QUAN NIỆM VỀ HẠNH HIẾU CỦA NGƯỜI CON PHẬT
Hôm nay nhân
ngày lễ Vu Lan, chúng tôi sẽ trình bày một vài quan niệm về hiếu đạo của
người con Phật. Là Phật tử, chúng ta phải làm sao thực hiện được hiếu đạo
đúng theo tinh thần Phật dạy.
Thông thường
hiếu đạo được chia ra hai phần: Một là vật chất, hai là tinh thần. Hai
phần này chúng ta phải suy nghiệm, tìm hiểu và áp dụng.
Về phần vật
chất, đối với cha mẹ, chúng ta phải hết lòng cung phụng. Cung phụng đúng
pháp và đúng nghĩa, hợp đạo và tránh chiều theo thị hiếu xấu, làm tổn hại
chúng sanh. Làm được như vậy là thể hiện được tấm lòng hiếu thảo đối với
cha mẹ. Trên phương diện này tùy theo hoàn cảnh, điều kiện, phúc duyên mà
ta có để thực hiện. Không nên ngược xuôi, dong ruổi theo hình thức bề
ngoài. Chủ yếu ở lòng chúng ta, làm sao để ta có thể thực hiện hiếu đạo mà
không có những cắng đắng trong gia đình. Bởi vì trong hoàn cảnh hiện tại,
chúng ta ít khi nào gặp được điều như ý, hoàn toàn thuận lợi như mong muốn
của mình. Thường thì mười phần chỉ được hai ba thôi.
Như sử nước ta
có kể Trịnh Kiểm hồi còn hàn vi, nghèo khó có một mẹ già. Ông bươn chải
kiếm sống vất vả nhưng cuối cùng nghèo vẫn cứ nghèo. Một hôm mẹ ông đau
yếu, thèm ăn thịt gà. Trịnh Kiểm không tìm đâu ra được, cũng không có tiền
mua. Vì quá thương mẹ, ông đã trộm gà của người về cho mẹ ăn. Khi ấy
Nguyễn Kim, một vị đại thần nhà Lê bất mãn triều đình nên chiêu tập trai
tráng mạnh khỏe để gầy dựng sự nghiệp riêng. Biết được hoàn cảnh và lòng
hiếu thảo của Trịnh Kiểm. Ông liền đem về trong gia trướng của mình. Từ đó
Trịnh Kiểm trở thành một người tâm phúc và sau trở thành con rể của Nguyễn
Kim.
Nguyễn Kim là
người gầy dựng triều đình nhà Nguyễn. Còn Trịnh Kiểm là vị chúa đầu tiên
trong thời vua Lê, chúa Trịnh. Thiết nghĩ nếu Trịnh Kiểm không gặp được
Nguyễn Kim thì làm gì có được ngày sau rực rỡ huy hoàng như vậy. Nhưng
thật ra rất hiếm trường hợp gặp người tốt như Nguyễn Kim. Thường kẻ trộm
thì bị pháp luật, bị gia hình, chớ không được tìm hiểu và thông cảm hoàn
cảnh như Trịnh Kiểm.
Trong đạo cũng
vậy. Có những thiền Tăng đủ khả năng để phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng cũng có
những vị như thiền Tăng Nhật Thông, vì phụng dưỡng mẹ già mà phải rời
Thiền viện, cất một am tranh ở vùng quê hẻo lánh, ông viết kinh sách để có
tiền nuôi nấng mẹ già. Nhưng ngặt nỗi mẹ ngài không ăn chay được. Vì vậy
thầy phải vào chợ mua cá thịt đem về, rồi tự tay nấu nướng dâng cho mẹ. Mà
tuyệt nhiên không có một thái độ hay một lời lẽ, cử chỉ khó chịu gì cả.
Hai mẹ con sống thật hạnh phúc. Thời gian sau bà nói: Bây giờ mẹ có thể ăn
chay được rồi. Lòng hiếu thảo của ngài đã cảm hoá được mẹ già. Chúng ta
thấy Trịnh Kiểm gặp Nguyễn Kim. Thiền Tăng Nhật Thông gặp một bà mẹ như
thế đã giúp cho hai vị làm tròn hiếu đạo của mình trong một hoàn cảnh khó
khăn.
Người con Phật
lúc nào cũng sáng suốt và gan dạ. Những ân nghĩa hay nợ nần gì đã vay thì
bây giờ phải trả, không bao giờ có niệm trốn tránh. Vì vậy trong tất cả
hoàn cảnh, người con Phật luôn giữ hiếu hạnh tròn đầy. Trong nhà Phật, tấm
lòng thành là quý nhất.
Có câu chuyện
nói về tâm chí thành như thế này. Một em bé ăn mày, mồ côi cha mẹ. Tuy
nghèo đói, nhưng em lại kính tin Tam Bảo. Vì vậy em gắng dành dụm được ít
tiền và mua muối, cúng dường chư Tăng. Hôm đó Hòa thượng đường đầu biết
được quả phúc của em bé nghèo khó này, nên buổi sáng em đến dâng muối cúng
dường, Hòa thượng tuyên bố cho tăng chúng biết hôm nay có đại thí chủ cúng
dường. Chư Tăng đúng giờ phải y hậu chỉnh tề lên điện Phật thiết lễ và hồi
hướng công đức cho vị đại thí chủ. Chư tăng vâng lệnh đắp y nghiêm chỉnh,
lên điện Phật. Nhưng đến giờ mà không thấy thí chủ nào mũ lọng xe cộ có vẻ
quan trọng như đại chúng vẫn nghĩ, chỉ thấy có một em bé ăn mày lủi thủi
vào cửa chùa, rồi len lén lên chánh điện. Em thưa trong giọng xúc động:
“Con có chút ít phẩm vật này xin cúng dường cho đại Tăng. Thỉnh cầu Hòa
thượng và đại Tăng chứng minh nạp thọ để toàn thể đều dùng được phẩm vật
cúng dường của con”. Thưa xong, em lại rụt rè trở ra. Chư Tăng chờ vị đại
thí chủ mãi mà chẳng thấy. Các thầy nói với nhau không biết bữa nay Hòa
thượng già có lẫn lộn không? Sự việc ấy bẵng đi, thời gian sau em bé ăn
mày trở lại trong ngôi vị một hoàng hậu. Cô cũng thiết đại lễ cúng dường,
và tìm đến đảnh lễ Hòa thượng, nhắc lại nhân duyên ngày xưa của mình. Hòa
thượng nói rõ đó là quả lành hiện đời của cô do lòng chí thành cúng dường
chư Tăng lúc nghèo khó. Rõ ràng nếu chúng ta có một quyết tâm tạo chủng tử
lành, thì nhất định chúng ta sẽ có quả phúc tốt, điều đó không nghi.
Tóm lại, về
vật chất chúng ta thể hiện hiếu đạo phụng dưỡng cha mẹ trong phạm vi,
trong hoàn cảnh và phúc duyên của mình. Cốt ở tâm thành chớ không vì những
hình thức tiếng tăm bên ngoài. Phật tử phải hiểu và áp dụng tinh thần này
vào hoàn cảnh riêng của mình, để vượt khó và làm tròn bổn phận của người
con đối với cha mẹ.
Về phần tinh
thần. Người Phật tử phụng dưỡng cha mẹ bằng tinh thần như thế nào? Tức
ngay nơi sự tu học, sự hiểu biết về Phật pháp và thể hiện Phật pháp trong
đời sống. Bởi vì nếu trong dòng họ có một người tu hành đắc đạo thì cửu
huyền được an lạc, gia đình được chuyển hóa tốt đẹp. Trong tập thể nào có
được người Phật tử tâm đạo chân chính thì tập thể đó sẽ được chuyển hóa
tốt đẹp. Trở lại gia đình. Nếu trong gia đình không luận là người chồng
hay vợ, nếu gặp chánh pháp, được sự hướng dẫn và áp dụng đúng chánh pháp
thì gia đình đó sẽ được chuyển hóa. Tuy nhiên có Phật tử nói rằng con đi
chùa mà tại sao trong gia đình cứ xảy ra việc nọ, việc kia. Hay đêm nào
con cũng tụng kinh, ngồi thiền mà tại sao con của con không nghe lời, cứ
quậy phá. Thật ra đây là những thử thách để chúng ta rèn luyện việc tu học
của mình. Vẫn bình thản tiếp tục việc tu tập của mình tức là vững tiến, đã
chiến thắng những trở ngại chung quanh. Từ thành tựu này Phật tử mới có
thể cảm hóa những người thân trong gia đình mình.
Người đời
thường hay nói “Con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là tội báo” câu nói này
cũng đáng để suy ngẫm. Kinh Nhân Quả nói rõ ràng, quan hệ gia đình, huyết
thống là nợ nần nhiều đời nhiều kiếp. Nên có đời làm cha, có đời làm
chồng, có đời làm mẹ, có đời làm vợ… Nếu hưởng thụ quá phần sẽ bị nợ nần
trở lại với con, với những người trong gia đình thì đời sau phải trở lại
làm đầy tớ để trả nợ cho xong. Nhân quả phải như vậy.
Cho nên nói
đến gia đình là nói đến nhân quả tuần hoàn, nghiệp báo trả vay. Nhẹ thì
làm chủ, nặng thì làm tớ. Có nhiều câu chuyện, nhất là trong bản hạnh của
đức Thế Tôn cũng như tất cả những vị đại Thánh đều cho chúng ta thấy rằng
trong quan hệ nhân quả nếu thiếu tỉnh táo, sáng suốt, không nhận định chân
chính, thiếu trí tuệ thì chúng ta sẽ oan oan tương báo không có ngày cùng.
Người Phật tử
muốn trả hiếu cha mẹ, không có gì tốt hơn là hướng cha mẹ đến với Tam Bảo.
Muốn hướng cha mẹ đến với Tam Bảo, ta phải làm sao? Ví dụ như trong gia
đình, cô con gái lớn hâm mộ Phật pháp, đi chùa học Phật, tu tập. Cô muốn
hướng cha mẹ đến với Phật pháp để thể hiện hiếu hạnh của mình thì cô phải
tu tập cho đàng hoàng. Như nói đi chùa thì đi chùa chứ không đi chỗ khác,
nói học đạo là học đạo chớ không làm việc khác. Phải gầy dựng được niềm
tin đối với cha mẹ, đối với gia đình và khẳng định việc làm, vị trí của
chúng ta trong gia đình. Được vậy khi đủ duyên, chúng ta mời cha mẹ đi
chùa thì cha mẹ tin lời và nghe theo mình. Tới chùa cha mẹ lễ Phật với
lòng thành, từ đó được gặp thầy, gặp pháp, phát tâm quy y rồi tu tập.
Nói về tinh
thần, không có gì hơn là hướng cha mẹ, người thân của mình về Tam Bảo. Vì
đây là nơi quy hướng của tất cả chúng sinh. Từ đây, tu hành các công đức
mới hết khổ, được vui.
Tất cả chúng
ta đều biết, tu tập những công đức thì thu được những kết quả tốt đẹp, đó
là điều tất yếu. Dù chỉ một niệm xấu ác, không xứng đáng trong cuộc sống
thì quả báo của niệm xấu đó cũng sẽ đến không mất bao giờ. Tùy theo tâm
niệm của chúng ta mà có những quả báo tương ứng. Giống như vang theo
tiếng, như bóng theo hình. Bởi vì nhân quả là đạo lý chắc thực mà Phật đã
từng chỉ dạy chúng ta. Biết vậy nên người con Phật luôn luôn tu tập từng
tâm niệm của mình. Khi tu, đồng thời chúng ta hướng những người thân của
mình quay về Tam Bảo, từng niệm, từng niệm tu tập.
Phật dạy:
Những người xuất gia, thọ giới cụ túc, sống đời không nhà, khi muốn cúng
dường Tam Bảo, cúng dường chúng sinh hay phụng dưỡng cha mẹ thì phải làm
sao?
Giả như có
một trận mưa to, vị tu sĩ đang tu tập trong trượng thất, muốn cúng dường
cho chúng sinh phải làm sao? Phải dùng tâm thanh tịnh, hướng đến Tam Bảo,
mong được sự phù trì, khiến cho tất cả nước mưa rơi xuống trần gian đều là
những giọt nước cam lồ, cho tất cả chúng sanh đói khổ được mát mẻ trong
lòng và đều phát tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là tâm giác ngộ giải thoát. Hành trì
như vậy trong suốt thời gian mưa to. Người tu tập cúng dường thì phải ngồi
nghiêm chỉnh, tâm thành khẩn và thân thể trang nghiêm, đúng pháp. Cầu lực
từ bi của chư Phật, chư Bồ tát hỗ trợ cho tâm nguyện của mình được thành
tựu. Bằng tất cả lòng thành, chúng ta sử dụng bất cứ phương tiện nào để
hướng về Tam Bảo, mục đích chủ yếu nhắm vào lợi ích của chúng sanh được an
lạc, được hết khổ là đúng pháp.
Trong kinh nói
rằng người tham lam, bỏn xẻn nhiều đời sẽ thác sinh vào loài quỷ đói ngàn
muôn năm. Loài này khi nghe đến thức ăn thì trong cổ họng lửa bốc cháy.
Như chuyện bà Thanh Đề. Do lòng keo xẻn, tham lam, ích kỷ nhiều đời nên
đọa vào loài quỷ đói.
Chúng ta thấy
bản thân Tôn giả Mục Kiền Liên là một vị A la hán, thần thông bậc nhất,
nhưng không thể cứu được mẹ, phải nhờ đến lòng từ bi của chư Phật, các vị
đại Thánh, chư Tăng, các vị tu hành thanh tịnh tập trung hướng nguyện cho
lòng tham lam bỏn xẻn của bà được mở ra, tất cả chúng sinh trong chốn ấy
cũng mở rộng lòng mình. Nhờ thế mới thoát khỏi kiếp quỷ đói. Qua đó chúng
ta thấy khổ cũng từ tâm mình, hết khổ cũng từ tâm mình mà ra. Cho nên
chúng ta hỗ trợ, động viên, khuyến khích làm sao cho những người thân của
mình hướng về Tam Bảo, mở rộng lòng ra, tu tập theo chánh pháp. Đó là phần
hiếu đạo về tinh thần.Những việc làm này phải được thực hiện ngay khi cha
mẹ sinh tiền. Chớ để mất đi rồi than: “Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu
dừng. Con muốn làm việc hiếu mà cha mẹ đã khuất”. Như vậy có lợi ích gì?
Trước khi kết
thúc, tôi xin dẫn một câu chuyện hiếu hạnh thế này. Có một anh chàng nhà
nghèo. Mẹ anh chuyên đi vớt bèo nuôi heo để lo cho con ăn học. Được sự
giáo dục tốt, con bà thi đậu làm quan. Sau khi đỗ làm quan, anh trở về
vinh qui bái tổ. Trên đường về tiền hô hậu ủng, chiêng trống rền vang. Mẹ
anh không hay vì đang vớt bèo. Người láng giềng chạy tới báo tin, nhưng bà
vẫn thản nhiên tiếp tục vớt bèo. Bà nói con tôi thi đậu làm quan đó là
điều đáng mừng nhưng không biết nó còn nhớ cảnh vớt bèo nuôi lợn này
không? Vị tân quan nghe được như thế vội xuống võng, cởi áo lụa ra, chạy
xuống ao với mẹ, cùng mẹ vớt bèo. Vớt đầy thúng, hai mẹ con mới về nhà làm
lễ tổ tiên. Gương người xưa còn sáng mãi đến bây giờ. Nhờ mẹ như thế nên
con mới được như thế, mới giữ vững được gia phong, gia tộc của mình.
Chuyện hiếu
đạo rất nhiều. Ở đây tôi không muốn nói những điều cao xa, những điều nằm
ngoài tầm cuộc sống, mà chỉ muốn nói những việc thông thường trong cuộc
sống. Những điều đó chúng ta có thể nhận hiểu và áp dụng được, tạo được
những lợi lạc thiết thực trong hiện đời.
Mong rằng tất
cả chúng ta là những người con hiếu hạnh, vui vẻ, phấn khởi với pháp tu
của mình, không sai với sự chỉ giáo của đức Phật, của các vị đại Thánh.
Như Phật dạy hạnh hiếu là hạnh Phật, hiếu đạo là Phật đạo. Đó là những
điều mà chúng tôi muốn trình bày và hy vọng Phật tử sẽ thực hiện được.
] |