PHẬT DẠY CÁCH BÁO HIẾU
Hôm nay là
ngày rằm tháng bảy, ngày báo hiếu, cũng là một trong những ngày lễ trọng
đại nhất của giới Phật tử chúng ta. Nói đến hiếu đạo là nói đến đạo sống
của con người. Dù là tôn giáo nào, ai ai cũng phải lấy hiếu đạo làm gốc.
Ngày rằm hôm
nay là ngày mọi người con Phật dâng hết lòng thành của mình lên đấng sanh
thành ông bà, cha mẹ v.v… là những người đã tạo ra chúng ta. Cha mẹ đã dày
công sanh thành, nuôi dưỡng, gầy dựng cho chúng ta một cuộc đời, một sự
sống. Tâm trạng lo lắng ấy không biết đến đâu là cùng. Cho nên người xưa
nói: “Giọt nước luôn luôn chảy xuống, chứ không bao giờ chảy ngược lên”.
Cha mẹ trăm tuổi, con tám mươi tuổi hoặc hơn tám mươi tuổi, cha mẹ cũng
vẫn còn lo lắng cho con. Nghĩa là không bao giờ cha mẹ bỏ quên chúng ta,
mà muốn cho chúng ta trưởng thành, ấm no sung túc. Thấy con người học giỏi
thì cũng muốn con mình học giỏi, thấy con người làm công việc phát đạt thì
cũng muốn con mình được như vậy. Muốn con luôn luôn là người tốt, người
hiếu đạo. Đó là những nguyện ước của cha mẹ.
Vì vậy, để tỏ
lòng hiếu để với các bậc sanh thành, chúng ta phải làm như thế nào? Trường
hợp cha mẹ đã quá vãng, chúng ta nên tu tạo các công đức lành hồi hướng về
cho cha mẹ. Nếu cha mẹ vì nghiệp dữ phải đọa vào ác đạo, chúng ta thành
tâm thiết lễ trai nghi cúng dường Tam Bảo và tha thiết phúng tụng kinh kệ,
để chuyển hóa nghiệp dữ cho cha mẹ qua lời Phật dạy. Trong kinh Địa Tạng,
Bồ tát Địa Tạng đã phát thệ nguyện: nếu còn một chúng sanh khổ thì ngài
nguyện không thành Phật. Còn một chúng sanh ở trong địa ngục thì ngài còn
ở đó để mà cứu vớt. Chỉ khi tất cả chúng sanh hết khổ, ngài mới chịu lên
ngôi chánh giác. Với lời nguyện to lớn ấy, ngài là vị đại Bồ tát, thường
thị hiện trong cuộc đời, ở những chốn khổ đau để cứu vớt chúng sanh. Trong
đó có cha mẹ nhiều đời của chúng ta.
Đức Phật
thường dặn dò các vị đại Bồ tát phải luôn giúp đỡ chúng sanh khi chúng gặp
hoạn nạn hay bị đày đọa trong những chốn khổ đau như địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh… Phật dạy Bồ tát Địa Tạng: “Nếu có người nam, người nữ nào trồng
chút ít căn lành trong Phật pháp, ông nên dùng đạo lực của ông ủng hộ
người đó tu tập lần lần được đạo vô thượng, chớ để họ thoái thất. Nếu có
kẻ mới tu chút ít căn lành mà phải đọa lạc trong các đường khổ, ông khiến
những người ấy nhớ niệm danh hiệu của Phật và dùng thần lực khiến họ không
bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh”.
Sở dĩ có địa
ngục, có những chốn khổ đau là do chúng sanh tạo nghiệp không tốt mà chiêu
cảm nên. Nghiệp không tốt ấy từ nơi thân, miệng, ý mà sanh ra. Từ đó chúng
ta bị các thứ tham lam, sân hận, si mê điên đảo kéo lôi. Tóm lại, cảnh khổ
ở địa ngục là do chúng ta tạo chứ không phải ai bày ra, áp đặt đưa chúng
ta đến. Điều này chúng ta nghiệm lấy cũng có thể biết.
Ví dụ như có
người chọc giận mình, mình giận người đó tức là tâm không yên, địa ngục
hiện tiền trong lòng của chúng ta rồi. Địa ngục hiện ra thì thân bức xúc,
miệng dùng lời chửi mắng, tiếp theo là những ý niệm xấu xa hay những hành
động hại người. Khi nghĩ, làm những việc ấy, thì tâm mất sự an lạc, vì bị
cấu xé làm ô nhiễm. Địa ngục hiện tiền là thế, do chúng sinh tự gây tạo
rồi chiêu cảm lấy thôi. Đã như vậy thì kêu cầu ai? Cầu Phật, Phật cứu được
không? Nhất định là không, tự mình phải cứu mình. Vì vậy Phật dạy ngài Địa
Tạng, những chúng sinh có gieo chút ít căn lành đối với Phật pháp, ông cố
gắng giúp họ phát triển căn lành của mình, tự hoàn chỉnh bản thân. Tự hoàn
chỉnh mình được rồi thì tự nhiên sự chiêu cảm cảnh địa ngục không còn nữa.
Rõ ràng chủ
trương của đạo Phật là hoàn thiện ngay từ con người, sửa ngay từ tâm của
chúng ta. Nên có câu tu tâm dưỡng tánh là vậy.
Phật nói tiếp:
“Nghiệp lực chúng sanh rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di, sâu dường biển
cả, có thể ngăn đạo Thánh. Vì thế, chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà
cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo, dù chỉ mảy mún đều phải
chịu lấy”. Tôi lặp lại: Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di. Bởi
nó lớn quá nên chúng ta tu hoài mà vẫn chưa thành Phật. Tu không hết
nghiệp thì làm sao thành Phật được? Lại nghiệp sâu dường biển cả, có thể
ngăn đạo Thánh. Nghiệp nặng quá nên tu không nổi, nghiệp sâu dày quá nên
không làm được việc gì có công đức, có đạo hạnh, có trí tuệ. Thế nên người
Phật tử phải quan tâm, phải chủ động để chuyển nghiệp, từ nghiệp không tốt
thành nghiệp tốt. Chúng ta không sợ nghiệp nhưng phải biết cách chuyển
nghiệp. Còn nếu không chuyển nghiệp được thì phải sợ nghiệp thôi. Vì
nghiệp đã gây tạo rồi thì phải trả nợ. Chuyện ấy là dĩ nhiên rồi, không ai
chạy trốn được.
Phật lại dạy:
“Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không có tội, sau khi
chết rồi đều có quả báo, dù chỉ mảy mún đều phải chịu lấy”. Dù chỉ tạo một
mảy mún, nhỏ xíu thôi nhưng kết quả của nó vẫn có. Một tâm niệm, một ý
nghĩ, một lời nói, một việc làm, nhưng tà vạy trái với chánh pháp, trái
với lương tâm, thì sẽ mang lấy hậu quả không tốt. Nên người Phật tử phải
dè dặt khi tạo nghiệp. “Lại chí thân như cha với con, mỗi người cũng theo
nghiệp của mình mà đi khác đường, dù cho gặp nhau cũng chẳng bằng lòng
chịu khổ thay nhau”. Khi đã tạo nghiệp rồi thì phải mang gánh hậu quả của
nó, không ai thế cho ai được dù chí thân như cha với con. Nếu có gặp nhau,
mỗi người cũng phải đi theo nghiệp riêng của mình. Vì thế chúng ta đừng ỷ
lại, cho rằng quý thầy, quý sư cô tụng kinh thì chúng ta có thể siêu độ.
Nếu quý thầy cô tu hành không ra gì thì quí vị nghĩ sao? Cầu cho ai giúp
cho ai được, trong khi mình nghèo quá? Thực tế là như vậy. Người có tiền
của, phương tiện, địa vị thì mới có thể giúp người này người kia được. Nếu
nghèo quá, muốn giúp cũng không thể giúp được? Nói không ai nghe, của cải
phước lực không có. Đây là điều chúng ta đáng sợ, đáng lo. Chúng sinh cho
tới bây giờ còn lăn lóc trong các đường là biết nghiệp tập nhiều lắm. Tội
thì nhiều mà phúc thì kém. Tội là, bởi nghiệm lại thấy vừa ngồi yên một
chút thì trong lòng lăng xăng, nghĩ chuyện hơn thua, danh lợi … Còn các
phúc thiện, việc lành, việc phước chúng ta muốn giữ gìn nhưng có khi lại
quên đi từ hồi nào, không nhớ nổi. Trái lại gây với ai, giận ai, buồn ai,
cách đây năm mười năm… cần thì nó hiện ra nguyên hình, giống như xem
Video. Bởi vậy chúng ta phải tự lo, không nên ỷ lại vào ai. Nếu Phật cứu
được thì chúng ta đã thành Phật từ lâu rồi. Không ai cứu mình được bằng
mình tự chuyển hóa, tự sửa đổi, tự cải thiện chính tâm của mình.
Cho nên Phật
mới dạy ngài Địa Tạng: “Chúng sanh dù chỉ gây được một chút nhân nhỏ xíu ở
trong Phật pháp, ông nên dùng đạo lực của ông khiến cho họ phát triển nhân
đó, để họ tự thành tựu lấy đạo quả”. Chứ Phật không bảo ngài đem khả năng
của ngài khiến người đó thành Phật, thành Tổ, thành La Hán. Trong nhà Phật
không có chủ trương ban phước giáng họa như vậy. Chư Tăng, chư Ni là người
có trách nhiệm vừa tu hành chân chính, vừa nói lại lời pháp của Phật dạy
để cho quý Phật tử nghe và tu tập theo. Chớ chúng tôi không thể ban cho
quí vị điều gì cả.
Qua hai đoạn
văn trong kinh Địa Tạng cho Phật tử chúng ta thấy, tu hành là tự mình phải
nỗ lực. Trên chúng ta có Phật, có thiện hữu tri thức và có những vị đại Bồ
Tát luôn luôn phát nguyện gần gũi để dìu dắt chúng ta tu hành, nhưng chính
bản thân chúng ta phải tu, phải sửa, thì mới tốt được. Dù thiện tri thức
thật nhiều luôn ở bên cạnh nói cho chúng ta những điều hay lẽ phải nhưng
bản thân chúng ta không chịu tu sửa thì chẳng được gì cả.
Chủ trương của
đạo Phật là phải tự nơi chính mình. Muốn giúp cho người tốt thì bản thân
mình phải tốt. Ví dụ như chúng tôi muốn nói đạo lý, hướng dẫn Phật tử tu
hành đúng theo chánh pháp của Phật, thì bản thân chúng tôi trước phải tu
đúng chánh pháp, sau đó chúng tôi mới có thể hướng dẫn đúng cho Phật tử
được.
Chúng ta đừng
nghĩ rằng niệm Phật thì được Phật cứu. Niệm Phật là nhờ uy lực của Phật mà
giúp cho người chịu tội chuyển hóa tâm thức của họ. Nhờ thế họ thoát khỏi
kiếp khổ. Tự mình phải tu, phải cố gắng, phải nỗ lực. Cộng với sự gia trì
của chư Phật thì mới thành tựu ước nguyện được. Cũng cần lưu ý công đức tu
tập cộng với sự chuyển hóa thanh tịnh, nếu hợp nhau thì chúng ta được
hưởng trọn vẹn. Nếu tạo được công đức mà chúng ta không thanh tịnh, không
chuyển hóa, thì công đức ấy chỉ hưởng được một phần nho nhỏ thôi.
Truyện tiền
thân của Phật kể: Có một tiền kiếp Phật là người con bất hiếu. Khi chết,
Ngài đọa vào địa ngục. Ở đó, Ngài thấy có những chúng sanh, trên đầu đeo
vòng lửa quay cháy đỏ, toàn thân hừng hực như một cây lửa. Chúng sanh ấy
kêu la, than khóc thảm thiết. Thấy cảnh như vậy, Ngài hỏi ngục tốt: “Kẻ ấy
tạo tội gì mà bị hình phạt ghê gớm như vậy”. Quỉ giữ ngục đáp: “Đó là một
người con bất hiếu. Khi sống kẻ ấy không nghe lời cha mẹ, làm cho cha mẹ
buồn, gây tạo những điều trái đạo, trái với lương tâm, nên bây giờ phải
trả nghiệp như vậy”. Nghe xong Ngài rúng động. Bởi vì chính Ngài cũng
không nghe lời cha mẹ nên mới bị rớt xuống đây thì chắc chắn vòng lửa ấy
sẽ đến với Ngài. Ngài hỏi thêm: Bao giờ kẻ kia mới hết chịu tội báo đó.
Quỉ sứ nói: “Chừng nào trên trần gian có người con bất hiếu khác xuống
thay thì vòng lửa ấy sẽ hết”. Quỉ vừa dứt lời thì vòng lửa ấy bay vù tới
chụp lên đầu Ngài, đốt cháy toàn thân, làm cho Ngài đau khổ, rên la thảm
thiết. Nhưng vì Ngài có nhân chủng Phật sâu dày nên qua hình phạt đau khổ
đó, Ngài liền phát đại nguyện: “Tôi nguyện chịu thay tất cả những thống
khổ này. Nguyện ở trên đời đừng có người con bất hiếu nào đọa vào đây nữa
cả”. Vừa phát đại nguyện xong thì vòng lửa đỏ trên đầu Ngài cũng liền biến
mất. Ngài thoát khỏi cảnh địa ngục. Chúng ta thấy tâm hiếu quan trọng như
vậy đó.
Phật luôn luôn
dạy chúng ta phải nỗ lực tu tập để độ mình và độ cho mẹ cha, thân bằng
quyến thuộc. Chớ không thể nương nhờ vào Phật lực. Dù Phật đưa tay chờ mà
chúng ta không đưa tay để Phật kéo lên thì không bao giờ được cứu vớt cả.
Mà đưa tay bằng cách nào? Phật dạy: Phải nhớ Phật, niệm Phật đừng niệm gì
khác. Đừng niệm danh lợi tiền bạc ở thế gian mà chỉ niệm Phật. Tức là phải
giác ngộ, tỉnh táo, sáng suốt thì Phật mới nắm tay kéo lên được. Chúng ta
chưa làm được việc đó nên Phật chờ hoài mà vẫn chưa có ai để kéo lên.
Tu thiền hay
tu Tịnh cũng vậy. Nếu không định tỉnh, sáng suốt, tự tu tập, tự khắc phục
những khuyết điểm của mình, thì dù cho có nói thiền, có ở chùa làm bao
nhiêu việc chăng nữa cũng chẳng được gì. Quan trọng là chúng ta phải tự nỗ
lực, cố gắng tu, làm sao cho đạt được kết quả thì việc trả ân cha mẹ không
khó.
Lại một câu
chuyện nữa trong kinh Địa Tạng. Có người con gái Bà La Môn nhưng rất tin
kính Tam Bảo. Cô tu tập theo sự hướng dẫn của chư Tăng Ni, đúng với đạo
chân chính, giác ngộ của Phật. Nhưng mẹ cô không chấp nhận. Vì bà là người
ngoại đạo nên sanh tâm hủy báng và luôn chống đối việc tu học của con gái.
Do đó ba nghiệp thân khẩu ý của bà ngày càng xấu ác. Biết rõ điều đó nhưng
cô con gái không làm sao khuyên mẹ được. Cô rất khổ tâm, nên càng nỗ lực
tu tập để hồi hướng công đức cho mẹ, mong chuyển hóa được mẹ. Song vì lòng
bất kính, hủy báng Tam Bảo của bà quá sâu nặng, nên khi lâm chung, bà bị
đọa vào địa ngục. Biết chắc mẹ sẽ đọa vào đường dữ nên trong suốt thời
gian bốn mươi chín ngày, cô thiết tha tu hành, cúng dường Tam Bảo để hồi
hướng công đức cho mẹ, mong sao cứu mẹ hết khổ.
Trong lúc
thành khẩn làm các việc công đức, niệm danh hiệu Phật thì một hôm cô mộng
thấy mình đến một bờ biển, dưới biển nước sôi sùng sục. Đứng trên bờ là
những người tay cầm chĩa ba, chĩa tư, đầu có sừng có gạc, mặt mũi hung
tợn. Nhưng nhờ phúc lực đặc biệt nên đứng gần những vị này mà cô không hề
sợ sệt. Lại dưới nước sôi có nhiều thú dữ như cọp, beo, chó… bằng đồng,
sắt… và có rất nhiều chúng sanh lặn hụp trong đó. Họ bị những kẻ cầm chĩa
đâm chém rồi liệng xuống nước sôi cho thú dữ nhai, nuốt, chơi giỡn. Cảnh
tượng thật là hãi hùng. Cô nhìn rồi hỏi người đứng gần nhất: “Đây là nơi
nào mà cảnh tượng ghê gớm như vậy”. Quiû sứ đáp: “Đây là địa ngục A Tỳ hay
còn gọi là địa ngục Vô Gián”. Cô hỏi: “Những tội nhân nào, tạo nghiệp gì
mà bị rớt xuống đây?” Quỉ sứ đáp: “Những ai trên thế gian không tin Tam
Bảo, sát hại chúng sanh, làm những việc bất nhân thất đức thì bị rơi xuống
đây”.
Cô hỏi thêm:
“Do nhân duyên nào mà ông đứng ở đây và vì sao tôi đến nơi này?” Quỉ sứ
vui vẻ trả lời: “Nơi này có hai trường hợp để đến được. Một là do nghiệp
dẫn, hai là do công đức tu hành. Cô là người tu hành chân chánh nên đến
đây mà không sợ sệt gì cả. Cô đứng gần tôi cũng không sợ, còn dám hỏi
những chuyện dưới này nữa, nên biết cô có công đức rất lớn”. Quỉ sứ lại
hỏi: “Cô đến đây để làm gì?” Cô nói: “Tôi đến tìm mẹ. Mẹ tôi lúc sống
không tin Tam Bảo, tạo những điều ác. Vì thế sau khi qua đời có lẽ mẹ tôi
sẽ bị dẫn tới những nơi khổ đau này. Tôi đã chí thành, khẩn thiết tu tập
và niệm danh hiệu Phật. Nhờ hồng ân, uy đức ấy mà tôi được đến nơi này để
tìm mẹ và cứu mẹ”. Quỉ sứ hỏi: “Mẹ cô tên gì?” Cô nói họ tên mẹ và cả tên
cha đã chết trước. Quỉ sứ liền chấp tay chào cô một cách hết sức cung kính
và thưa rằng: Những tội nhân ấy cách đây ba ngày đã được thác sinh về thế
giới an lành rồi. Chẳng những hai người đó được thác sinh mà toàn thể
chúng sinh trong cảnh khổ như cô thấy đây, ngày ấy cũng đều được thác sinh
hết.
Cô gái mừng vô
hạn và ngay đó liền phát nguyện như thế này: “Tôi nguyện đời đời tu tập
theo chánh pháp, đời đời thay chúng sanh chịu mọi sự đau khổ. Nguyện cho
tất cả chúng sanh đừng hủy báng Tam Bảo, đừng tạo nghiệp để rơi vào địa
ngục khổ đau này”.
Như vậy
trong đạo Phật có nói đến cứu khổ. Nhưng chủ trương cứu khổ là tự mình
phải có công đức, phải tu tập chân chánh, phải chuyển hóa, mới có thể làm
việc đó. Chúng ta có quyền cầu nguyện, nhưng chủ yếu là phải nỗ lực tu
tập. Do tu tập có công đức nên lời nguyện mới có sự đáp ứng. Nếu chỉ
nguyện suông mà không chịu tu thì không có kết quả gì hết.
Tu làm sao?
Suy nghĩ bậy thì đừng suy nghĩ, nói bậy thì đừng nói, làm bậy thì đừng
làm. Dù tại chợ, tại nhà, hay ở đâu quí vị cũng tu được. Có điều kiện thì
đi chùa, sắm đèn nhang cúng kính. Không có điều kiện thì ở nhà người ta
chửi mình, mình nhịn là tu. Dân gian có câu: Một câu nhịn chín câu lành.
Đừng tưởng nhịn là nhục. Ai nghĩ nhịn là nhục, đó là hiểu theo kiểu nói
tầm thường. Nhịn là nhẫn. Nhẫn được là đại hùng, đại lực chứ không phải là
nhục. Nếu người ta chửi mình mà mình chửi lại, thì sẽ dẫn tới đánh nhau.
Mà đã đánh nhau thì có người ăn, có kẻ thua. Người ăn, kẻ thua không giải
quyết được thì thêm mấy ông an ninh khu vực tới chứng minh. Sự việc nếu
giải quyết không xong nữa thì phải đưa ra tòa, tốn tiền tốn bạc… đủ thứ
phiền não rắc rối. Nên nói một câu nhịn chín câu lành là vậy. Cách tu hành
này ai cũng có thể tu được. Giàu cũng tu được, nghèo cũng tu được.
Kế đến, tôi
nói về phát tâm Bồ đề. Phát tâm Bồ đề nghĩa là phát tâm giác ngộ. Chúng ta
ai cũng có sẵn tâm đó hết. Phật dạy: “Tâm Bồ đề là con đường cái dẫn đến
trí huệ, là suối thiên có thể gột rửa tất cả, là cỗ xe chuyên chở các Bồ
tát, là cánh cửa mở ra các hành vi của các Bồ tát”. Tâm Bồ đề tức là tâm
giác. Tâm đó là tâm Phật, tâm Bồ tát. Phát được tâm đó là mở được cánh cửa
lớn, cửa giác ngộ giải thoát.
Phật tử chúng
ta sau khi hiểu đạo rồi, phải tiến lên, phải phát tâm Bồ đề. Bởi vì chúng
ta không thể nguyện Phật cho mình thành Phật. Mà nguyện con phát tâm cầu
thành Phật, phát tâm giác ngộ. Tâm đó con có sẵn, con nguyện nhận ra bản
tâm đó của chính con. Chư Phật ra đời là muốn chỉ cho chúng ta nhận ra tâm
đó. Vậy muốn phát tâm đó phải làm sao? Phải loại bỏ tất cả những vọng
tưởng lăng xăng, đắm trước, tăm tối, chúng ta loại bỏ hết những thứ đó,
thì tâm Bồ đề mới hiện tiền. Không cần phải kiếm ở đâu xa. Muốn thế chúng
ta hằng tỉnh táo, sáng suốt, soi chiếu lại mình, không chạy theo bên
ngoài. Ai có rủ chúng ta về thế giới có tuổi thọ cả ngàn tuổi, hoặc bước
một bước từ đầu núi này sang núi khác, hay uống một viên linh đơn sống cả
ngàn năm… Chúng ta xin thôi. Sống dài mệt lắm. Chỉ cần sống trong tỉnh
táo, sáng suốt, sống với tâm an lạc, giải thoát, tâm Phật, tâm Bồ đề.
Trong kinh
Pháp Hoa, đức Phật nói rằng: Mục đích của chư Phật ra đời là muốn chỉ cho
tất cả chúng sinh nhận được tri kiến Phật của chính mình.
Kinh Lăng
Nghiêm, Phật dạy: Mục đích ra đời của chư Phật là dạy cho tất cả chúng ta
biết chúng ta có cái tâm thanh tịnh, giải thoát, tâm Phật, tâm chân thật,
chớ không phải những thứ lăng xăng điên đảo bên ngoài.
Lại trong
kinh, Phật cũng nói tâm Bồ đề là nơi trú ngụ của Tam Muội, là khu vườn
hưởng thụ pháp lạc, là chỗ an ổn của thế gian, là chỗ nghỉ ngơi nương tựa
của bậc Bồ tát.
Chúng ta muốn
nương tựa, gần gũi với Phật, chúng ta phải có Tam Muội. Tam Muội tức là sự
định tỉnh của mình. Ví dụ đang ngồi đây mà nghe ai nói đến tên mình hay
tên của người thân mình là nổi sùng lên, đó không phải là định tỉnh. Mà
nghe thì cứ nghe, nghe âm thanh, xe chạy, người nói… mà vẫn ở trong định
tỉnh, đừng để âm thanh dẫn mình đi. Như vậy là có chánh định, có Tam Muội.
Đến đây tôi kể
một câu chuyện trong nhà Thiền.
Có một nhà sư
tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm. Vì thế ít người dám theo học với ngài.
Duy có chú đệ tử nhỏ thông minh lanh lợi thì thường gần gũi nhà sư. Ngài
nhận biết chú nhỏ sau này có thể dùng được, nên cho làm thị giả. Có điều
lạ là chú không nghe lời thầy. Ông thầy thì ngồi thiền suốt ngày đêm, trái
lại chú nằm hoài. Lúc đầu, thấy chú còn nhỏ mà bắt chú ngồi nhiều thì
không được, nên ngài cho chú nằm. Nhưng nằm thì cũng phải có giờ ngồi dậy,
chớ nằm hoài sao được. Tuy nhiên chú nằm ngủ nhưng rất tỉnh. Khi ngài động
là chú giựt mình thức dậy, rất tỉnh táo. Một hôm thấy đệ tử đã lớn mà cứ
nằm hoài ông thầy phát bực, quở: “Chú mày nằm hoài chết sẽ thành rắn”. Chú
đệ tử trả lời: “Sư phụ cứ ngồi hoài chết sẽ thành cóc”. Ngay câu nói ấy,
ông thầy ngộ đạo. Từ công phu lâu ngày nên chỉ cần một duyên nhỏ ngài liền
ngộ đạo. Ông thầy như thế, có học trò như thế, thành tựu được cho nhau, kể
cũng thật là đặc biệt. Cho nên trong nhà Thiền quý ở tâm định tỉnh.
Tóm lại, dù
trong hoàn cảnh nào, là người tại gia hay xuất gia, chúng ta cũng phải để
tâm vào việc tu tập. Trước là tự lợi cho mình, sau cũng để đền trả thâm ân
cao trọng của cha mẹ. Đem công đức tu tập của mình hồi hướng về cho cha mẹ
phát tâm kính tin Tam Bảo, bỏ ác làm lành, đời đời sanh vào ngôi nhà Phật
pháp.
Phật dạy tất
cả chúng sanh là Phật sẽ thành. Vậy chúng ta phải làm sao để mình và cha
mẹ phát tâm Bồ đề, tu hành cho đạt được quả vị Phật mới xứng đáng là đệ tử
Như Lai.
Nhân mùa Vu
Lan báo hiếu, ngày tự tứ năm 1993 này, chúng tôi xin chúc toàn thể quí
Phật tử, hiện diện cũng như vắng mặt hôm nay nhớ lại rằng chúng ta đều có
Phật tính, có tri kiến Phật. Chúng ta là Phật sẽ thành. Vậy chúng ta phải
làm sao phát huy được tính Phật sẵn có nơi chính mình. Chúc quí vị thành
Phật, chúng tôi cũng thành Phật. Tất cả chúng ta đều thành Phật.
] |