GIÁC NGỘ
Buổi sinh hoạt
đạo lý hôm nay tôi nói về sự giác ngộ. Như chúng ta đã biết tu hành có
công phu thì sẽ được giác ngộ. Tuy nhiên giác ngộ là một cách nói, chứ
thật sự ngay khi chúng ta đang công phu là đã có giác ngộ rồi, giác ngộ
từng phần, chứ không phải đợi đến xong việc mới gọi giác ngộ.
Trước nhất
muốn được giác ngộ, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trong công phu của mình,
không phút giây lui sụt. Nếu hằng ngày có được sự nỗ lực như vậy thì nguồn
an lạc trong cuộc sống là kết quả thiết thực nhất mà mỗi hành giả nhận
được. Muốn nỗ lực cần phải có sự kiên định. Kiên là cứng, định là quyết
định, nghĩa là khẳng định một cách chắc chắn, không gì lay chuyển được.
Con đường đi đến sự giác ngộ thật ra rất giản dị, chứ không quá rườm rà
như chúng ta tưởng. Chỉ cần chúng ta quyết tâm, vững chí thì không việc gì
chẳng thành tựu.
Nên biết việc
tu tập chính yếu là ở nơi mình, công phu để đi đến giác ngộ càng đòi hỏi
sự nỗ lực tự thân nhiều hơn nữa. Tha lực chỉ là phần phụ, chủ yếu vẫn là
chính ta. Nói như thế không có nghĩa là ta phủ nhận sự hỗ trợ của các bậc
thiện hữu, nhưng chớ ỷ lại vào sự hỗ trợ này mà ta phó thác ký gởi việc tu
tập của mình cho các Ngài được. Hỗ trợ kinh nghiệm của người đi trước là
yếu tố đáng trân trọng, cần thiết cho việc tu hành, nhưng đó không phải là
yếu tố quyết định cho sự giác ngộ của mình, nếu ta chưa đủ năng lực.
Ví dụ bây giờ
chúng ta niệm Phật, cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Ngài và chư vị Bồ-tát ở cõi này từ bi vô lượng vô biên, nhưng nếu ta không
giác ngộ thì các Ngài cũng không rước mình về bên đó đâu. Nếu muốn được
Phật Bồ-tát tiếp mình về thế giới an lạc, không sự khổ đau thì bản thân
chúng ta phải giác ngộ, phải không gây tạo nhân khổ đau mới được. Vì vậy
người cầu về cõi Cực Lạc phải khẩn thiết niệm danh hiệu Phật A Di Đà, hoặc
danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí đến chỗ nhất tâm, không
dính mắc đối với tất cả các trần cảnh thì mới được đức Phật A Di Đà và chư
vị Bồ-tát đến rước. Phật tử nên nhớ đức Phật đón chúng ta không có nghĩa
là đón cái thân này, đón những vọng tưởng điên đảo của mình mà đón tâm
thanh tịnh giải thoát. Bởi vì chỉ có tâm ấy mới khế hợp tương ưng với tâm
Phật và Bồ-tát.
Hiểu như vậy
chúng ta mới thấy dù tu pháp môn nào, nhất là tu thiền, nếu chưa nỗ lực,
chưa khẳng định việc tu hành của mình theo tinh thần giác ngộ giải thoát
thì khó có thể đạt được mục đích ta mong muốn. Người tu thiền thì phải
kiến tánh hay là ngộ. Ngộ cũng có đi từ tiểu ngộ, giải ngộ cho đến triệt
ngộ hay là giác ngộ viên mãn. Cho nên giác ngộ là điều tối quan trọng đối
với người tu thiền. Chúng ta ngày hôm nay có đầy đủ phước báu gặp nhiều
thiện duyên trong việc tu hành, chứ có người dường như cả đời không đủ
phước duyên, gặp nhiều trắc trở bất an bất ổn, thiếu thốn từ vật chất cho
đến tinh thần. Người thiếu thốn về vật chất thường hay khó tiến đạo, từ đó
sanh ra buồn chán dễ thối thất. Người này phải hiểu được luật nhân quả mới
có thể tu được.
Phật đã dạy,
những gì hiện có đây là quả báo của những đời trước, tuy nhiên tất cả đều
tạm bợ, không thật. Nếu ta chuyển hoá thì nó sẽ thay đổi. Nhìn hiện tại
đời này mình biết nhân đời trước đã gây tạo, nên chấp nhận hiện cảnh,
không thán oán than trách ai. Từ đó mà tránh tạo nhân xấu để đời sau không
bị đau khổ. Còn người đầy đủ điều kiện tu hành tốt thì biết đời trước đã
sâu trồng căn lành, nên bây giờ cố gắng giữ gìn và phát huy nhiều hơn nữa.
Chúng ta nắm
vững luật nhân quả như thế thì việc tu không khó nữa. Hiện thời đầy đủ
tươi tắn, không có việc nọ việc kia, tu tốt, ta nên phấn đấu nhiều hơn
nữa. Hoặc hiện đời bị nhiều chướng duyên thì ta vui lòng trả hết những
nhân xấu đời trước của mình, cố gắng phấn đấu quyết liệt để bù đắp vào chỗ
khuyết cũ mà vươn lên. Ý nghĩa tu hành hay ở chỗ đó. Vì vậy người Tây
phương hay nói muốn là được quyết là thành và có sự thành công nào mà
không đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt.
Việc tu hành
của chúng ta cũng vậy, sáng thời kinh chiều ít câu niệm Phật, rồi đi đông
đi tây hoặc lo chuyện nọ chuyện kia, như vậy muốn thành Phật sao được ?
Bản thân ta tự lừa dối mình còn không thể chấp nhận, huống là lại lừa dối
Phật. Muốn hết khổ được vui thì phải kiên quyết tu tập mới được chứ!
Những gì không cần thiết dẹp qua một bên, giữ tâm thuần không tạp mới có
thể thành công.
Có vị Thiền sư
diễn tả phương thức hành thiền của mình qua hình ảnh người thợ rèn. Người
thợ rèn khéo tay muốn làm một con dao thuần thép thật bén thật tốt, thì
phải lọc hết những cặn bã ra, rồi bằng thủ thuật của mình nấu luyện cho
đến nơi đến chốn, bấy giờ mới được một con dao tốt như ý mình muốn. Việc
tu hành cũng vậy, trước nhất phải loại tất cả những tư tưởng tạp loạn, sau
mới lắng tâm chuyên sâu vào thiền định. Tâm thái an nhiên, không tạp loạn
mới nhập định dễ dàng. Ngồi thiền cũng chỉ một việc duy nhất là phấn đấu
loại bỏ các thứ vọng tưởng. Tâm kiên định chuyên nhất như vậy mới có thể
thành công.
Thường thì nói
đến tu thiền là nói đến kiến tánh. Kiến tánh là thấy tánh. Tánh gì? Tánh
chân thật của chính mình. Nếu người thấy tánh, xem như đã đi được nửa đoạn
đường giác ngộ rồi. Tuy nhiên kiến tánh mà không chịu tu thì cũng sẽ không
bao giờ được giác ngộ. Điều này chúng ta đọc trong kinh Pháp Hoa thấy rõ
ràng, chính đức Thế Tôn đã nói, Ngài thành đạo với tất cả công đức viên
mãn từ sự tinh tấn vượt bậc trong quá trình công phu của Ngài.
Vì vậy đối với
người tu thiền, kiến tánh rất quan trọng. Giai đoạn kiến tánh, công phu
thường lóe lên những tiểu ngộ, dần dần sâu hơn và sẽ đi đến đại ngộ, tùy
mức độ dụng công của mỗi hành giả. Tiểu ngộ thuộc về giải ngộ, ngộ này rất
nhiều. Đại ngộ và triệt ngộ thuộc về chứng ngộ, đại ngộ thì đôi ba lần còn
triệt ngộ là cái ngộ rốt ráo, viên mãn. Đôi khi không để ý nhưng thực sự
trong cuộc sống hiện tại, nếu có tu hành chúng ta cũng đã từng giải ngộ,
tiểu ngộ. Mỗi lần như thế ta vững niềm tin hơn đối với pháp tu và đối với
chính mình.
Ví dụ lúc
trước ta chưa hiểu đạo, gặp một sự đổi thay nào ta cũng dễ bị sốc. Nhưng
khi đã hiểu đạo rồi, biết cuộc đời vốn vô thường nên gặp những thay đổi
bất thường ta ít khổ, ít mất bình tĩnh hơn trước. Hôm nay người thương,
ngày mai lại ghét đối với ta cũng là chuyện thường tình, bởi tâm không
thật, vốn luôn thay đổi thì có gì phải đau khổ oán trách. Như vậy là ta đã
giải ngộ rồi. Chỉ mới giải ngộ thôi cũng đã thấy giải thoát biết bao
nhiêu.
Cái luôn đổi
thay mà ta muốn cố định hoài mới khổ. Ví dụ mình muốn ai đã thương mình
thì phải thương đời đời, không được thương người khác. Chuyện đó không
đúng lẽ thật. Bởi thế gian là vô thường, làm sao không thay đổi được.
Chính những sự việc thông thường như vậy làm cho người ta đau khổ điêu
đứng. Sự đổi thay là quy luật tuần hoàn, luôn luôn như vậy. Cho nên tu là
tu ngay trong những đổi thay, trong cõi giả tạm luôn biến chuyển này.
Chính trong những hoàn cảnh không thuận lợi, ta giữ vững công phu liên tục
thì sẽ có nhiều cơ hội để giải ngộ, tiểu ngộ và đôi khi là đại ngộ nữa.
Đây là điểm người tu thiền cần phải biết và vận dụng vào công phu của
mình.
Sau khi đã
được như vậy, tất cả những ham muốn bất thiện sẽ không còn tác động được
chúng ta nữa. Đến đây niềm vui trong lòng tràn đầy. Nếu những giải ngộ,
tiểu ngộ liên tục, ta dễ nhập định, những vọng tưởng điên đảo bên trong và
các cảnh giới bên ngoài đều bị ta nhiếp phục. Đó là giai đoạn thứ nhất.
Cứ thế ta tiếp
tục nuôi dưỡng phát triển công phu này thì bước tiếp theo là trạng thái
giác quán sáng suốt. Giác là rõ biết, quán là trí quán. Có giác có quán
thì định tuệ tròn đủ. Đến giai đoạn này tâm sáng suốt, niềm vui của công
phu tu hành lưu xuất từ bên trong, mọi thứ bên ngoài không thể tác động
đến hành giả được. Nếu để ý, quí vị sẽ thấy mình ngồi thiền một tiếng hai
tiếng đồng hồ được yên tĩnh thì mọi đau nhức, nóng bức đều tan biến. Trong
Thiền viện chúng tôi có những vị ngồi thiền cả ngày hoặc hơn nữa vẫn thấy
bình thường. Ngồi được như vậy nhất định phải có sự an lạc lớn lao lắm mới
được.
Thành ra từ
chỗ khó khăn kém cỏi, chưa làm chủ được, chưa khắc phục được mình, nhưng
nếu cố gắng từng bước vươn lên, dần dần chúng ta sẽ điều phục được thân
tâm này. Trong nhà thiền có từ trưởng dưỡng thánh thai, nghĩa là nuôi
dưỡng nội tâm của mình ngày một vững chãi, không tính đến thời gian bao
lâu. Muốn thế, khi dụng công tọa thiền, hành giả cần phải tỉnh giác cao
độ, không để ma ngủ dẫn vào hang tối hay vọng tưởng kéo chạy tận trời đông
trời tây.
Hôn trầm và
vọng tưởng là hai bệnh khó trị nhất đối với người tu thiền. Ở trên bồ đoàn
trang nghiêm như thế, có những câu thơ hồi xưa của ai không biết bây giờ
kéo về, nó nói là của mình. Thế là ta bắt đầu dệt lên dệt xuống, ý tứ phát
ra câu thứ nhì, thứ ba cho tới câu kết. Bài thơ thứ nhất xong rồi, hay quá
là hay, nên bài thơ thứ hai hiện ra tiếp. Một tiếng rưỡi, hai tiếng đồng
hồ hết bị tứ cú này tới lục bát kia, cũng có người nhập định trong trường
hợp như vậy. Nhập định kiểu này thì ta có rất nhiều tập thơ, đủ thứ chuyện
trên đời, chỉ một chuyện đó không thôi là ông Phật của mình đâu mất tiêu.
Trường hợp thứ hai làm cho chúng ta bị loãng công phu là hôn trầm, tức ngủ
gục. Một khi ma ngủ đã dẫn đi thì rất khó cưỡng lại. Hành giả tu thiền nếu
không chấn chỉnh, để ngủ gà ngủ gật thì việc tu tập như đi vào hang tối.
Cho nên trong nhà thiền thường nói bị ma hôn trầm đưa vào hang quỷ, khó có
thể thoát ra được.
Hai trường hợp
vọng tưởng và hôn trầm đều phá hủy hết công phu tu thiền của chúng ta.
Nhưng chúng lại là hai căn bệnh phổ thông mà hầu hết những người tu thiền
đều bị vướng phải. Cho nên phải có sức giác quán mạnh mẽ, liên tục mới
công phá nổi hai thứ chướng ngại này. Đây là giai đoạn thứ hai.
Kế đến là giai
đoạn nội tỉnh. Sau khi đã được định thì phần nội tỉnh hùng mạnh hơn. Nội
tỉnh là năng lực cơ bản bên trong, có nội tỉnh rồi thì sức định càng vững
chắc hơn và nguồn an lạc bây giờ vượt hơn trạng thái an lạc ở giai đoạn
trước. Đến đây rồi hành giả bình thản, an nhiên, tự tại, siêu việt các
pháp, hoàn toàn làm chủ được thân tâm và ngoại cảnh. Tuy nhiên nếu không
giữ gìn, không nuôi dưỡng liên tục, chỉ lóe lên rồi mất, sau đó lại bị
cảnh duyên bu bám, làm gián đoạn công phu thì chỗ yên định ấy cũng không
còn. Đó là khiếm khuyết thường mắc phải của những người tu thiền.
Giai đoạn này
như Hòa thượng Viện trưởng nói là nhận ra tánh giác. Nhưng sống được với
tánh giác mới là thuần thục. Bấy giờ giác thể trùm khắp, không phải khởi
dụng gì nữa. Người được như vậy khỏi phải nhập thất, khỏi công phu, khỏi
tụng kinh ngồi thiền nữa, mà nhậm vận tùy duyên, luôn sống được với ông
chủ, tánh giác lúc nào cũng hiện tiền. Đến đây là giác ngộ gần được viên
mãn rồi.
Giai đoạn cuối
cùng mọi cảm thọ khổ vui đều không còn nữa. Hành giả thể nhập bản tâm hoàn
toàn thanh tịnh. Giai đoạn này dành cho hành giả tự chứng tự biết, chứ
không thể diễn tả được. Các Thiền sư luôn nhắc nhở người tu thiền, gặp
những cảnh duyên thuận nghịch, không tự chủ được, thì hoặc là bị ma hoan
hỷ nhập, hoặc ma sầu bi nhập. Tóm lại người tu không có nội tại vững chắc,
siêu vượt tất cả thì dễ mắc kẹt bên này bên kia. Đó là do công phu chưa
thuần, con đường đi đến giác ngộ giải thoát còn xa.
Đỉnh cao của
người tu Phật là giải thoát. Tất cả những gì giả tạm trói buộc đều phải
được cởi bỏ hết. Có khi ta ngồi chơi yên lặng bình thường, gió thổi, chim
kêu, xe chạy… mọi thứ sinh hoạt đều nhận biết rõ ràng, tâm bình thản,
không vướng mắc vào thứ gì hết. Đây chính là phút ta sống với cái chân
thật của chính mình. Cho nên chỗ rốt ráo của đạo không khó, chỉ vì chúng
ta quen chạy theo các cảnh duyên bên ngoài, vì vậy bị lầm qua mất. Một khi
trí tuệ mở khai, quày đầu trở lại, thì ta hiện sờ sờ ra đó thôi.
Có một Thiền
sư lâm bệnh ngặt, Ngài nguyện thế này: “Nếu ngay bây giờ con chết, vì
nghiệp tập nhiều đời nếu phải đọa vào trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
con sẵn sàng trả. Trong thời gian trả đó con chỉ có một nguyện duy nhất là
chủng trí Bát-nhã không mất. Từ trí tuệ Bát-nhã này cộng thêm sự hỗ trợ
của mười phương các bậc hiền thánh, con trả hết những nợ nần cũ rồi, được
nương tuệ Bát-nhã tu hành, không mong gì khác”. Nhờ quyết tâm như vậy, cơn
bệnh của Ngài giảm dần, từ từ lành hẳn. Rõ ràng đạo lực mạnh mẽ thắng được
nghiệp lực cũ của Ngài.
Người tu đứng
trước cái chết khác hơn người đời. Càng nghĩ đến chết thì càng xem thường
thân mạng, chỉ lo tập trung nuôi dưỡng đạo lực kiên cố, để khi xả bỏ thân
mạng, thọ thân sau tiếp tục việc tu hành nhiều hơn trước. Còn sợ chết tức
là đạo lực chưa vững. Chỉ nên sợ đạo lực của mình chưa vững, công phu tu
hành chưa tròn đầy, chứ không nên sợ mất thân này. Mất thân này, thọ thân
khác tốt hơn thì vẫn tu được, sao lại sợ? Người tu đối với việc sống chết
phải có cái nhìn như thế. Được như thế mới mong tiến trên con đường giác
ngộ giải thoát.
Thần thông của
người làm chủ được mình chính là đứng đi tự tại, chứ không phải bay trên
trời trên mây. Gặp việc tùy duyên ứng phó, lòng thanh thản nhẹ nhàng,
không bị thứ gì cuộc trói chính là thần thông. Cho nên người càng ở sâu
trong thiền định càng sáng suốt chứ không ngu độn. Bởi vì tu thì mọi thứ
lăng xăng buông hết, tâm rỗng rang sáng suốt, chứ không thể ngu độn được.
Đây chính thần dụng của một trí tuệ đã tròn đầy.
Phật tử tu
thiền nhưng có biết Thiền là gì không? Thiền tiếng Phạn nói đủ là thiền
na, Trung Hoa dịch là tĩnh lự, tức dứt tất cả niệm lự ngược xuôi, không
vướng bên này không kẹt bên kia, rỗng rang sáng suốt. Ví dụ khi cuốc đất,
ta chú tâm vào mỗi lưỡi cuốc hạ xuống mảnh đất, hết cuốc này đến cuốc
khác, chỉ biết một việc cuốc, tâm không duyên theo chuyện khác. Đó là tu
thiền. Cuốc đất trồng khoai, nấu cơm, làm tất cả các công việc mà không
vướng mắc, không phan duyên thứ khác đều gọi là tu thiền, chứ không phải
lên bồ đoàn ngồi nhìn xuống mới gọi là tu thiền. Trong tất cả việc làm đều
có sự tỉnh giác, tức đều có ông chủ hằng thấy hằng biết, không bị quên
mất, đó là hành thiền. Việc ngộ đạo thường phát sinh từ những việc như
thế.
Trở lại vấn đề
giác ngộ. Chúng ta tu để được giác ngộ, nhưng phải biết giác ngộ cái gì?
Giác ngộ lý vô thường, thấy được thực chất của các pháp. Như lâu nay Hòa
thượng dạy chúng ta, người tu phải thấy tận căn để các pháp. Như đức Phật
khi đã chứng đạo, Ngài thấy đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt và
đây là con đường diệt khổ. Đó là thấy được lẽ thực của các pháp. Như chúng
ta có tu chút ít, khi thấy cái đồng hồ đẹp mọi người muốn tranh giành nó
về phần mình. Nhưng nhờ biết tu, ta thấy cái đồng hồ ấy không thật, chỉ
tạm dùng trong một giai đoạn thôi, có gì phải tranh giành cho nhọc. Nhờ
thế ta không có tâm tranh hơn thua được mất, có cũng tốt không có cũng
tốt. Đó là mình đã ra khỏi sự cố chấp, buộc ràng vào cái đồng hồ, là giác
ngộ một phần nên khỏe được một phần.
Người thế gian
khổ là tại cố chấp mà ra. Những gì của tôi mà ai đụng đến là có chuyện
ngay. Mầm mống của tất cả sự tranh đấu cũng từ đây mà phát sinh. Phật bảo
đó là gốc của vô minh. Muốn giải thoát khỏi vô minh chỉ có thắp lên ngọn
đuốc trí tuệ thôi, không có cách nào khác. Cho nên có trí tuệ thì mới nói
đến giác ngộ giải thoát. Người không có trí tuệ thì việc tu không đi tới
đâu. Cho nên Hòa thượng thường dạy phải dùng trí Bát-nhã nhìn các pháp mới
có thể thấu suốt được bản tánh của nó. Cái nhìn đó là cái nhìn của người
kiến tánh, từng bước tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.
Chúng ta có tu
thì ít nhiều gì cũng có giác ngộ, nên đối với tất cả các pháp, cũng thấy
được phần nào thực chất của nó. Thấy được như vậy là đã ra khỏi phần sự
trói buộc của các pháp. Quí vị nghiệm lại nơi mình sẽ thấy rõ điều này.
Như ngày xưa gặp cảnh duyên gì trái ý nghịch lòng, chúng ta rất khổ sở,
rất bức xúc và khó quên khó nguôi ngoay được, nhưng bây giờ nhờ có tu ta
biết tất cả đều hư dối giả tạm, ôm giữ phiền não trong lòng có ích gì !
Nhờ thế ta mau xả bỏ, không cố chấp như xưa nữa. Đó là đã giải thoát phần
nào rồi.
Các pháp duyên
sinh, thế gian có hợp có tan là lẽ thường tình. Thấy được như vậy gọi là
thấy bằng trí tuệ. Theo trí tuệ mà nỗ lực, quyết tâm thì chắc chắn có ngày
chúng ta được giác ngộ giải thoát trọn vẹn. Đây là giai đoạn cuối cùng,
chúng ta không gây thêm nghiệp tập mới để luân hồi trong sanh tử nữa. Cho
nên trong kinh có chỗ định nghĩa Niết-bàn là củi hết lửa tắt, bấy giờ công
phu cũng không còn. Sống được với giác tâm thanh tịnh thì ở đâu cũng là
đất Phật, chúng sanh nào ta cũng thương, không thù hận oán đối. Như vậy
không giải thoát là gì?
Phật nói tất
cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ như nhau, chỉ vì mình không chịu
tin, không chịu nhận lấy và phát huy thôi. Nắm chắc điều đó rồi, chúng ta
cứ vững tiến trên con đường tu tập của mình, chắc chắn có ngày sẽ thành
công. |