DÈ
DẶT NHỮNG CỐ CHẤP
Như tất cả chúng ta đều biết trong công
phu tu hành, dù cho ta hết lòng thành khẩn, chí thiết nỗ lực tu hành,
nhưng luôn luôn có những vướng mắc, phiền não tồn đọng bên trong, tương
ứng với những lăng xăng bên ngoài. Từ đó lòng chúng ta không yên. Bởi lòng
không yên nên tu không tiến. Tu không tiến thì dễ đi đến bỏ cuộc. Cho nên
chúng ta phải làm sao lắng dịu hết những vọng tưởng bên trong. Đó cũng
chính là nội dung chúng ta cần bàn bạc hôm nay: Dè dặt những cố chấp.
Trước hết chúng ta phải biết thế nào là
sức phấn đấu. Bởi vì bất cứ ai muốn vươn lên cũng cần phải phấn đấu. Phấn
chấn để vượt qua, để thăng tiến. Nếu chúng ta không phấn đấu thì xem như
dậm chân tại chỗ, và sẽ không làm gì được đối với tất cả những cảnh duyên
chung quanh. Thật ra cảnh duyên bên ngoài không nói gì với ta cả, chỉ lòng
mình không thì tự có chướng ngại. Nó là trở lực, là vướng mắc khiến chúng
ta không nhảy vượt qua được nên công phu thoái dần thoái dần.
Năm tháng chồng chất, không dừng lại bao
giờ. Nhưng chúng ta vẫn cứ nằm đó mà chờ, ít ai nghĩ đến việc chuẩn bị cho
mình trước sự cố bất ngờ này. Bây giờ các khoa học gia, các nhà nghiên
cứu, các bác học rất sợ những tảng băng hà đang trôi nổi trong không gian
này. Vì nó đụng vô quả địa cầu một cái là tất cả trở thành tro bụi. Quí vị
thấy thế gian này mong manh đến cỡ nào? Thế mà người ta vẫn bình thường,
vẫn chấp nhận, vẫn dễ duôi để ngày qua ngày, không chuẩn bị tinh thần gì
hết. Chư Tổ ngày xưa thường nói người xuất gia thấy được đạo lý, quyết tâm
tu thì một ngày một giờ một khắc một giây của họ có giá trị lớn lao vô kể.
Còn những ai lơ là qua ngày, sống tiêu cực thì mãi sợ sệt lo lắng, đủ thứ
việc trên đời, nhưng chả tới đâu hết. Vì vậy chúng ta phải khắc phục, phấn
đấu làm chủ được mình để đứng trước vô thường ta có hướng đi, không sợ
hãi.
Những vọng tưởng nhớ nhớ thương thương,
rầu rầu bực bực trong lòng không chỉ ra được, nhưng nó có một sức mạnh lôi
kéo con người ghê gớm lắm. Ăn thấy không ngon, ngủ cũng mơ mơ, thấy mây
thấy trời gì cũng không biết. Thưa quí vị trong trường hợp này, chúng ta
phải làm sao? Phải có thái độ dứt khoát. Dứt khoát thế nào? Chư Tổ dạy:
“Coi như mình đã chết”, coi như thân này đã chết thì yên.
Chúng ta hãy nghe ngài Động Sơn trả lời
với mẹ Ngài: “Mẹ hãy xem như hồi đó mẹ không có sanh con và bây giờ mẹ coi
như con đã chết rồi… Con nguyện dốc lực tu hành sáng đạo để đền đáp lại
thâm ân của cha mẹ”. Theo gương Tổ sư, chúng ta bây giờ phải phấn chấn cho
mặt trời trí tuệ sáng rực lên, cố gắng buông bỏ những vọng tưởng lăng xăng
bên trong, tự khắc tự hứa sẽ kiên quyết tu hành sáng đạo để đền trả tứ ân.
Nói đến cảnh duyên thì không biết bao
nhiêu cảnh duyên mà kể. Cảnh nào cũng có thể kéo lôi chúng ta được hết.
Đừng nói chuyện gì lớn, như đang ngồi đây học pháp vui vẻ, có ai lại nói:
“Chị ơi! Nghe đâu miền Tây gạo lúa tiêu hết rồi, mai mốt không mua ra một
lít gạo”. Thế là trong lòng hoảng rồi, chạy ra quán tiệm mua gạo mốc gạo
meo, người ta bán năm đồng ba đồng gì cũng ráng mua, không có tiền cũng
tìm cách mua cho được vài lít đem về đổ vô khạp. Bởi vì mình sợ chết. Rõ
ràng những chuyện không đâu cũng đủ kéo mình làm các việc không chính
đáng. Cho nên thực hiện được sự tỉnh thức, làm chủ được mình như các Tổ
dạy khó lắm.
Thiền sư nói “giết người không ngó lại”,
đây mới là tư cách của một hành giả tu thiền. Đó là khí phách của những
bậc có đại lực lượng, còn chúng ta không được như thế, nhưng ít ra cũng
phải dừng bớt những xao động do tác động bên ngoài mang tới. Nếu chúng ta
cứ bị động, bị quấy rầy bởi những sự kiện chung quanh hoài thì công phu
không thể nào tiến được. Theo đó các phiền não lỉnh kỉnh trong lòng không
bao giờ hết được. Hòa thượng Viện Trưởng thường dạy chúng ta phải biết
thương mình, tích cực vượt qua những khó khăn, vượt qua vực thẳm vô minh
phiền não để tăng tiến công phu.
Trong đạo Phật có danh từ “Kiến chấp”.
“Kiến” là những nhận thức của mình, cái thấy của mình. “Chấp” là nắm lại,
như nói chấp thủ là hai tay nắm lại. Nắm lại thì trái với buông ra. Kiến
chấp là nắm chặt cái thấy của mình, nói rõ hơn là cố chấp những gì mình
thấy mình nghĩ là đúng. Người tu hành mà cố chấp như vậy là bệnh. Như bây
giờ chúng ta tu học, nghiên tầm truy cứu lời Phật dạy, những phương thức
chư Tổ chỉ lại cho mình tu hành. Nghiên tầm như vậy để làm gì? Để tiêu trừ
những tạp niệm, loạn tưởng vướng bận, cù cặn trong lòng. Đã thế mà chúng
ta còn cố chấp những hiểu biết của mình, khác nào chứa đồ độc trong nhà,
càng nguy hại cho mình thêm. Nguy hại thế nào? Như ta học Phật pháp là để
trị tâm bệnh của mình, chứ không phải học Phật pháp để nói chuyện trên
trời trên mây, nói cho người này người kia nghe mà bản thân mình không ứng
dụng được gì cả. Đó là một nguy hại lớn.
Cho nên ở đây nếu chúng ta thật tâm thương
mình, vì đời tu của mình thì đối với bất cứ điều gì, pháp gì, vấn đề gì
của Phật Tổ dạy là do các Ngài đã thể nghiệm, đã chứng thực, đã thấy được
tột cùng thật lý của nó, đã sống tự tại giải thoát nên mới truyền dạy lại
cho chúng ta. Bây giờ mình muốn được tự tại, giải thoát, an vui thì phải
theo sự chỉ dẫn đó, dẹp tất cả những kiến chấp cứng chắc lâu nay. Muốn trở
thành bậc đại lực lượng, không gì khác hơn là chúng ta phải tiêu dung hết
phiền não, tự trị liệu cho mình. Có thế mới thấy được giá trị thiết thực
của Phật pháp. Không tiêu dung những thứ lăng xăng ấy thì mình dễ bị ngoại
cảnh kéo lôi, dễ tào lao lắm.
Tôi nhớ thời còn đi xe than, đón xe cực
lắm. Hôm ấy có duyên sự tôi phải đi đâu đó. Trên đường về ngồi chung một
chuyến xe, có ông già tìm xã Phước Thái. Hình như ngày xưa ông ở đây, bây
giờ đi lâu quá, trở về không nhớ chỗ cũ. Nghe ông hỏi mấy người ngồi cạnh
về xã Phước Thái, họ trả lời trật lất trật lơ. Tôi nghĩ mình thầy chùa xen
vô chuyện của người ta làm chi nên nín thinh. Nhưng cuối cùng chịu không
nổi tôi cũng mở miệng nói. Biết chuyện này đối với mình không ăn thua gì,
ban đầu đã dùng dao bén chặt rồi, nhưng chẳng hiểu sao nó nối lại hồi nào
không biết, cuối cùng tôi lại mở miệng. Ông già nghe tôi nói, thế là từ
bên kia ông sáp qua ngồi gần tôi. Hỏi hết chuyện này chuyện kia về Phước
Thái rồi, ông bắt đầu dẫn tôi khui ra Thiền viện lúc này ra sao, còn làm
rẫy không? Thế là chuyện cuộc sống, những mối quan hệ với ai với ai, tự
nhiên được khui ra hết. Cả tiếng đồng hồ như thế, tới hồi gần xuống xe,
tôi giật mình “Ủa! Nãy giờ mình bị ma ốp quỷ dẫn đi đâu mất tiêu, không
tỉnh giác tí nào hết trơn”. Thì chuyện đã rồi.
Tình trạng này, dường như suốt cả đời tu
chúng ta đều vấp phải như vậy, khó thoát ra được. Thế nên Hòa thượng
thường hay nhắc nhở chư Tăng: “Mấy chú đừng có tào lao, chuyện của người
ta để cho người ta, mình lo chuyện tu hành của mình thôi”. Ngài dạy thật
đúng, chúng ta dễ bị tào lao lắm.
Chúng ta không tiêu dung được những vọng
tưởng của mình thì sẽ ôm giữ nó mãi, lâu ngày thành ra kiến chấp. Đó là
điều đương nhiên thôi. Nói đến từ “kiến chấp” tôi tưởng tượng giống như
người đã qua sông mà quá mến tiếc chiếc bè, nên rồi cố vác chiếc bè trên
lưng đi trên đất bằng. Ứng dụng Phật pháp chân chính để trị bệnh cố chấp
cho mình là một người biết tu, thật tu. Ta phải biết thương ta, phải khẳng
định công phu hằng ngày tiến hay thối, có trị được bệnh hay chưa. Đừng
nhìn vào chuyện của người, hãy lo cho mình cái đã.
Thưa quí vị, nếu chúng ta biết quan tâm
đến mình, tu hành như thế không lâu, chắc chắn sẽ được an ổn. Ví dụ mình
ngồi thiền, nghĩ chuyện hồi sáng hồi chiều, chuyện ngày mai ngày mốt sẽ
thấy tâm lao lự, lê thê. Bây giờ vừa khởi lên một niệm nào, ta cắt đứt
liền thì an lạc ngay tức thì. Đó gọi là Niết-bàn vô trụ xứ, Niết-bàn mà
không có ngôi vị, chỗ nào cũng có thể đạt Niết-bàn này hết. Giữa trời
nắng, một em bé mặc quần đùi, chân đạp đất, đầu trần cầm một khúc bánh mì
ăn ngon lành. Nó nói chuyện huyên thuyên với bạn bè, lòng vui vẻ, bởi nó
không nghĩ ngày mai trong nhà hết gạo, không nghĩ chuyện gì hết. Bây giờ
nó ở đây đang ăn bánh mì, nó có không gian lớn lao nên nó có tất cả sự an
lạc. Ta có thể gọi em bé đang sống trong Niết-bàn hiện tại.
Trái lại chúng ta càng lớn thì càng có
nhiều vấn đề. Ví dụ mình đi học, nếu gia đình khá giả thì muốn ba mẹ sắm
cho một chiếc xe gắn máy đời mới, còn như gia đình hơi khó khăn thì cũng
ao ước một chiếc xe đạp. Mà đã có cái nào là ôm giữ cái nấy. Cụ thể như ở
Thiền viện đây, có mấy chiếc xe gắn máy của tập thể, mỗi lần tôi xuống kho
là thấy nó thảm hại. Nào là bảng số, đèn xi-nhan, bù loong, con tán… nếu
còn thì lòng thòng, lúc lắc trên xe; hoặc là chúng rơi rớt, lang thang
khắp chùa. Nhưng tôi chỉ cần tuyên bố: “Bây giờ giao chiếc xe này cho chú
A, chiếc xe kia cho chú B, ai đi thì đến mượn chìa khóa mấy chú. Có hư hao
gì, chú lên đây tôi cho tiền sửa”. Thưa quí vị, chỉ hai ba ngày thôi chiếc
xe bóng loáng, đèn đuốc đâu đó đàng hoàng. Đó là gì? Là sự ôm giữ ngấm
ngầm bên trong của mỗi chúng ta. Khi tôi đã giao cho một người quản lý
rồi, bất thần ai muốn đi mà bẻ khóa là về sanh chuyện ngay. Chứ hồi trước
thì để lung tung, có khi xe nằm ngoài cửa không ai ngó tới. Tôi muốn nói
những cái chấp thủ của con người như vậy đó.
Khi đã cố chấp vào một cái gì rồi thì ta
bị ràng buộc trong đó, không thoát ra được. Chúng sanh từ lâu bỏ quên
không nhận cái thực của mình, quen nhận những thứ hư ảo bên ngoài rồi, ai
đưa ra cái thực mình không chịu thừa nhận. Phật Tổ cho đến các thiện hữu
tri thức, đều nói rằng chúng ta phải nhận và sống lại với cái thực của mỗi
người thì cuộc sống mới an ổn. Trong chúng ta cũng có người biết mình có
cái đó nhưng chưa nhận diện được nó nên khi nó xuất hiện ta không dám
nhận. Không chấp nhận cái thật, lại lầm chấp tất cả những thứ hư giả bên
ngoài nặng hơn, trầm kha hơn thì làm sao giác ngộ giải thoát được. Cho nên
cố chấp càng sâu thì càng nhận chìm chúng ta trong tăm tối mà thôi. Nói
cách khác, người tu mà cố chấp thì không bao giờ nhận và sống được với cái
thật của mình.
Cái thật ấy không có hình ảnh. Lục Tổ bảo
nó không đầu không đuôi, không già không trẻ, không xấu không đẹp, không
là gì hết. Như thế làm sao nhận được nó? Chuyện này đâu phải dễ. Thành thử
nói đến cố chấp hay kiến chấp, chúng ta phải lưu tâm dè dặt, phấn đấu để
vượt qua. Phật dạy không đợi tu theo ngoại đạo, mà người tu Đại thừa, tu
thiền nhưng vẫn còn nắm giữ cố chấp, đó là ngoại đạo. Nói Bồ-đề, Niết-bàn,
Chân như, Bát-nhã mà đụng đâu dính đó là ngoại đạo.
Tất cả những danh từ trên là để nhắc đến
các pháp dùng đối trị tâm bệnh chúng ta. Như mình chưa nhận được Niết-bàn
thì nghe Niết-bàn qua sự diễn tả trong kinh Phật để quay lại nhận Niết-bàn
nơi mình. Niết-bàn không phải là hoa sen, nó không phải là xe hơi, không
phải trời mây trăng gió, mà đó là cái trạng thái của tâm không vướng mắc,
không cố chấp vào bất cứ thứ gì. Vừa có niệm khởi ta buông hết, an lạc
bình thản ngay đây, bây giờ. Ai sống như vậy thì mở của Niết-bàn. Còn ngồi
đó bàn luận, tưởng tượng, trông đợi là rơi vào kiến chấp.
Có thể nói Kiến chấp là một loại cố chấp,
cho rằng mình đã nắm chân lý trong tay trong khi chân lý đến ngay trước
mắt, trước cửa nhà mà vẫn không nhận ra, không chịu mở cửa. Kiến chấp cũng
gọi là kiến thủ, nghĩa là ta coi như mình đã nắm chặt chân lý rồi, do đó
khi chân lý đến ta lại không biết. Phật tổ nói Vô trụ xứ Niết-bàn, tất cả
pháp là Phật pháp, nhưng chúng ta ít khi nào dám hiểu như vậy, dám áp dụng
như vậy. Chỉ lúc đối trước tượng Phật, đắp y tụng kinh mới dám nói mình
tu. Tu như thế làm sao giác ngộ giải thoát được.
Song song với kiến chấp còn có Hoặc. Hoặc
là mê lầm, không sáng. Ngoài kiến chấp ra, chúng ta lại bị những thứ mê
hoặc làm mờ đi sự sáng suốt của mình. Mọi phiền não từ đây mà phát sinh.
Chủ yếu của người tu và nhất là tu thiền, phải tự tại giải thoát. Bởi
người tu thiền không chú trọng tha lực, mà chú trọng vào tự lực, thực lực.
Tự lực nói lên tinh thần độc lập, tự tại giải thoát, nếu không thực hiện
được như thế là đã bị mê hoặc bởi vô minh phiền não rồi. Người đời vì cái
Hoặc này nên luôn bị mất mình, bị sai sử trong cuộc sống, ăn mặc, tiếp
xúc… Người tu chúng ta không khéo cũng sẽ bị cái Hoặc này làm mê mờ, thoái
tâm như chơi. Hồi mới phát nguyện mình rất khẩn thiết, nhưng tu một thời
gian thì chứng nào tật nấy, chẳng còn gì cao thượng nữa.
Ngày xưa dân ta ảnh hưởng tinh thần Tam
giáo quy nguyên, cứ đợi tới già mới đi tu. Tuổi nhỏ phải học hành, lớn lên
ra làm quan, đó là theo tinh thần Khổng giáo. Qua giai đoạn này rồi, người
ta muốn hưởng nhàn tiêu sái, như những ông tiên non Bồng nước Nhược, dạo
Bồng Lai tiên cảnh, bấy giờ muốn tu tiên, đó là theo tinh thần Lão giáo.
Rồi già nữa thì tu Phật để được về Tây phương Cực Lạc hưởng vui sướng
thượng phẩm. Nhưng, thưa, tới lúc đó tu hết nổi rồi, ngồi lưng không
thẳng, ăn nhai không được, đi phải có người dìu, làm sao tu nổi. Đến với
đạo Phật như thế muộn quá nên công phu chẳng được gì. Khó lắm.
Ở đây, tôi muốn trở lại quan điểm Tam giáo
đồng nguyên của Việt Nam được áp dụng trong đời Trần một chút. Tại sao lại
có vấn đề này? Thưa, là vì giai đoạn đó các vua Trần muốn dân tộc ta có
được một tinh thần mạnh mẽ, đoàn kết, thống nhất để chống ngoại xâm, cho
nên phải thống nhất toàn dân về một mối. Bấy giờ có một số tu theo Phật,
một số thích đạo sĩ, một số chuộng làm quan. Nếu các nhà lãnh đạo chỉ dùng
đạo Phật thôi, thì mất hai bộ phận còn lại, trong khi hoàn cảnh đất nước
cần đến một khối toàn dân đoàn kết. Đó chính là nguyên do có Tam giáo đồng
nguyên. Nhưng sau này, người ta không hiểu nên lại tự chia đời mình thành
ba giai đoạn tu theo ba đạo như thế, thật là một sai lầm lớn.
Phật tử đợi đến lúc đi hết nổi mới đến với
Phật thì làm sao tu kịp. Cho nên chủ trương của đạo Phật là làm sao tu
trong mọi thời mọi lúc. Ở khoảng nào cũng được, nếu đủ duyên đối với đạo
thì áp dụng tức thì, còn hò hẹn năm tới năm kia thì xem như hỏng. Có nhiều
vị nói với tôi: “Thưa Thầy, chừng nào con sắp đặt hết cho mấy đứa nhỏ,
dựng vợ gả chồng đâu đó xong xuôi rồi, con mới tu được”. Chà, nghe vậy tôi
ngán dùm cho quí vị quá. Nói ngán là còn thư thả đó, chứ đúng hơn là hồi
hộp kìa. Tại vì không biết chúng ta còn sống kịp tới ngày cho mấy đứa nhỏ
đâu vào đó không?
Chúng ta còn nhớ Thái tử Sĩ Đạt Đa là bậc
vua chúa, vậy mà Ngài còn biết từ bỏ ngai vàng điện ngọc, tìm đường giải
thoát khi còn tuổi thanh xuân. Sau khi vượt thành xuất gia rồi, Ngài tu
khổ hạnh. Tại vì Ngài thấy mình đã thụ hưởng dục lạc thế gian quá nhiều
rồi, nó không ra làm sao cả, không đưa tới đâu mà càng ngày càng chìm đắm,
càng tăm tối, càng trụy lạc trong đó. Thành ra Ngài chọn lối tu khổ hạnh.
Nhưng khi tu khổ hạnh đến tột cùng đức Phật mới nhận ra rằng, dục lạc
không thể thấy đạo, không thể giải thoát, khổ hạnh cũng không thể thấy
đạo, không thể giải thoát. Bây giờ phải làm sao tỉnh sáng, nhận ra cội gốc
mê lầm, bỏ đi các thứ chấp thủ hoặc khổ hạnh hoặc dục lạc, thì mới có thể
giác ngộ giải thoát được.
Cho nên chủ trương chung của Phật giáo là
chọn con đường Trung đạo. Vì chỉ có Trung đạo mới giải quyết được vướng
kẹt hai bên, còn kẹt là còn chấp, khi nào hết kẹt mới hết chấp. Như vậy
mới có thể tiến lên chỗ rốt ráo viên mãn. Cho nên biết cuộc sống giản dị
là bắt nguồn từ một nội tâm giản dị. Sáng ăn sơ sài, rau luộc nước tương,
trưa lại thì cơm với nước tương rau luộc, chiều húp cháo trắng hoặc gạo
lứt muối mè cũng được, đại khái như thế. Sống giản dị như thế để làm gì?
Để đừng bị lừa đẩy kẹt bên này hoặc bên kia. Từ đó chúng ta mới có lối
thoát.
Đến đây tôi
nói thêm về vô minh, phiền não. Gốc của những thứ này là tham, sân, si,
mạn. Nội bốn đứa này nó quậy mình cũng đủ chết. Chúng còn được gọi là câu
sanh phiền não. “Câu sanh” là sao? Là mình có mặt thì nó cũng có mặt, đồng
thời với chúng ta. Không khi nào quí vị nghe nói phiền não này của cha tôi
để lại, là vật gia truyền của gia đình tôi. Mà tự nhiên có thân này là có
phiền não. Và phiền não thì nhiều lắm, chứ chẳng phải chỉ năm ba thứ thôi
đâu. Thứ gì mình cũng có thể phiền não được hết. Nhưng cơ bản nhà Phật tạm
gọi có mười thứ cội gốc là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên
kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Nhưng ở đây chúng ta chỉ xét trên bốn đứa
như tôi đã nêu trên. Bốn tên này, người tu thiền nhìn thấy là phải chặt,
dẹp ngay. Tiêu dung được phần nào thì nhẹ nhàng sáng suốt phần ấy. Hòa
thượng dạy cảnh tham đến mà ta không tham tức là giác. Cảnh sân đến mà ta
không sân tức là giác, cảnh si mê điên đảo đến mà ta không mê loạn tăm
tối, tức là giác. Giác là Phật. Nếu thấy như thế tức mọi người đều là Phật
hết thì ta ngã mạn với ai? Còn thấy mình sang người hèn mới ngã mạn chứ,
nếu thấy mình với người không khác thì ngã mạn cái gì?
Phật giáo Nguyên thủy không nói tới Phật
tánh. Chỉ đến thời Đại thừa Phật giáo, các Tổ như Mã Minh, Long Thọ, Đề
Bà, Vô Trước, Thế Thân ra đời, các Ngài mới đưa ra khẳng định rõ tinh thần
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau. Thật ra điều này ngay khi đức
Thế Tôn vừa thành đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài đã tuyên bố như thế rồi: “Lạ
thay! Mọi loài đều có trí tuệ đức tướng Như Lai, mà tại sao ngu mê để bị
luân hồi sinh tử. Thật đáng tiếc!”. Không phát huy tinh thần, không đào
xới, không gầy dựng lại tinh thần này thì lời Phật nói: “Ta là Phật đã
thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” có dính dáng gì chúng ta đâu? Thành ra
nhờ có các Tổ ra đời kế tiếp truyền thừa, chứng minh những điều Phật đã
nói là hoàn toàn khả thi, hiện thực. Điều này thật hay, thật thích thú.
Khẳng định được ta là Phật sẽ thành, chúng
ta mới lấy lại được niềm tin nơi chính mình. Như sáng nay vừa có phiền
não, ta liền tự tỉnh: “Mình là Phật sẽ thành mà, mang ba thứ phiền não này
thiên hạ cười chết”. Bởi vì Phật là giác nên không thể mê. Đã không mê thì
không thể nào có phiền não được. Nhờ hiểu rõ như thế chúng ta đoạn trừ
phiền não một cách rất hữu hiệu. Như Lục Tổ dạy, chúng ta có một cái không
đầu không đuôi, không xấu không tốt, không gì hết v.v.. Đó mới là gốc. Vậy
tại sao mình không sống với gốc, lại đuổi theo những thứ ngọn ngành chẳng
ra chi?
Trở lại vấn đề tu thiền, nếu chúng ta có
một cái nhìn thống thiết, mọi người đều đầy đủ trí tuệ đức tướng như nhau,
Phật tính như nhau hay khả năng thành Phật như nhau thì còn gì gọi là mạn?
Do chúng ta còn nhìn thấy thế này thế kia, mình khác người khác, nên cái
mạn nó mới chen vô. Một khi mạn đã chen vô rồi thì mất thăng bằng ngay, vì
tánh bình đẳng đã bị cái ngã che khuất. Chúng ta thấy rõ ràng, mình sống
vì cái thân cái sơ, cái sang cái hèn, bỉ thử nhiều quá nên ta đau khổ,
không bao giờ bình yên, vì tâm không quân bình, tâm mất thăng bằng. Cho
nên muốn thành Phật thì mỗi người phải giác, phải phát huy được Phật tâm
ngay nơi mình. Tâm Phật là gì? Là cái sáng suốt rỗng rang trùm khắp, không
có hiện tượng gì trong đó cả, cho nên bình đẳng, nhất như.
Chúng ta tu hành mà bị nhiều hiện tượng
câu thúc quá, làm sao giác ngộ thành Phật được? Nếu không xét nghiệm kỹ,
không có công phu sâu sắc, chúng ta tu thì tu vậy thôi, chỉ có trên mặt
hình thức, chứ không phẫu thuật được những cù cặn bên trong, những thứ câu
sanh vô minh tham, sân, si, mạn ấy thì việc tu chẳng đi tới đâu. Những thứ
này có mặt đồng thời với chúng ta, nó cứ hiện diện, gắn liền với mình, nên
nhiều người than muốn yên mà không được yên là vậy. Người tu thiền phải
chiến thắng được bốn tên vô minh này mới được. Chúng ta thấy rõ bệnh, đánh
thẳng vào sào huyệt của nó, nhất định không dung túng. Được vậy mới có thể
thoát khỏi sự vây bủa, kềm hãm của nó.
Ở đây tôi nhấn mạnh đến tinh thần học Phật
của người Phật tử chân chánh. Chúng ta học lời Phật dạy, thể nghiệm lời
Phật dạy bằng cách nhìn lại mình. Từ đó nỗ lực thực hành tu tập, đánh
phủng đánh thẳng những cái tật của mình. Bệnh nào ta có, những kiến chấp,
chấp thủ, những điên đảo vọng tưởng, tham sân phiền não nào của mình là ta
đánh thẳng, đánh mạnh, đó là tinh thần tu tập của người Phật tử chân
chánh.
Muốn trị câu sanh vô minh, không có con
đường nào khác hơn là chúng ta phải nỗ lực tu hành, phấn đấu làm chủ tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Chỉ có vậy thôi. Làm chủ được rồi thì chúng
không sai sử mình nổi nữa. Chúng ta không dám nói, không dám tin mình dẹp
được câu sanh vô minh là không dám tin ta ở khả năng thành Phật của mình.
Sợ như vậy là chứng tỏ ta chấp nhận thấp thỏi. Không được, phải vươn lên
chứ. Nói thế không có nghĩa là ta kiêu mạn, mà là để gắng gổ phát huy Phật
chất nơi mình. Những gì cù cặn không xứng đáng ta loại ra, việc làm này
đâu thể gọi là kiêu mạn.
Giả dụ như trong Thiền viện này, ai cũng
thấy mình là Phật sẽ thành hết, ai cũng cố gắng tu để thành Phật thành Tổ.
Cho nên đối với các việc như nấu cơm, cuốc đất, làm ruộng, làm vườn, bất
cứ việc gì cũng tập trung, làm sao sống được với ông Phật của chính mình.
Khi ta biết mình là Phật sẽ thành, thì huynh đệ của mình cũng đều là Phật
sẽ thành. Thưa, bấy giờ không có ông Phật nào dám gây lộn với ông Phật nào
cả, dù làm việc vất vả chư Phật cũng luôn hoan hỷ, thanh tịnh. Sở dĩ quý
thầy gây là vì có ông là Phật, có ông chưa phải Phật. Chưa là Phật nên mới
tham, sân, si, điên đảo. Đã có các thứ ấy chen vào thì dễ đụng nhau lắm,
chứ Phật với Phật không bao giờ đụng nhau.
Thử tưởng tượng mọi người đều phát huy
tánh Phật ấy thì thế giới này tốt đẹp biết bao nhiêu, đỡ tốn bút mực, tốn
thời gian chứng minh giải thích, rồi đưa ra phương pháp hóa giải nữa.
Thành ra cái khó của chúng ta là trị cho tận gốc câu sanh vô minh. Bởi vì
nó quá thâm căn cố đế, nó dính vào da vào thịt của mình từ đời kiếp nào,
nên bây giờ muốn buông mà buông không được. Thật ra cũng không phải buông
không được, mà vì ta chưa thật tâm muốn buông thôi.
Tôi nhớ trong một bữa tiệc, huynh đệ ăn
bánh xèo. Có một vị ăn khỏe lắm, đến nỗi mấy huynh đệ ăn xong ai cũng ngồi
chờ. Huynh ấy quá đỗi tự nhiên, mọi người nhìn mà vẫn cứ ăn, không thèm
nói gì. Cuối cùng sư huynh ngồi trên thấy ăn ngon quá, còn hai cái trong
dĩa của mình, huynh chuyển xuống cho vị đó luôn. Đương sự nói: “Thôi,
không ăn nữa”. Miệng nói thôi nhưng tay lấy bánh. Thật tức cười. Việc tu
cũng thế, mình nói không muốn nhớ chi ba cái chuyện lỉnh kỉnh, nhưng không
hiểu sao vừa tréo chân ngồi thiền là ở đâu nó tuôn ra, làm mình khổ. Nhà
Phật gọi đó là câu sanh vô minh, nó đã cắm sâu gốc rễ bên trong chúng ta
từ hồi đời nào.
Chúng ta tự kiểm lại mình, rõ ràng không
thiếu thứ gì hết. Phiền não cỡ nào mình cũng có, vì thế mà phải phấn đấu
nhiều hơn, cố gắng nhiều hơn nữa. Những thứ này ràng buộc, chi phối, sai
khiến chúng ta cho nên phiền não cũng có tên là kiết sử. Chữ “Kiết” kết
lại, chữ “Sử” là sai khiến. Phiền não cũng còn gọi là hoặc. “Hoặc” là mê
loạn, vô minh. Vô minh thì trái với minh là giác, là sáng. Vì vô minh sai
sử nên mình lầm chạy theo tham sân si, phiền não. Cứ thế tạo thành một
vòng tròn, ta cứ bị xoay chuyển trong đó, không ra được. Nhà Phật gọi là
luân hồi sanh tử
Bây giờ muốn phá trừ vô minh điên đảo, hay
nói cụ thể hơn là phá sạch các thứ kiến chấp, chúng ta phải làm sao? Có
các điểm cần yếu như sau:
Một là chúng ta phải đầy đủ niềm tin với
chánh pháp. Như Hòa thượng Viện trưởng đã nói: “Phật Tổ không nói gạt
chúng ta. Các Ngài tu đã được giải thoát thì chúng ta tu cũng được giải
thoát”. Chúng ta khẳng định như vậy thì yên lòng tu tập, chắc chắn sẽ đạt
được kết quả. Đây gọi là có niềm tin với chánh pháp. Nên nhớ niềm tin này
rất quan trọng, có tính quyết định cho công phu tu tập của chúng ta rất
lớn.
Hai là phải có giới hạnh đầy đủ. Người tu
phải có tư cách, đời sống, nếp sinh hoạt tốt đẹp mới đem lại niềm kính tin
cho mọi người và sự an vui thực sự cho bản thân mình.
Ba là phải học hiểu. Vì có học mới biết
Phật pháp, không ai tự nhiên có thể biết được. Học hiểu rồi mới có đường
lối cụ thể để ứng dụng tu đúng đắn. Ở đây Hòa thượng chủ trương “Thiền
giáo đồng hành” để làm gì? Tu thiền nhưng phải học kinh luận, giáo pháp
của Phật để xem việc tu của mình có đúng hay không. Học và tu bổ sung cho
nhau, giúp chúng ta vững niềm tin và có lập trường rõ ràng. Người tu mà
không học là thất bại ban đầu nên chúng ta phải học. Học cho hiểu phương
pháp tu. Như Hòa thượng dạy chúng ta phải buông bỏ phiền não thì trí tuệ
mới phát huy viên mãn được. Những điều này nếu không học làm sao chúng ta
biết cách tu.
Bốn là phải buông bỏ những cái cố chấp của
mình. Ta biết đó là phiền não thì dứt khoát bỏ đi. Không dứt khoát mà cù
cưa mãi thì không bao giờ hết khổ. Như vậy tu hành không có lợi ích gì cả.
Năm là phát huy
kiện toàn trí tuệ của mình. Đây là chỗ rốt ráo của một hành giả tu Phật.
Bởi vì chỉ có trí tuệ mới phá tan bao lớp vô minh mờ tối của con người,
đưa chúng ta ra khỏi trầm luân sanh tử, giải quyết được vấn đề then chốt
của kiếp nhân sinh thống khổ.
Tóm lại, đề tài chúng tôi nhấn mạnh hôm
nay là chúng ta dè dặt đối với những kiến chấp của mình, buông bỏ nó để
tăng tiến công phu tu tập. Biết rằng đây không phải là chuyện dễ, vì những
thứ câu sanh vô minh đã gắn liền với chúng ta từ bao đời. Tuy nhiên nó là
hư huyễn, không thật, nếu chúng ta thấy rõ bản chất của nó, mình sẽ buông
bỏ được.
Rất mong chư huynh đệ có được niềm vui
thực sự đối với chánh pháp, có niềm tin vững chắc kiên cố nơi sự nỗ lực tu
hành của mình. Được vậy nhất định chúng ta sẽ đạt được những thành quả
đúng như sở nguyện, chúng ta sẽ thành Phật. |