nhất là
sống lại với tâm chân thật của mình, đừng lăng xăng như khỉ vượn nữa. Nhà
thiền thường nói sống lại với bản lai diện mục, tức là mặt mũi thật xưa
nay, không bị phủ lấp bởi bất cứ hiện tượng gì bên ngoài. Thật ra vì bên
trong ta có con khỉ nên bên ngoài kích động nó mới quậy phá theo. Chớ con
khỉ bên trong ngủ đi thì bên ngoài làm gì nổi ta. Cho nên Phật dạy sống
lại với tánh giác, tức là muốn con khỉ bên trong ngủ yên, đừng lăng xăng
nữa. Đôi khi sống như vậy hơi quê mùa, nhưng lại được bình an chân thật.
Phật dạy: “Nếu tâm nhơ nhiễm, làm các uế
ác thì tâm sanh bệnh, bị đọa địa ngục. Nếu tâm không nhơ nhiễm, không làm
các điều uế ác, tâm không bệnh thì sẽ được sanh thiên”. Cũng từ tâm thôi,
nếu để tâm bệnh, ô nhiễm tạo những điều uế ác thì bị đọa địa ngục. Nếu tâm
không bị ô nhiễm, không tạo những nghiệp xấu thì được sanh thiên. Vì vậy
mới có tu Thập thiện, tu Bát quan trai, hoặc giữ năm giới. Tất cả đều tập
trung làm sao đừng để tâm lăng xăng.
Có kệ rằng:
Như có một người,
Ôm tưởng sân hận.
Lúc ấy mạng chung,
Rơi vào địa ngục.
Mấy câu này giản dị nhưng đọc lên là thấy
sợ liền. Sợ cái gì? Bởi chúng ta dễ khởi niệm sân, rủi lúc đang sân mình
mạng chung thì những niệm tưởng đó sẽ là đường rầy kéo thẳng mình đi xuống
địa ngục. Không sợ sao được! Nên đức Phật nói, nếu ôm tưởng sân hận, ngay
khi đó mạng chung sẽ rơi vào địa ngục.
Kiểm lại sự tu học của chúng ta, rõ ràng
mình dễ rơi vào các nẻo tối tăm lắm. Nặng thì xuống địa ngục, ngạ quỷ, còn
nhẹ thì chui vào bụng loài súc sanh hoặc vơ vẩn ở cây đa, miếu cổ gì đó,
đói khát lạnh lẽo vô cùng. Đã lạc vào những chốn ấy rồi thì tiếp tục tạo
nghiệp nữa. Chỉ khi nào gặp được những bậc thầy giác ngộ khai thị cho, tội
nhân nhận ra buông được mới thoát kiếp khổ đau tăm tối. Cho nên phải biết
ba nghiệp tham sân si thật đáng ghê sợ!
Kinh Tứ Thập Nhị Chương có một bài đức
Phật nói về con rùa mù gặp cái bộng nổi. Bộng nổi đó thủy triều lên xuống
trôi ra biển, có con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Như vậy
làm sao làm sao biết lúc nào cái bộng trôi ngang ngang chỗ của mình mà
trồi đầu lên chui vô. Nghìn vạn lần may mắn lắm mới gặp được. Phật dụ
chúng ta được thân người cũng thế, như con rùa mù gặp cái bộng nổi kia,
lại được nghe Phật pháp, thật vô cùng hy hữu. Thân này giả tạm, sanh đây
chết kia, thay đổi ngày đêm, còn biển Phật pháp thì mênh mông, làm sao hội
đủ duyên lành khế hợp. Thế mà ta đã được thân người, lại còn gặp Phật pháp
là biết túc duyên nhiều đời. Vậy tại sao không chịu nỗ lực tu hành để vượt
biển khổ sanh tử, cam tâm trôi giạt mãi trong ấy. Cho nên Phật nói chúng
sanh si mê không gì bằng, thật đáng thương.
Bây giờ muốn hết si mê thì phải tỉnh táo.
Tỉnh táo để làm gì? Để biết rõ có niệm sân, đừng cho sân nữa. Đó là tu.
Phật tử nên hiểu không phải người tu không có sân, mà quan trọng là có sân
biết mình có sân, như vậy mới khắc phục dẹp trừ được. Niệm tham biết mình
có tham, si mê điên đảo vọng tưởng lăng xăng dấy khởi biết mình đang loạn
động. Biết rõ như thế mới làm chủ tình hình được. Nhờ nắm vững tâm trạng
đang thế nào, chúng ta mới có phương cách điều phục tâm. Biết rõ như thế
chính là ta đang giành thế tự chủ về mình, không để trần lao vọng tưởng
dẫn dắt. Đây là giai đoạn ban đầu trên đường trở về bản tâm chân thật, trả
quyền làm chủ lại cho “Ông chủ xưa nay” đã bị bỏ quên.
Phật dạy tiếp: “Tâm nhơ ác chính họ tự
gây”. Như trên đã nói, người ôm tưởng sân hận, khi ấy mạng chung rơi vào
địa ngục. Bởi tâm nhơ ác do chính họ tự gây. “Lại như có người sanh tâm
thiện diệu, người này mạng chung liền sanh lên trời. Do phước đã tạo từ
tâm trong sạch”. Ở đây có hai ý. Nếu người mang niệm xấu, tham sân phiền
não, ngay khi đó bỏ thân này thì sẽ bị niệm xấu dẫn đi trong các nẻo đường
tối tăm. Nếu người có công phu liên tục, tạo nhiều điều lành, ngay khi ấy
mạng chung sẽ được sanh lên thiên giới. Do phước nghiệp riêng của mỗi
người đã tạo, mà có quả báo tương ứng theo nhau.
Tóm lại, Phật dạy: “Nên phát tâm trong
sạch, chớ sanh những niệm quấy nhiễm, chính là biết tu tâm”. Những tâm nhơ
nhiễm, xấu ác, bệnh hoạn, đừng để nó dấy khởi, đó là một cách tu. Giả như
nó đã dấy khởi thì ta đừng để nó dấy khởi nữa. Nên phát tâm thiện diệu tu
tập đúng theo lời Phật dạy, hằng ngày tỉnh sáng nỗ lực công phu. Đó là
gắng gổ, siêng năng liên tục tạo cơ hội tốt nhất cho sự thành tựu đạo
nghiệp của chính mình.
Phần thứ hai ở đây tôi muốn nói là khi tâm
đã được tịnh hóa, đó là ta đang gần với tánh giác. Mục đích chánh của
chúng ta là làm sao sống được với tánh giác, với bản lai diện mục của
mình. Làm chủ được, sống được với cái đó mới an toàn trên hoạn lộ sanh tử.
Mê tánh giác là chúng sanh tạo nghiệp, trôi giạt trong luân hồi sanh tử,
không có ngày ra. Quay lại nhận tánh giác là biết trở về với ông Phật của
mình, không còn ngược xuôi trôi lăn nữa.
Nói tâm được tịnh hóa tức là một quá trình
làm chủ từ từ, để cuối cùng sống được với tánh giác. Chỗ này rất quan
trọng, là vì nếu còn ngược xuôi, chưa làm chủ được, có thể một phút nào đó
sơ hở ta bị rơi rớt trong các đường dữ. Những kiếp số trong ấy dài lâu vô
kể. Cho nên phải điều phục tâm lăng xăng mới tự cứu lấy đời mình ra khỏi
các con đường tối tăm. Nhận và sống được với tánh giác rồi thì dòng lăng
xăng ngược xuôi điên đảo sẽ dừng, như vậy mới an toàn. Việc này tuy khó
nhưng không phải không làm được, vì như chúng ta đã thấy có biết bao bậc
Tổ đã thành tựu việc này, ung dung tự tại đi trong sanh tử như dạo hoa
viên. Như vậy lo gì mình không thực hiện được nếu có quyết tâm.
Xưa có một Sa-di đến hỏi đạo nơi ngài Dược
Sơn. Vừa thấy Sa-di, ngài Dược Sơn liền hỏi:
- Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi
có biết chăng?
Sa-di thưa:
- Nước con an ổn.
Ngài Dược Sơn hỏi tiếp:
- Ngươi do xem kinh được hay do thưa hỏi
được?
Sa-di thưa:
- Con chẳng do xem kinh được, cũng chẳng
do thưa hỏi được.
Ngài Dược Sơn hỏi:
- Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa
hỏi, tại sao chẳng được?
Sa-di thưa:
- Chẳng nói họ không được, chỉ vì họ không
chịu thừa nhận mà thôi.
Bấy giờ Tổ mới thôi hỏi, vì đã hài lòng,
đã thừa nhận.
Thừa nhận cái gì? Thừa nhận cái an ổn của
Sa-di. Vị Sa-di này dám thừa nhận “Nước con an ổn” nên được Tổ chấp nhận.
Chúng ta vì không dám thừa nhận cái an ổn ấy nên cứ lăng xăng loạn động
hoài, vì vậy không thể nhận ra tánh giác của mình.
Người xưa đã khẳng định cho chúng ta biết
mỗi người đều có sự an lạc, đều có cái thanh bình thịnh trị, đều đầy đủ
tánh giác, có thể tự quyết định việc của mình. Nhưng vì ta chưa nhận ra,
chưa làm chủ được nên bị mất mình, lăng xăng theo ngoại cảnh và vọng
tưởng. Chúng ta có tánh giác mà không biết tánh giác là cái gì, ở đâu. Từ
chỗ chỉ vẽ của người xưa, ta nương theo đó tìm lại cái của mình. Trong
kinh Phật nói từ các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân này mà phát hiện
ra cái chân thật ẩn sâu bên trong. Nếu ta không lăng xăng thì nó hiện
tiền, còn lăng xăng thì mất.
“Chúng sanh bởi không dám thừa nhận tánh
giác của mình nên chạy cầu Phật bên ngoài, càng chạy càng sa lầy trong mê
lầm”. Chữ “Mê” có nghĩa là quên. Chúng ta biết mình có tánh giác nhưng mà
quên, rõ ràng có mới quên, chứ không có thì quên cái gì? Trong kinh Lăng
Nghiêm Phật nói người nhớ mình có tánh giác, bỏ quên những lăng xăng điên
đảo bên ngoài là người hợp giác, là người an lạc. Chúng ta không nhận tánh
giác của mình rồi chạy cầu Phật bên ngoài, không ngờ càng chạy càng bị sa
lầy trong mê lầm. Bởi vì Phật bên ngoài chỉ là đối tượng để ta thức tỉnh.
Trái lại ta không thức tỉnh mà còn mê theo ông Phật bên ngoài ấy nữa, tệ
hơn là lạy lục cầu xin ông Phật bằng đất vô tri ngồi trên bàn, trên tợ.
Như vậy có phải mê lại càng mê không?
“Chúng ta cần
phải thức tỉnh, nhận ra tánh giác của mình ngay nơi thân năm uẩn này, mới
thật là người đạt đạo”. Nhận được tánh giác hay nhận được pháp thân Phật
ngay nơi mình là người đạt đạo. Cho nên một Thiền sư Ni nói thế này: “Trên
đầu núi năm uẩn là ngôi nhà Phật pháp thân, ngày đêm hằng phóng quang ra
nơi sáu cửa. Nếu người khéo ngay nơi đây nhận ra tức Pháp thân khắp cả
mười phương”. Nguyên văn chữ hán là:
“Ngũ uẩn sơn đầu cổ Phật đường,
Tỳ Lô trú dạ phóng hào quang,
Nhược năng ư thử phi đồng dị,
Tức thị Hoa Nghiêm biến thập phương”.
Ý nói ngay nơi lầu năm uẩn này có Pháp
thân Phật thường phóng hào quang sáng suốt ra khắp nơi. Tức ngay nơi thân
bại hoại này có Pháp thân chân thật không sanh không diệt. Nếu chúng ta
nhận và sống được, thì pháp thân Phật thường phóng hào quang chiếu khắp
mười phương. Ngược lại ta cứ mê thân năm uẩn thì nó hành hạ mình khổ sở đủ
điều, trong đó bốn nỗi khổ cơ bản nhất không ai thoát khỏi là sanh, già,
bệnh, chết. Không cần phải nói, tất cả chúng ta ai cũng thể nghiệm qua bốn
nỗi khổ lớn này của một kiếp người.
Nếu chúng ta khéo nhận được ngay nơi thân
hư dối này có cái chân thật thì liền đó chấm dứt mọi khổ đau, tự tại giải
thoát trong hiện đời. Như lời vị Thiền sư Ni kia nói nơi thân năm uẩn này
là lầu đài của Phật Tỳ Lô Giá Na, tức Phật pháp thân, thường phóng hào
quang sáng suốt chiếu khắp mười phương. Nhưng người nào không nhận được
như thế thì bị trôi lăn, không biết đến bao giờ mới có thể dừng, có thể
tỉnh được.
Chữ “Mê” là quên, chữ “Giác” là nhận lại
thôi chứ không có gì lạ. Ví dụ như mê lộ là quên đường đi, có người chỉ
mình đi trở lại. Mê nhân là người không tỉnh, hay quên. Bây giờ giác là
tỉnh là nhớ trở lại. Thiền tông nhìn Phật qua tướng chân thật không sanh
diệt nên thấy Phật đã có từ vô lượng kiếp, tuổi thọ của Phật bằng tuổi hư
không. Ai biết được tuổi hư không bao nhiêu, hình dáng ra sao, không ai
biết được. Nói đến pháp thân Phật, tuổi thọ cũng như vậy.
Chúng ta mang thân này dù quý trọng bao
nhiêu, bảo hộ bằng mọi thứ phương tiện, nhưng đến lúc hết duyên nó không
chịu hợp nữa cũng đành phải bỏ thôi. Đâu phải bác sĩ, kỹ sư, bác học mà có
thể giữ được thân mình không chết. Ai rồi cũng phải chết. Một bằng chứng
cụ thể như Đức giáo chủ của chúng ta là Phật Thích Ca, đến 80 tuổi Ngài
cũng đau lưng, rồi thị tịch như mọi người. Nghĩa là những gì có hình thức
đều phải hoại diệt.
Chúng ta thấy Phật Bồ-tát đứng trên hoa
sen, mặt tươi cười, tay dịu dàng cầm bình cam lồ, nhành dương liễu rưới
xuống một chút là bao nhiêu lửa sân hận của chúng sanh tắt ngủm hết. Đó là
do đâu? Do công đức và tâm thuần tịnh của người đã thật sự sống an ổn. Nhờ
tâm an ổn, mới toát ra được những cử chỉ thế đó. Chứ nếu như chúng ta, tâm
luôn bất ổn cầm tới bình cam lồ thì bình cam lồ rớt bể, đụng tới nhành
dương thì nhành dương gãy. Bởi tay chân ta luôn bị tâm lăng xăng dao động
chi phối điều động nên đâu thể dịu dàng nhẹ nhàng như Phật, Bồ-tát được.
Lâu đài năm uẩn có Pháp thân sáng suốt
đang phóng hào quang mà ta không nhận và dùng được, để cho quỷ quái tăm
tối quậy phá trong đó thì thật uổng biết chừng nào! Đó là điều chúng ta
phải lưu tâm thực hành. Có chuyển hóa được những phiền não trong lòng thì
công phu mới tăng tiến. Cho nên Hòa thượng nói người biết tu có thể tu một
ngày bằng người không biết tu, tu ba tháng hoặc một năm. Người không biết
tu cứ bị cái này cái kia quấy rầy rồi bực bội, lăng xăng. Trong khi người
biết tu mọi thứ yên lắng hết, giống như giọt nước cành dương của Bồ-tát
Quán Thế Âm rưới lên thì bao nhiêu lò lửa tắt ngủm.
Tóm lại nếu chúng ta trở về với ông Phật
của mình, sống lại với tánh giác, thì những bệnh hoạn, mất mát, phiền não
ngay nơi thân này không thể chi phối ta nữa. Biết được như vậy, sống được
như vậy, tu tập như vậy tức là người “Bội trần hợp giác”. Nghĩa là người
xoay lưng với trần cảnh bên ngoài, loại bỏ nó ra để trở về hợp với tánh
giác, sống với tánh giác của mình.
Thời đức Phật còn tại thế, có một thầy
Tỳ-kheo siêng tu khổ hạnh trải qua thời gian dài, nhưng dục lậu vẫn không
sạch, không thể giải thoát được. Một hôm thầy nghĩ: “Mình được gặp đức Thế
Tôn, học pháp, tu tập như thế này mà dục lậu không dứt, thật vô ích. Chi
bằng trở về thế gian tạo lập tài sản, gia đình, làm người cư sĩ hộ pháp
còn có phước hơn làm Tỳ-kheo mà không được lợi lạc nào. Như thế may ra
không bị rơi vào các đường tăm tối”.
Ngay khi thầy khởi lên tâm niệm thối thất
như thế, đức Thế Tôn biết được, Ngài thị hiện đến đó, ngồi kiết già trước
thầy Tỳ-kheo rồi hỏi:
- Có phải ông vừa khởi lên những niệm như
thế, như thế…
Vị Tỳ-kheo đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn con đã khởi
những niệm ấy.
Bấy giờ đức Phật mới nói:
- Nay ta hỏi ông, ông tùy đáp lời ta. Này
Tỳ-kheo, như lúc ở ngoài đời ông giỏi về việc gì?
Vị Tỳ-kheo thưa:
- Bạch Thế Tôn, con giỏi về đánh đàn.
Đức Phật tuần tự hỏi:
- Khi lên dây đàn căng quá thì thế nào?
- Bạch Thế Tôn, khi lên dây đàn căng quá
thì nó sẽ đứt, không thể đánh được.
- Khi dây đàn dùn quá thì thế nào?
- Bạch Thế Tôn, khi dây đàn dùn quá thì
đánh không kêu.
- Khi dây đàn không quá căng cũng không
quá dùn thì thế nào?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn không quá căng
cũng không quá dùn, vừa vặn khít khao thì tiếng đàn sẽ du dương thánh
thót, rất hay ạ!
Bấy giờ Phật dạy:
- Cũng vậy, người quá tinh tấn cũng như
dây đàn quá căng sẽ đứt, không thể đánh được. Ông do tu khổ hạnh nhọc nhằn
quá nên sanh mệt mỏi, vì vậy không thể tiếp tục tu tập được nữa. Còn giả
như giải đãi thì phóng túng buông lung rơi vào tà kiến, giống như dây đàn
dùn đánh không kêu. Muốn tránh khỏi hai bệnh này, tốt nhất quân bình việc
tu học vừa chừng. Như vậy công phu tu tập sẽ tăng tiến đều đặn, không thối
thất mà kết quả lại tốt đẹp.
Sau khi nghe Phật chỉ dạy như thế rồi,
thầy Tỳ-kheo kia sửa đổi lại cách tu tập, chẳng bao lâu chứng được
A-la-hán, thành tựu đạo quả tối thượng.
Câu chuyện trên không chỉ dành cho thầy
Tỳ-kheo thời đức Phật, mà chúng ta cũng thế. Làm sao quân bình điều hòa
cuộc sống, việc tu học và sinh hoạt hợp thời hợp lý, giữ tâm không buông
lung và một sức khỏe tương đối mới có thể tiếp tục con đường tu tập dài
lâu. Chúng ta phải hiểu mục đích chính là nhận ra được tánh giác của mình,
thành tựu cuộc sống tự tại giải thoát, thoát khỏi mọi dục lậu thế gian.
Điều này cần phải có trí tuệ và tâm kiên cố, trường viễn mới thực hiện
viên mãn được. Không nên khi quá siêng năng, lúc lại lười biếng, tu như
vậy sẽ không dẫn đến kết quả gì đâu.
Qua câu chuyện trên chúng ta cố gắng tạo
cho mình nếp tu hành tỉnh giác trong từng phút giây, không nên quá thiên
lệch một bên. Từ sự tỉnh giác ấy, dần dần ta làm chủ được mình, nhận và
sống lại với tánh giác. Chúng ta là con Phật, được học những kinh nghiệm
của Phật, của chư Tổ sư trước. Các Ngài đã đi con đường này và thành tựu
như vậy. Đây là điểm tựa đáng tin cậy cho chúng ta, đồng thời cũng tạo
niềm phấn khởi trên bước đường tu hành của mình. Song điều quan trọng nhất
là mỗi người phải tự nỗ lực, tự khắc phục những bất an bất ổn trong lòng.
Có thế ta vừa không cô phụ mình mà cũng không cô phụ công ơn các Ngài.
Người đi trước
kẻ đi sau, tất cả chúng ta đều là bạn đồng chí đồng hạnh, nên nâng đỡ nhắc
nhở nhau cùng tiến “Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con”. Với tâm niệm ấy,
mong tất cả chúng ta nghe nhận cùng quyết chí, phấn đấu tu tập cho đến
ngày viên mãn. |