PHẨM XIV: PHẬT
1. Ðấng Toàn Giác
Ai chiến
thắng...
Ðức Phật dạy
câu này khi Ngài ngồi dưới cội Bồ-đề, có liên quan đến các cô gái con của
ma vương, và được lặp lại ở nước Kurus, với Bà-la-môn Màgandiyà.
A. Phật
Không Nhận Màgandiyà
Chuyện kể rằng
có một Bà-la-môn têin Màgandiyà, ở nước Kuru (Câu-lâu), có một cô con gái
cũng tên là Màgandiyà (Mạn-la-hoa) đẹp tuyệt trần. Rất nhiều nhà giàu có
và thế lực thuộc dòng dõi Bà-la-môn và Sát-đế-lợi, muốn cưới cô làm vợ
nhưng ông từ chối:
- Các người
không xứng đáng với con ta.
Ngày nọ, khi
đức Thế Tôn quan sát căn cơ chúng sanh vào buổi sáng sớm, Ngài thấy ông
Bà-la-môn cùng vợ ông đều có thể đắc Tam quả (A-na-hàm). Bấy giờ, ông
Bà-la-môn nọ thường canh lửa ở ngoài làng. Thế Tôn đắp y mang bát đi đến
đó. Từ xa, nhận thấy vẽ sáng rực của đức Phật, ông thầm nghĩ: "Trên đời
này không ai sánh nổi người này, rất xứng với con gái ta, ta sẽ gả cho anh
ta". Ông ta nói với Phật:
- Này Sa-môn,
tôi chỉ có một đứa con gái, tôi tìm cho nó một người chồng xứng đôi nhưng
chưa thấy, nên chưa gả cho ai. Ông xứng đáng với nó, tôi sẽ gả nó cho ông.
Hãy đến đợi đây tôi sẽ dẫn nó đến.
Thế Tôn đứng
nghe, không nói gì. Bà La Môn về nhà bảo vợ:
- Bà nó ơi !
Hôm nay tôi tìm được một người chồng xứng với con gái mình. Hãy gả nó cho
anh ta.
Bà La Môn
trang điểm cho con, dắt vợ con đi đến chỗ Phật. Ðám đông hiếu kỳ kéo theo
sau. Ðức Phật, thay vì đứng tại chỗ đã hẹn, đã đi sang nơi khác, cố ý để
lại dấu chân (Khi đức Phật ấn chân và nói: "Hãy để người như thế, như
thế.. nhìn dấu chân", dấu chân chỉ hiện ở nơi ấy và không nơi nào khác)
Vợ ông
Bà-la-môn hỏi:
- Anh ấy đâu?
- Tôi đã bảo
anh ta đứng đây.
Nhìn quanh
thấy dấu chân, Bà-la-môn chỉ cho vợ:
- Dấu chân anh
ấy đây.
Người vợ đã
quen với việc nhận biết dấu hiệu, lập tức bảo chồng:
- Ông à, đây
không phải là dấu chân của người theo đuổi dục lạc.
- Bà này cứ
quan trọng vấn đề. Khi tôi bảo anh ta là tôi sẽ gả con cho, anh ta nhận
lời mà.
- Ông muốn nói
gì thì nói, nhưng đây là dấu chân người thoát khỏi tham dục.
Bà nói kệ:
Dấu chân người tham dục không rõ.
Dấu chân người ác không hằn sâu.
Dấu chân người si mê thì dao động.
Ðây là dấu chân người thoát khỏi lưới đam mê.
Ông Bà-la-môn
gắt:
- Thôi đi, bà
đừng lảm nhảm nữa, im mồm mà đi theo tôi.
Ði tới một
chút, ông thấy đức Phật, bèn chỉ cho vợ:
- Anh ấy đây
rồi.
Ði đến gần,
ông nói:
- Sa-môn, tôi
sẽ gả con gái cho anh.
Thế Tôn thay
vì nói: "Ta không cần đến con gái ông". Ngài nói:
- Này
Bà-la-môn! Tôi có vài điều muốn nói với ông, hãy nghe tôi.
- Nói đi, tôi
sẽ nghe.
Thế Tôn kể cho
người Bà-la-môn nghe câu chuyện xảy ra trong đời Ngài, lúc ẩn tu. Sau đây
là phần tóm lược câu chuyện.
1B. Phật Cự
Tuyệt Các Cô Gái Con Ma Vương
Thái tử, đã từ
bỏ ngai vàng, leo lên lưng ngựa Kiền-trắc, có Xa-nặc tùy tùng, tiến về
trước trên đường ẩn tu. Khi ra khỏi cổng thành, ma vương nói:
- Tất-đạt-đa!
Hãy trở lại, trong bảy hôm nữa Ngài sẽ làm Chuyển Luân Vương.
- Ta cũng biết
vậy, ma vương, nhưng ai không thích điều đó.
- Vậy vì mục
đích gì Ngài đi vào rừng ẩn cư?
- Ta muốn tìm
giác ngộ.
- Ðược rồi, kể
từ hôm nay, nếu Ngài khởi ý nghĩ tham dục, xấu ác, ta sẽ hành động.
Từ đó, ma
vương theo dõi thái tử trong bảy năm, chờ cơ hội. Trong sáu năm, thái tử
khổ hạnh, rồi với sự cố gắng, Ngài đạt giác ngộ dưới cội bồ-đề, Ngài ngồi
tại đấy trải qua niềm vui của sự giải thoát. Khi đó, ma vương ngồi trên
cõi trời, nhìn xuống với vẻ đau khổ, nghĩ thầm: "Ta theo dõi Ngài suốt
thời gian, tìm cơ hội, nhưng chẳng có dịp, giờ đây Ngài đã thoát khỏi
quyền lực của ta!".
Ba người con
gái của ma vương là Tham ái, Sân hận, Dâm đãng hỏi nhau:
- Cha chúng ta
ở đâu?
Nhìn khắp nơi,
họ thấy ma vương đang ngồi đấy, họ đến gần và hỏi:
- Thưa cha, vì
sao cha có vẻ âu sầu và thất vọng đến thế?
Ma vương thuật
câu chuyện, các ma nữ nói:
- Cha đừng vội
thất vọng, chúng con sẽ chế ngự và sẽ dẫn y về đây.
- Các con ơi,
không ai có thể chế ngự Ngài ấy đâu.
- Chúng con là
nữ nhi, chúng con sẽ làm y mù quáng bởi nhục dục. Sẽ dắt y về cha đừng
chán nản.
Họ đến gần
Phật, nói:
- Sa-môn,
chúng em muốn làm kẻ nô lệ cho người.
Thế Tôn chẳng
màng đến lời họ cũng chẳng buồn để mắt tới họ.
Các ma nữ bàn
tán: "Ðàn ông họ thích nhiều hạng. Có kẻ thích thiếu nữ, người khác thích
thiếu phụ xuân xanh, người thích thiếu phụ trung niên, người ưa đàn bà
già. Chúng ta sẽ mê hoặc y bằng mọi hình dáng". Và với thần thông mỗi ma
nữ biến hóa nữ nhân đủ mọi lứa tuổi. Hoặc là thiếu nữ hoặc thiếu phụ chưa
sanh con, đã sanh con, một con, hai con, thiếu phụ trung niên, lão bà, họ
lui tới gặp Phật sáu lần, và nói:
- Sa-môn,
chúng em muốn làm nô lệ Ngài.
Ðức Thế Tôn
cũng chẳng để ý đến, thái độ tự tại, làm như các thứ tạo nên thân Ngài
thảy đều tan hoại. Nhưng sau đó chúng chẳng chịu rút lui, Thế Tôn bảo:
- Hãy đi! Các
ngươi thấy gì mà gắng sức mê hoặc Ta? Hành động như vậy chỉ có kết quả với
ai chưa giải thoát tham dục và những đam mê thấp hèn. Như Lai đã thoát
khỏi tham dục. Các người muốn chế ngự Ta được sao?
Ngài nói kệ:
(179) Vị chiến thắng không bại,
Vị
bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai
dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích?
(180) Ai giải tỏa lưới tham,
Ái
phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai
dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích?
Nói kệ xong,
nhiều thiên thần được pháp nhãn, ba cô ma nữ biến mất.
Ðức Phật bảo
Bà-la-môn:
- Màgandiyà,
ngày xưa ta đã thấy ba ma nữ ấy, thân thể như vàng ròng tinh khiết không
có đờm dãi và những thứ bất tịnh khác của thân thể, Ta cũng không hề khởi
tham đắm. Còn thân ái nữ ông, đầy đủ ba mươi hai thứ bất tịnh, một cái
bình nhơ uế được sơn phết. Dù cho chân Ta lấm bùn, cô gái này nằm phục ở
ngưỡng cửa Ta, Ta chẳng muốn chạm đến cô, dù là chỉ bằng gót chân.
Ngài nói kệ:
Ðã
từng thấy Tham ái, Sân hận, Dâm dục,
Ta
không hề khởi tham đắm.
Thân thể xấu xa như thế này,
Ta
không muốn chạm đến dù gót chân.
2. Thần Thông Song Hành
Người trí
chuyên thiền định ...
Ðức Phật dạy
câu này khi Ngài ở tại cổng thành Sankassa, liên hệ đến nhiều thiên, nhơn.
Nhưng câu chuyện bắt đầu từ Vương Xá.
A . Phật
Quở Tân Ðầu Lư
Có một lần,
một nhà Trưởng giả thành Vương Xá đến sông Hằng để tắm. Ðể khỏi mất đồ
trang sức và y phục, ông đặt tất cả vào giỏ mây. Lúc ấy có một cây bạch
đàn đỏ mọc bên bờ sông Hằng, rễ bị sóng nhồi bật gốc lên, đổ xuống sông
Hằng bị những tảng đá dưới sông từ từ đánh gãy vụn từng mảnh. Một mảng gỗ
bị nước mài nhẵn, trôi lềnh bềnh gần giỏ mây và bị mắc vào đó. Trưởng giả
hỏi:
- Cái gì thế?
- Thưa một
khúc cây, người hầu trả lời.
Ông bảo đem
đến xem, và tự hỏi: "Gỗ này là loại gỗ gì?" Ông lấy búa tách ra một mảnh
và thấy rằng đấy là loại gỗ bạch đàn đỏ, loại màu cánh gián. Ông Trưởng
giả chẳng tin một tôn giáo nào, nhưng rất công bình. Cầm khúc gỗ đỏ đẹp
ông nghĩ: "Ở nhà ta có cả khối loại gỗ này, ta sẽ làm gì với khúc gỗ này".
Rồi ông tự nghĩ: "Có nhiều người tự xưng là A-la-hán, họ nói: Chúng tôi là
A-la-hán. Nhưng ta chẳng biết một vị A-la-hán nào. Ta sẽ bảo tiện một cái
bát bằng gỗ này, lấy dây treo lên một giàn tre cao khoảng sáu mươi cubits
(khoảng hai trăm thước). Và thông báo: "Nếu ai là A-la-hán, hãy bay lên và
lấy chiếc bát. Người nào lấy được, ta và vợ con ta sẽ làm đệ tử". Nghĩ như
thế, ông trở về, ra lệnh làm chiếc bát gỗ lấy dây treo lên một giàn tre và
tuyên bố:
- Nếu bất cứ
ai trên thế gian này là A-la-hán, hãy bay lên và lấy cái bát này!
Các Lục sư
ngoại đạo nói với ông:
- Cái bát này
chính là vật dành cho chúng ta. Hãy trao nó cho chúng ta.
Nhưng Trưởng
giả chỉ nói:
- Bay lên và
lấy đi.
Vào ngày thứ
sáu, Ni-kiền-tử, nhà khổ hạnh lõa thể bảo đệ tử đi đến nói với ông Trưởng
giả: "Cái bát này chính là dành cho thầy ta, đừng đòi hỏi chúng ta bay lên
không trung chỉ vì một vật nhỏ mọn. Hãy đưa bát đây". Họ đến nói với ông,
và về trả lời:
- Ông ta nói
cái bát chỉ thuộc về người nào có thể bay lên và lấy nó.
Ni-kiền-tử
quyết định đi. Ông ra lệnh cho đệ tử:
- Ta sẽ nhấc
một tay và một chân, và cử động như sắp bay lên. Lúc đó, các ngươi hãy
nói: "Thưa Tôn sư, thầy làm gì thế? Xin thầy đừng phô bày quyền năng ẩn
mật của một vị A-la-hán trước đám đông, chỉ vì một bát gỗ". Nói như thế,
các người kéo tay chân ta xuống, và đẩy ta nằm dưới đất.
Xong,
Ni-kiền-tử đến nói với Trưởng giả:
- Này Ðại
Trưởng giả, cái bát này rốt cuộc không phải là vật của ai khác. Ðừng đòi
hỏi ta bay lên không trung chỉ vì một vật tầm thường như thế. Hãy đưa bát
cho ta.
- Thưa Tôn
ông, hãy bay lên và lấy nó, chỉ có một cách ấy thôi.
Ni-kiền-tử bảo
các đồ đệ:
- Ðược rồi,
đến đây, đến đây.
Khi họ đến,
ông nói:
- Bây giờ, ta
sẽ bay lên.
Nói thế, ông
nhấc một tay và một chân lên. Lúc đó, đám đệ tử la lên:
- Tôn sư! Tôn
sư! Thầy làm gì thế? Tất cả chỉ vì một cái bát gỗ hạ tiện, khốn khổ, cần
gì thầy phải phô bày quyền lực ẩn mật giữa đám đông?
Họ chạy tới,
lôi tay chân ông lại và đặt nằm xuống đất. Ông bảo Trưởng giả:
- Ðại trưởng
giả, mấy đệ tử này không muốn tôi bay lên không trung, xin hãy đưa bát cho
tôi.
- Ðại sư! Hãy
bay lên và lấy đi.
Lục sư ngoại
đạo thử cố công trong sáu ngày nhưng mặc cho họ cố gắng vẫn chẳng lấy được
bát gỗ.
Ngày thứ bảy,
Tôn giả Mục-kiền-liên và Tôn giả Tân-đầu-lư-phả-la-đọa (Pindola
Bhàradvàja) sửa soạn đi khất thực trong thành Vương Xá, các Ngài dừng ở
một tảng đá bằng phẳng và quấn y.
Lúc ấy có vài
người đi săn nói chuyện với nhau:
- Này bạn, sáu
giáo chủ ngoại đạo thường tuyên bố mình là A-la-hán nhưng bảy hôm trước
khi Trưởng giả thành Vương Xá treo một cái bát lên cao và nói: "Nếu ai là
A-la-hán, hãy bay lên hư không và lấy cái bát". Chẳng có ai trong các vị
tự xưng là A-la-hán có thể bay lên hư không. Bây giờ, chúng ta biết chắc
rằng không có A-la-hán trên cõi đời này.
Nghe nói thế,
Tôn giả Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Tân-đầu-lư:
- Này huynh,
có nghe họ nói không? Như là họ đang thách đố Phật pháp. Bây giờ huynh có
thần thông quảng đại, quyền lực siêu nhiên, hãy bay lên hư không và lấy
cái bát ấy.
- Tôn huynh
Mục-liên, Ngài nổi tiếng là bậc thần thông đệ nhất, Ngài hãy lấy bát, nếu
Ngài không lấy, tôi cũng sẽ lấy.
- Huynh hãy
đi.
Tôn giả
Tân-đầu-lư nhập đại định, rồi xuất định Ngài đi quanh một tảng đá rộng ba
dặm dùng đầu ngón chân nhấc bổng nó lên một cách dễ dàng như nhấc một
miếng bông gòn. Ngài bay quanh thành Vương Xá bảy vòng. Thành này cũng
rộng đúng ba dặm, tảng đá hiện lên bao trùm cả thành. Dân cư trong thành
thấy vậy nghĩ: "Tảng đá sẽ rơi xuống đè bẹp chúng ta". Họ run rẫy sợ hãi,
họ đội nia lên đầu và trốn tứ tung. Ðến vòng bay thứ bảy, Tôn giả đẩy tảng
đá ra xa và hiện thân trước dân chúng. Thấy Ngài, họ kêu lên:
- Tôn giả
Tân-đầu-lư! Hãy giữ tảng đá! Ðừng để nó đè bẹp chúng tôi.
Tôn giả hất
tảng đá đi, nó rơi về chỗ cũ. Rồi đáp xuống trên nóc nhà Trưởng giả, ông
này phủ phục sát đất, và nói:
- Tôn giả, xin
bay xuống.
Khi Tôn giả
bay xuống đất, ông mời ngồi, xin phép hạ bát xuống và đặt bốn loại thức ăn
ngon ngọt trong bát đem cúng dường Ngài. Tôn giả nhận bát thức ăn trở về
tinh xá. Những người dân vắng mặt khi ấy, chưa được thấy phép lạ, đã tụ
tập kéo theo sau Ngài và yêu cầu:
- Tôn giả! Xin
thi triển thần thông cho chúng tôi xem.
Tôn giả cũng
lặp lại thần thông như thế cho họ. rồi tiếp tục về tinh xá.
Ðức Thế Tôn
nghe tiếng reo hò hoan hô của đám đông, hỏi A-nan:
- A-nan, họ
hoan nghênh ai thế?
- Bạch Thế
Tôn, Tôn giả Tân-đầu-lư bay lên hư không và lấy cái bát bằng gỗ đỏ, dân
chúng hoan nghênh Tôn giả.
Phật gọi Tôn
giả đến hỏi:
- Có đúng là
ông đã làm như thế ?
- Bạch Thế
Tôn, thật vậy.
- Này
Tân-đầu-lư, vì sao ông làm như thế?
Ðức Phật quở
trách Tôn giả, bắt Ngài đập vỡ cái bát, đem mảnh vụn cho các Tỳ-kheo
nghiền thành bột. Sau đó, Ngài đặt ra giới cấm thi triển thần thông vì mục
đích như thế.
B. Thế Tôn
Hứa Thực Hiện Thần Thông.
Các ngoại đạo
nghe rằng Sa-môn Cồ-đàm đã ra lệnh đập vỡ cái bát, và đã chế giới cấm các
đệ tử thi triển thần thông, họ nói: "Dù cho mạng sống họ tùy thuộc vào
thần thông, các đệ tử Cồ-đàm cũng không dám phạm giới đã chế đặt. Hơn nữa,
Sa-môn Cồ-đàm cũng giữ luật lệ này. Ðây là cơ hội cho chúng ta".
Và họ đi rao
trên khắp đường phố.
- Chúng ta
muốn giữ quyền năng ẩn mật, vì thế trong câu chuyện vừa rồi, chúng ta đã
từ chối không phô bày quyền năng chỉ vì cái bát gỗ. Nhưng đệ tử của Cồ-đàm
đã phô trương tài phép trước quần chúng chỉ vì một cái bát không đáng kể.
Sa-môn Cồ-đàm đã khôn ngoan ra lệnh đập bể cái bát và đưa ra điều luật cấm
đệ tử thi hành phép thuật. Từ nay chúng ta sẽ thi triển phép thuật chỉ với
ông ấy.
Vua
Tần-bà-sa-la nghe thế, đến bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, tin đồn Ngài cấm các đệ tử trổ phép lạ có đúng không?
- Ðúng thế,
đại vương.
- Nhóm ngoại
đạo đang nói rằng họ sẽ thi triển phép thuật với Ngài. Ngài phải làm gì
trong trường hợp đó?
- Nếu họ thi
triển thần thông, Ta cũng sẽ thi triển.
- Ngài không
đặt ra luật cấm thi hành phép lạ đó ư?
- Ðại vương,
Ta không ra luật cho Ta, luật chỉ áp dụng cho đệ tử của Ta.
- Có phải ý
Ngài nói luật do Ngài đặt ra áp dụng cho mọi người trừ chính Ngài?
- Ðại vương,
Ta sẽ trả lời cách khác hơn. Này đại vương, đại vương có một vườn thượng
uyển trong hoàng cung, đúng không?
- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
- Ðại vương!
Nếu có người dân nào ăn xoài và các thứ trái khác trong vườn của đại
vương, đại vương sẽ làm gì?
- Con sẽ phạt
họ.
- Nhưng chính
đại vương có quyền ăn những trái cây ấy chứ?
- Thưa vâng,
con không phải bị phạt. Con có quyền ăn những thứ thuộc về con.
- Này đại
vương! Như đại vương cai trị trên vương quốc ba mươi dặm, và chính mình
không bị phạt khi ăn trái cây trong vườn mình, trong khi người khác làm
thế thì bị phạt. Cũng thế Ta có quyền trên tam thiên đại thiên thế giới,
và Ta có thể vượt qua những luật lệ do Ta đặt ra, người khác thì không, do
đó, Ta sẽ thi triển một phép lạ.
Khi các nhà
ngoại đạo nghe những lời này, họ nói với nhau:
- Chúng ta bị
hố rồi! Sa-môn Cồ-đàm tuyên bố rằng luật lệ do ông ấy đặt ra chỉ áp dụng
cho hàng đệ tử, không phải cho ông ấy. Và ông ấy tuyên bố rằng chính mình
sẽ thi triển một phép lạ. Chúng ta phải làm sao?
Vua hỏi đức
Phật:
- Bạch Thế
Tôn, khi nào Ngài thi triển thần thông?
- Vào ngày
trăng tròn tháng Asàlhi, bốn tháng nữa.
- Bạch Thế
Tôn, ở tại đâu?
- Gần thành
Xá-vệ.
(Vì sao đức
Phật chọn địa điểm xa như thế? Vì Xá-vệ là nơi mà tất cả chư Phật đã thực
hiện đại thần lực, và nơi ấy có thể chứa nhiều người).
Các ngoại đạo
nghe như vậy bàn với nhau:
- Bốn tháng
nữa Sa-môn Cồ-đàm sẽ hiển thần thông ở Xá-vệ. Từ đây đến đó, chúng ta phải
theo đuổi ông ta không ngừng. Khi dân cư thấy, họ sẽ hỏi: "Thế này là
sao?". Chúng ta sẽ trả lời: "Các ngươi nên nhớ chúng ta có nói: Chúng ta
sẽ đấu phép với Sa-môn Cồ-đàm. Ông ta chạy trốn nên chúng ta đuổi theo".
Khi đức Phật
đi khất thực trên đường phố thành Vương Xá, ngoại đạo cũng đi theo. Nơi
nào Ngài thọ trai, thì họ nghỉ đêm ở đó, nơi nào Ngài nghỉ đêm, thì họ ăn
sáng ở đó. Khi dân chúng hỏi:
- Như thế
nghĩa là gì?
Họ trả lời như
trên. Dân chúng bảo nhau:
- Chúng ta sẽ
được xem phép lạ.
Và họ kéo theo
sau đức Phật đến Xá-vệ, nhóm ngoại đạo cũng theo sát nút. Ðến nơi họ chuẩn
bị chỗ ở, xài phí cả trăm ngàn đồng tiền để ra lệnh xây cất một cái trại
với cột bằng gỗ xiêm gai, và lợp bằng hoa sen xanh. Làm xong họ tuyên bố:
- Chúng ta sẽ
thực hành phép lạ tại đây.
Vua Ba-tư-nặc
đến bạch Phật:
Bạch Thế Tôn,
các ngoại đạo đã ra lệnh cất trại, con có thể xây cất một cái cho Ngài?
- Không cần,
đại vương, Ta đã có người.
- Bạch Thế
Tôn, ở đây có ai ngang bằng con để xây cất cho Ngài?
- Ðại vương,
có vua trời Ðế Thích.
- Bạch Thế
Tôn, Ngài sẽ thi triển thần thông ở đâu?
- Ở dưới gốc
cây xoài gọi là cây của Ganda.
Các ngoại đạo
nghe nói Phật sẽ hiển thần thông ở dưới cây xoài, lập tức họ nhổ hết rễ
những cây xoài trong chu vi một dặm quanh đó, ngay cả những cây mới mọc
hôm đó, và nếm tất cả vào rừng.
C. Thần
Thông Sơ Khởi.
Vào ngày trăng
rằm tháng Asàlhi, đức Thế Tôn đi vào thành. Cùng ngày đó Ganda, người giữ
vườn thượng uyển, thấy một trái xoài to chín vàng giữa đám lá, bay mùi
thơm ngon. Ganda bèn hái trái ấy, định sẽ dâng lên vua. Trên đường đi, gặp
Phật, chàng nghĩ: "Nếu nhà vua ăn trái này, nhà vua có thể ban cho ta tám
hay mười sáu đồng, không đủ nuôi ta suốt đời. Nhưng nếu ta cúng dường
Phật, sẽ có lợi cho sự cứu rỗi ta không cùng". Và chàng cúng quả xoài chín
cho Phật.
Ðức Phật nhìn
A-nan, A-nan nhận trái xoài và đem dâng Phật. Ðức Phật chìa bát ra nhận
xoài và ngỏ ý muốn ngồi tại đó, A-nan trải tọa cụ. Khi đức Phật ngồi xong,
A-nan lọc nước ép trái xoài thành nước và dâng lên Phật. Phật uống nước ép
trái xoài xong bảo Ganda:
- Ðào một cái
lỗ ở đây và trồng hột xoài xuống.
Chàng giữ vườn
làm y lời Phật dạy. Ðức Phật rửa tay ngay trên chỗ xoài được trồng. Ngay
lúc ấy, một cây xoài cao to tốt tươi mọc lên rất nhanh, cao năm mươi
cubits (cao hơn 25 mét), từ thân cây vươn ra năm nhánh, mỗi nhánh cũng dài
hơn hai mươi lăm mét, bốn nhánh chia bốn hướng và một nhánh mọc thẳng lên
trời. Trong phút chốc, cây xoài phủ đầy bông và trái, và một bên có cành
nặng trĩu từng chùm xoài chín. Các Tỳ-kheo đi theo sau đức Phật, hái xoài
chín ăn xong rồi ra về. Khi nhà vua nghe chuyện cây xoài thần diệu bèn ra
lệnh không cho ai được chặt phá và đặt người canh gác. Vì cây xoài được
trồng bởi Ganda, nên được đặt tên là cây xoài của Ganda.
Hàng thứ dân
cũng được ăn xoài và kêu lên:
- Các thầy
ngoại đạo đê tiện, khi các thầy nghe Sa-môn Cồ-đàm sẽ làm phép màu dưới
chân cây xoài Ganda, đã ra lệnh nhổ tất cả mọi cây xoài trong vòng một
dặm, ngay cả những cây mới mọc cũng lôi rễ lên. Ðấy, cây xoài Ganda đấy.
Nói xong họ
ném xoài thối, hột xoài vào các ngoại đạo.
Ðế Thích ra
lệnh cho thần Gió:
- Hãy nhổ trại
các ngoại đạo và ném xuống cầu.
Rồi ra lệnh
cho thần mặt trời:
- Hãy đốt
chúng.
Các thần làm
xong. Ðế Thích lại ra lệnh:
- Thần Gió!
Hãy thổi mạnh lên!
Thần Gió tung
hết vũ bảo ra. Các ngoại đạo run rẩy, toát mồ hôi đầy mình. Thần gió còn
phun bụi vào họ cho đến khi trông họ giống kiến đỏ. Ðế Thích ra lệnh đổ
mưa, và toàn thể ngoại đạo giống như bò đốm. Trần truồng, hỗn loạn, họ
chạy tứ tán.
Ngay khi họ bỏ
chạy, một nông dân đệ tử của Phú-lan-na Ca-diếp nghĩ thầm: "Ngày mai là
ngày Tôn sư ta thi triển quyền phép, ta phải đi xem". Ông ta tháo cày ra,
và mang bình đựng canh đã đem theo từ sáng sớm, và lấy dây trở về nhà. Khi
Phú-lan-na đang chạy trối chết, ông hỏi:
- Tôn sư, con
về nhà với ý định sẽ đi xem Tôn sư phô bày phép lại. Vậy Ngài đi đâu thế?
Phú-lan-ca
đáp:
- Có gì ngươi
muốn xem phép lạ? Ðưa ta bình đựng nước và sợi dây.
Người nông dân
đưa, Phú-lan-na cầm bình nước và dây, đi đến bờ sông lấy dây cột bình nước
vào cổ, rồi nhảy ùn xuống sông, bọt nước sủi lên, Phú-lan-na đã chết, rơi
xuống A-tỳ.
Ðức Phật biến
hóa một lối đi bằng châu báu trên hư không, chạy dài suốt từ chân trời
phía đông đến chân trời phía tây. Khi chiều đến, người ta kéo đến xem đứng
đông đầy trải dài tới ba mươi sáu dặm. Ðức Phật nghĩ: "Ðây là lúc ta hiển
thần thông". Ngài rời hương thất ra đứng ở sân thượng.
Lúc ấy, một nữ
Phật tử tên Gharanì chứng Tam quả, có thần thông, đứng gần Phật thưa:
- Bạch Thế
Tôn, bao lâu còn một đệ tử như con, không còn nhọc sức Ngài, con sẽ thi
triển một phép lạ.
- Này Gharanì,
người thực hiện thần thông gì?
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ nhận chìm trái đất xuống nước, và lặn xuống đó, rồi trồi lên
xuất hiện ở mặt Ðông trái đất, cứ thế con sẽ xuất hiện ở cực Tây, cực Nam,
cực Bắc của trái đất, và ở giữa. Dân chúng sẽ hỏi "Ai thế?" và người khác
trả lời: "Ðó là Gharanì. Nếu đây chỉ là thần thông của một người đàn bà,
thì thần thông siêu việt của Phật sẽ như thế nào?" Các ngoại đạo sẽ trốn
mất, không cần đợi Thế Tôn.
Phật trả lời:
- Ta biết rõ
rằng con có thể thi triển thần thông như con vừa nói. Nhưng vinh dự này
không phải của con.
Gharanì tự
nhủ: "Ðức Thế Tôn từ chối đề nghị của ta, chắc có một ai có thể thi triển
thần thông vĩ đại hơn ta". Cô đứng qua một bên.
Một hôm nam cư
sĩ tên Culla Anàthapindika nghĩ thầm: "Bao lâu đức Thế Tôn còn có đệ tử
như ta, người chứng đến Tam quả, thì Ngài không bận tâm đến chuyện này".
Ông đến bạch
Phật:
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ thực hiện một thần thông.
- Thần thông
gì?
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ hóa thành Ðại Phạm thiên, cao lớn mười hai dặm, đứng giữa quần
chúng, rống lên như sấm sét, bão tố, con sẽ rung chuyển trái đất như Ðại
Phạm thiên rung chuyển quả đất. Dân chúng sẽ hỏi nhau: "Tiếng gì thế?" và
người khác sẽ trả lời: "Ðó là tiếng động đất gây ra bởi Culla
Anàthapindika". Các ngoại đạo nói: "Ðó mới chỉ là quyền năng của một cư
sĩ, còn quyền năng của Phật như thế nào?" Nói xong họ sẽ bỏ chạy mà không
đợi gặp Ngài.
Ðức Thế Tôn
cũng trả lời như với Gharanì "Ta biết con có quyền năng đó". Và từ chối
đề nghị.
Một cô bé
Sa-di lên bảy tuổi tên là Cìrà (Ly-la) đã đạt được Tứ thông, đến bạch
Phật:
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ thực hiện một thần thông.
- Thần thông
gì?
- Con sẽ xếp
ngọn núi Tu-di, tất cả nhũng ngọn núi trên trái đất, luôn cả rặng Hy-mã
thành một hàng, và con bay lượn trên những ngọn núi ấy như một con ngỗng
trời và không chạm đến núi. Dân chúng thấy con sẽ hỏi: "Ai thế?" và họ sẽ
được trả lời: "Ðó là cô bé Sa-di Ly-la". Các ngoại đạo sẽ nói: "Chỉ một cô
bé bảy tuổi mới là Sa-di còn có thần thông như thế, thì thần thông của
Phật ra sao?" Và họ sẽ chạy trốn không đợi gặp Thế Tôn.
Ðức Phật cũng
từ chối y như trước.
Ðến một chú
Sa-di bảy tuổi tên Cunda (Thuần Ðà), đã đạt Tứ thiền và giải thoát mọi
tham dục, bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ thực hiện một thần thông.
- Thần thông
gì?
- Con sẽ vác
trên vai một cây hồng táo lớn, tượng trưng cho cõi Diêm-phù-đề, vẫy tới
vẫy lui, sẽ đưa những nhánh táo sai trái cho mọi người ăn. Cũng như vậy
con sẽ mang đến hoa san hô.
Rồi Tỳ-kheo ni
Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) đến bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ trổ thần thông.
- Thần thông
gì?
- Trước mắt
mọi người trong mười hai dặm, con sẽ biến thành Chuyển Luân Vương với đoàn
tùy tùng bao quanh ba mươi sáu dặm, đến đảnh lễ Phật.
- Ta biết thần
thông của ngươi.
Phật cũng từ
chối.
Tôn giả
Mục-kiền-liên đến bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, con sẽ hiện thần thông.
- Thần thông
gì?
- Con sẽ đặt
ngọn núi Tu-di, chúa tể các ngọn núi, giữa hai hàm răng và cắn nó như cắn
một hạt đậu.
- Rồi gì nữa?
- Con cuộn
tròn quả đất như một chiếc chiếu và ép chặt giữa những ngón tay.
- Rồi gì nữa?
- Con sẽ xoay
trái đất như một bánh xe của thợ gốm, và con sẽ cho mọi người nếm thức ăn
của đất.
- Rồi gì nữa?
- Con sẽ sử
dụng núi Tu-di như một cây dù, nhấc quả đất đặt lên đó, cầm một tay như
một nhà sư cầm cây dù nơi tay, đi dạo trên hư không.
- Ta biết thần
lực của ông.
Ðức Phật cũng
từ chối lời đề nghị của Tôn giả.
Mục-kiền-liên
nói:
- Chắc chắn
Thế Tôn biết người nào có thể hiển thần thông quảng đại hơn ta.
Và Tôn giả
đứng qua một bên.
Ðức Phật bảo
Tôn giả:
- Này
Mục-kiền-liên, việc này không phải việc của ông. Gánh nặng của Ta không
giống gánh nặng của bất cứ ai, và không ai có thể gánh vác nó được, nên
không có gì lạ khi chẳng ai gánh vác thế Ta được. Trong quá khứ cũng thế,
do ý muốn của Ta, Ta thọ sanh làm súc, cũng không có ai có thể gánh vác
gánh nặng ấy cho Ta.
Nghe Phật nói
thế, Tôn giả thưa:
- Bạch Thế
Tôn, việc ấy ra sao, và xảy ra lúc nào?
Phật bèn nhắc
lại chuyện tiền thân Kanha Usabha:
Vì trọng tải
quá nặng, vì con đường lún bùn,
Chúng thắng
ngựa Blackie, và nó lập tức chở hàng đi.
Phật cũng nói
tiếp chi tiết chuyện tiền thân Nandi Visàla để làm vấn đề sáng tỏ hơn:
Nên luôn luôn
nói lời dịu dàng, không bao giờ nên nói thô bạo,
Với người nói
lời dịu dàng, nó kéo một trọng tải thật nặng nề,
Và làm người
ấy giàu có, tất cả chỉ vì nó thích người ấy.
Sau khi nhắc
lại các chuyện tiền thân, Ngài bước đi trên con đường trân bảo, đoàn tùy
tùng theo sau trải rộng mười hai dặm phía trước Ngài, mười hai dặm phía
sau, mười hai dặm bên tay trái, mười hai dặm bên tay phải. Thế Tôn đứng
oai nghiêm giữa một đám đông khổng lồ bao quanh hai mươi bốn dặm và hóa
hiện thần thông Song Hành.
D. Phật
Hiện Thần Thông Song Hành
Thế nào là
thần thông Song Hành của Như Lai? Trong dịp này, Thế Tôn hóa hiện thần
thông Song Hành, thần thông vi diệu hơn bất cứ thần thông nào của chúng đệ
tử. Từ trên thân Ngài phóng ra lửa, và từ dưới chân Ngài phun nước, hoặc
dưới thân tuôn lửa, trên thân tuôn nước. Trước mặt tuôn lửa, sau lưng tuôn
nước, hoặc trước mặt tuôn nước, sau lưng tuôn lửa. Từ hai tai, hai mắt,
hai lỗ mũi, hai vai, hai tay, hai bên hông, hai chân, đầu ngón chân và gót
chân, nơi mỗi phần trên thân Thế Tôn lần lượt tuôn lửa và nước. Những
luồng lửa nước lóng lánh đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng và màu kim
tuyến chói lọi. Thế Tôn đi, hóa thân của Ngài đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi;
hóa thân nằm thì Thế Tôn đi, đứng hoặc ngồi. Ðây là truyền thống thần
thông Song Hành của đức Phật.
(Thần thông
này, đức Thế Tôn biểu hiện khi Ngài đi lên đi xuống trên con đường trân
bảo. Lúc đó Ngài nhập hỏa đại tam-muội thì lửa từ trên thân tuôn ra, và
khi nhập thủy Ðại Tam-muội thì nước tuôn từ dưới thân. Tất cả những phần
trên thân Ngài đều như vậy, hễ phần này tuôn lửa thì phần kia tuôn nước và
ngược lại. Những luồng lửa và nước không hề lẫn lộn nhau, cả hai đều bắn
tung xa đến trời Phạm Thiên và trở xuống cõi của Cakkavàla. Sáu sắc trong
những tia lửa và nước ấy, như vàng lỏng chảy từ lò luyện kim, hay là vàng
của vua từ ống chảy ra, chiếu sáng từ cõi Cakkavàla, lên đến Phạm thiên,
rồi trở lại Cakkavàla, như một hình chóp nón và toàn pháp giới ngời sáng
hào quang).
Vào ngày ấy
đức Phật đi lên đi xuống hiển hóa thần thông Song Hành, thỉnh thoảng Ngài
cũng thuyết pháp cho quần chúng nghe, không làm họ chán với bài pháp vô
tận mà làm cho tinh thần họ tăng trưởng hỷ lạc bởi chốc chốc Ngài lại để
họ nghỉ ngơi, thư giãn. Cho nên họ vỗ tay ca ngợi vang rền. Ðức Phật nhìn
vào giữa đám đông và dùng mười sáu cách để quan sát tâm trí mỗi người. Khi
một chúng sanh nào thích thú với bài pháp hay một thần thông nào, Ngài
liền giảng đúng bài pháp ấy và hiện chính thần thông ấy cho người đó. Rồi
nhiều chúng sanh được Pháp nhãn thanh tịnh.
Khi đức Phật
thấy trong số quần chúng đông đảo ấy không ai hiểu ý mình và có thể hỏi,
Ngài liền hóa hiện một thân khác, hóa thân hỏi và Phật trả lời. Khi đức
Phật đi tới đi lui thì hóa thân có những cử động khác và ngược lại. Ðược
thấy thần thông và thuyết pháp, có hai trăm triệu người được Pháp nhãn
thanh tịnh.
E. Ðức Phật
Lên Cung Trời Ba Mươi Ba.
Khi hiện thần
thông xong, đức Phật nghĩ thầm: "Chư Phật quá khứ sẽ ở đâu sau khi hiện
thần thông?". Theo thông lệ, đức Phật sẽ lên cung trời Ba mươi ba và giảng
dạy luận A-tỳ-đàm cho thân mẫu". Nghĩ thế Ngài nhấc chân phải và bước lên
ngọn núi Yugandhara, chân trái đặt lên núi Tu-di, và như vậy với ba bước
chân chấm đất hai lần, Ngài đi sáu trăm tám mươi hai ngàn dặm. Không ai có
thể đo được chiều dài mỗi bước chân của Phật, chỉ biết rằng khi Phật nhấc
chân lên các ngọn núi co đầu thấp dưới chân Ngài, và khi Ngài bước qua
chúng ngẩng lên và đứng ở vị trí cũ.
Trời Ðế Thích
thấy Phật và nghĩ thầm: "Ðức Thế Tôn sẽ ở đây trong ba tháng mùa mưa trên
ngai Hoàng Thạch sẽ làm lợi ích cho vô số chư Thiên. Nhưng nếu Thế Tôn an
cư ở đâu, chư thiên khác sẽ không có chỗ chen chân. Phiến Hoàng Thạch này
dài sáu mươi dặm và rộng năm mươi dặm, Thế Tôn ngồi trên ấy cũng như không
có ai ngồi". Ðức Phật biết ý nghĩ của Ðế Thích, Ngài ném tọa cụ trùm cả
phiến đá Hoàng Thạch. Ðế Thích nghĩ: "Ðúng là Ngài ném tọa cụ trùm hết cả
phiến đá thật, nhưng khi Ngài ngồi lên đó chắc chắn Ngài sẽ thành ra nhỏ
tí". Ðức Phật lại biết được những ý nghĩ ấy nên Ngài trùm phủ phiến đá
trong nếp y của Ngài, như một Sa-môn cao lớn phủ áo nạp lên chiếc ghế đẩu
thấp, và Ngài ngồi lên đó. Lúc ấy, dân chúng ở cõi Ta-bà bỗng nhiên không
thấy Phật, như mặt trăng chợt lặn. Họ hỏi nhau:
- Thế Tôn đã
đi Cittakùta hay Kelàsa hay Yugandhara? Chúng ta không được trông thấy
đấng Toàn Giác, bậc chúa tể thế gian, đấng trí tuệ của loài người.
Họ khóc lóc,
than thở. Những người khác nghĩ thầm: "Ðức Thế Tôn thích độc cư, Ngài khó
chịu khi hiện thần thông như thế cho một đám đông như thế, nên đã đi sang
xứ khác. Chúng ta có còn gặp được Ngài hay không?"
Họ khóc lóc,
rên rỉ, nói kệ:
Ngày vui trong nhàn tịnh,
Ngài đã đi xa không trở lại cõi này.
Chúng ta không còn thấy bậc Tối Thắng,
Bậc chúa tể thế gian,
Bậc hiền trí nhất trong loài người.
Họ hỏi Tôn giả
Mục-kiền-kiên
- Thế Tôn đi
đâu, thưa Tôn giả?
Mặc dầu biết
đức Phật đi đâu, nhưng Tôn giả nghĩ thầm: "Hãy để cho người khác tỏ phép
mầu", nên bảo mọi người:
- Hãy hỏi Tôn
giả A-nậu-lâu-đà.
Và khi mọi
người hỏi, Tôn giả A-nậu-lâu-đà đáp:
- Thế Tôn đã
bay lên cung trời Ba mươi ba, ngồi trên ngai Hoàng Thạch, Ngài sẽ giảng
dạy luận A-tỳ-đàm cho thân mẫu.
- Thưa Tôn
giả, khi nào Ngài trở về?
- Ngài ở đó ba
tháng hạ, và trở về vào dịp giải hạ.
Mọi người reo
hò:
- Chúng ta
không đi đâu cả cho đến khi gặp lại đức Bổn sư.
Họ cắm trại
tại đó, ngủ đêm dưới bầu trời. Và dù đông đảo họ không gây nhơ uế trên
đất, vì khi họ đại tiểu tiện đất nứt ra và khép lại, cho nên lúc nào mặt
đất cũng sạch sẽ.
Trước khi lên
cung trời đức Phật dặn Tôn giả Mục-kiền-liên:
-
Mục-kiền-liên, ông thuyết pháp cho mọi người, còn Cấp Cô Ðộc sẽ cung cấp
thực phẩm.
Như vậy, trong
suốt ba tháng, ông Cấp Cô Ðộc cung cấp đồ ăn, thức uống, trầu cau, hương
hoa cho mọi người. Tôn giả Mục-kiền-liên thì giảng dạy và trả lời mọi câu
hỏi.
Khi Ðức Thế
Tôn đã lên cung trời Ba mươi ba, đã ngồi vào pháp tòa, chư Thiên của mười
ngàn thế giới vây quanh và hầu tiếp Ngài.
Trên cõi trời Ba mươi ba,
Khi đức Phật đấng tôn quý của mọi loài,
Ngồi dưới cội san hô, trên tòa Hoàng Thạch,
Thần tiên mười ngàn cõi tụ về và hầu tiếp.
Ðấng Tối Thắng, ngồi nơi cao nhất của cõi trời,
Không ai chói sáng bằng Ngài,
Chỉ mình Ngài độc nhất, rực rỡ át chư thiên.
Hoàng hậu
Ma-da từ cõi trời Ðâu-suất đến, ngồi bên tay phải của đức Phật, trời
Indaka cũng đến ngồi bên tay phải Phật, và trời Ankura đến ngồi bên tay
trái. Khi các vị trời đầy quyền lực đến dự hội, Ankura phải rời khỏi chỗ
và ngồi một chỗ cách xa mười hai dặm, trong khi Indaka còn ngồi bên tay
phải Phật. Thế Tôn quan sát cả hai, Ngài muốn dạy về phước báo lớn lao của
sự cúng dường xứng đáng, nên bảo Ankura:
- Dù trong
mười ngàn năm ngươi đã cho lập nên những lò sưởi trên suốt quảng đường dài
mười hai dặm, và cúng dường vô số phẩm vật, sau thời gian dài ấy bây giờ
ngươi đến đây nên trong chúng hội của Ta, lại ngồi xa ta nhất tới mười hai
dặm. Tại sao thế?
Thế Tôn nhìn
Ankura và Indak, tuyên bố ai cúng dường giá trị, Ngài nói:
Ankurà, ngươi cúng dường vô số,
Vậy mà sau một thời gian dài,
Ngươi ngồi chỗ thật xa. Hãy đến đây!
Âm thanh ấy
dội xuống mặt đất, dân chúng đang cắm trại dưới ấy đều được nghe.
Ðược đấng Ðạo
sư thức tỉnh, Ankura nói:
- Những thứ
cúng dường ấy đã đem lại ích lợi gì cho con? Người xứng đáng được cúng
chẳng đem lại phước báo gì ư? Dạ xoa Indaka này chỉ dâng chút ít phẩm vật.
Vậy mà ông ấy sáng hơn hết thảy chúng con, như mặt trăng sáng hơn tất cả
tinh tú.
Khi Ankura nói
như thế, đức Phật hỏi Indaka:
- Này Indaka,
ngươi ngồi bên tay phải ta, vì sao ngươi ngồi đây mà không dời đi?
Indaka đáp:
- Bạch Thế
Tôn, như một nông phu gieo một ít hột giống trên thửa ruộng tốt, con nhận
phước lành này nhờ cúng dường đáng giá.
Ðể làm sáng tỏ
vấn đề người nào cúng dường giá trị người nào không, Indaka nói:
Như hột giống,
mặc dù rất nhiều, gieo trên đất xấu.
Không gặt hái
nhiều, không làm nông dân vui thích.
Vật cúng dường
dù nhiều, dâng người ác,
Không gặt quả
nhiều, không lợi ích cho người thí.
Còn hột giống
dù ít, gieo trên đất tốt,
Sẽ gặt nhiều
kết quả, nông phu vui lòng.
Như thế, cúng
dường người đức hạnh, chính trực và thánh thiện.
Dù ít vẫn được
kết quả tốt, phong nhiêu.
Chuyện kể
rằng, nhân dịp Ngài A-nậu-lâu-đà đi khất thực, Indaka cúng dường Tôn giả
một muỗng thức ăn của mình. Nên mặc dù Ankura đã đốt hàng ngàn lò sưởi
trên khoảng đường dài mười hai dặm trong mười hai ngàn năm, và bố thí rất
nhiều, nhưng việc làm của Indaka được kết quả lớn hơn.
Thế Tôn bảo:
- Này Ankura,
phải nhận xét trong khi cúng dường. Với phương cách đó, giống như gieo
giống trên đất tốt, việc cúng dường được quả tốt. Nhưng ngươi không làm
như thế, nên phước báo ngươi không đủ.
Ngài nói kệ:
Cúng dường với sự xét đoán, được quả đây,
Người như thế được sanh thiên.
Như Lai khen ngợi sự cúng dường với óc phán đoán.
Nên cúng dường đến người xứng đáng nhất,
Sẽ
gặt quả tốt, như hạt giống gieo đất tốt.
Ngài nói những
Pháp Cú tiếp theo:
Cỏ
làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời,
Bố
thí người ly tham,
Do
vậy được quả lớn.
Cỏ
làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố
thí người ly sân,
Do
vậy được quả lớn.
Cỏ
làm hại ruộng vườn,
Si
làm hại người đời.
Bố
thí người ly si,
Do
vậy được quả lớn.
Cỏ
làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố
thí người ly dục,
Do
vậy được quả lớn.
Và ngồi giữa
chúng hội chư thiên, đức Phật muốn lợi lạc cho thân mẫu nên bắt đầu giảng
dạy luận A-tỳ-đàm, bắt đầu bằng những câu: "Những điều này tốt, những điều
này xấu, những điều này không tốt, không xấu". Suốt ba tháng Ngài dạy luận
A-tỳ-đàm không ngừng. Lúc nào đi khất thực, Ngài hóa ra một thân khác và
bảo: "Hãy nói pháp cho đến lúc Ta trở về". Xong, Ngài đi đến núi Hy-mã,
sau khi đánh răng và súc miệng nơi hồ A-nâu-đạt (Anotatta), Ngài nhận thức
ăn từ châu Uất-đơn-việt (Uttarakura), và ngồi trong vườn của một Trưởng
giả Ngài dùng bữa trưa.
Tôn giả
Xá-lợi-phất lên đến trời Ðâu-suất và làm thị giả cho đức Phật. Khi Phật
thọ trai xong, Ngài nói:
- Xá-lợi-phất
hôm nay Ta đã nói pháp như thế như thế, ông có thể thuật lại cho năm trăm
Ty-kheo tu học với ông.
Và Phật dạy
cho Tôn giả. Chúng ta được biết rằng, khi đức Phật hiện thần thông Song
Hành, có năm trăm thanh niên con nhà vọng tộc xuất gia với Tôn giả
Xá-lợi-phất, và để ám chỉ các vị này đức Phật đã nói như trên. Giảng dạy
cho Tôn giả xong, Phật trở lên cõi trời thay vào chỗ hóa thân Phật và nói
tiếp. Tôn giả Xá-lợi-phất trở xuống nhân gian, nói pháp cho các Tỳ-kheo,
và ngay khi Phật còn ở lại thiên giới, các Tỳ-kheo đạt được Thất giác chi.
Vào thời đức
Phật Ca-diếp, năm trăm Tỳ-kheo này là bầy dơi nhỏ. Chúng ở trong một động
núi, và có hai thầy Tỳ-kheo cư ngụ trong ấy đọc tụng kinh A-tỳ-đàm. Chúng
nghe âm thanh Luận tạng khi bay chung quanh đó và đâm ra yêu thích âm
thanh ấy. Với các câu: "Ðây là các uẩn của chúng sanh, đây là các đại của
chúng sanh", tuy chúng không hiểu ý nghĩa nhưng vì yêu mến tiếng đọc tụng,
chúng được sanh thiên. Vào thời giữa Phật Ca-diếp và Thích-ca, họ ở cung
trời hưởng khoái lạc và tái sanh vào Xá-vệ, trong gia đình vọng tộc. Do sự
kính tin và thần thông Song Hành, họ xuất gia theo Tôn giả Xá-lợi-phất, và
trở thành những người đầu tiên thông đạt Thất giác chi. Ðức Phật tiếp tục
chỉ dạy như thế trong ba tháng. Khi nghe Ngài dạy xong, có tám trăm ngàn
triệu chư thiên đạt được Pháp nhãn, và hoàng hậu Ma-da chứng Sơ quả.
F. Ðức Phật
Xuống Nhân Giới Và Chư Thiên Qủy Thần Hộ Tống
Quần chúng
trong ba mươi sáu dặm, biết lễ giải hạ sẽ đến trong bảy ngày nữa, đến hỏi
Tôn giả Mục-kiền-liên:
- Thưa Tôn
giả, có gì trở ngại không nếu chúng con biết ngày nào đức Phật trở về?
Chúng con sẽ không đi đâu cho đến lúc gặp Phật.
Tôn giả đáp:
- Tốt lắm!
Tôn giả đi đến
chân ngọn núi Tu-di và nghĩ thầm: "Hãy để mọi người thấy ta leo lên". Và
khi Tôn giả bắt đầu leo núi, thân hình Ngài hiển lộ với tấm y vàng trong
suốt. Mọi người theo dõi và reo lên từng chập:
- Tôn giả đang
leo lên một dặm.. hai dặm..
Tôn giả lên
đỉnh núi đảnh lễ dưới chân Phật, lấy đầu mình nâng bàn chân Phật và bạch:
- Bạch Thế
Tôn! Dân chúng muốn đến nơi nào để có thể thấy Thế Tôn, khi nào Thế Tôn
trở xuống?
- Nhưng này
Mục-kiền-liên! Xá-lợi-phất đâu?
- Bạch Thế
Tôn! Tôn giả đang ở cổng thành Samkassa.
- Này
Mục-kiền-liên! Bảy ngày nữa Ta sẽ xuống tại cổng thành Samkassa vào ngày
giải hạ. Ai muốn thấy Ta hãy đến đó.
Khoảng cách từ
Xá-vệ đến Samkassa là ba mươi dặm, và không ai có thể cung cấp thức ăn cho
mọi người trên lộ trình dài như thế. Phật bảo:
- Hãy dạy họ
phát nguyện giữ trai giới (không ăn) và đi theo sức của họ có thể đi, như
thể đang đến tinh xá kế cận nghe pháp.
- Thưa vâng.
Tôn giả trở
lại, nói cho mọi người biết lời dạy của Phật.
Mùa an cư đã
chấm dứt, lễ giải hạ được cử hành. Ðức Phật nói với Ðế Thích:
- Nay là lúc
Ta trở lại cõi người.
Ðế Thích bèn
hóa ra ba con đường bằng bậc thang, một bằng vàng, một bằng ngọc, và một
bằng bạc. Ba con đường dẫn từ núi Tu-di xuống đến cổng thành Samkassa,
đường bằng vàng bên phải dành cho chư thiên và quyến thuộc, đường bằng bạc
bên trái dành cho Ðại Phạm thiên và quyến thuộc, đường chính giữa bằng
ngọc dành cho Thế Tôn. Trong dịp này, Phật đứng trên đỉnh núi Tu-di hóa
hiện thần thông Song Hành và nhìn lên. Ngài nhìn suốt chín tầng trời Ðại
phạm, và khi nhìn xuống Ngài nhìn đến tầng địa ngục Vô gián. Rồi Ngài quán
sát bốn phương tám hướng, nhìn suốt vô tận cảnh giới, người và trời đều
thấy lẫn nhau. Chúng hội đông dầy trong khoảng chu vi ba mươi sáu dặm, ai
đã thấy vẻ huy hoàng của Phật đều mong muốn mình sẽ thành Phật.
Từ trên không
trung đức Phật đi xuống trên con đường bằng ngọc, chư Thiên xuống bằng
đường vàng, Phạm thiên xuống bằng đường bạc. Nhạc thần Càn-thát-bà
(Pancasikha) bay bên phải đức Phật, khảy đàn ca tụng Phật bằng những âm
thanh tuyệt vời. Thần thiên-xa (Màtali) tung hương hoa bên trái đức Phật.
Trời Ðại Phạm cầm lọng, trời Dạ-ma cầm quạt bằng đuôi con Yak. Với các
thiên thần tùy tùng như thế, đức Phật đặt chân xuống cổng thành Samkassa.
Tôn giả Xá-lợi-phất đến đón Phật và đảnh lễ Ngài, và hứng khởi vì chưa bao
giờ thấy đức Thế Tôn trở về trong nghi thức long trọng, vĩ đại của một vị
Phật như thế. Tôn giả nói:
Con chưa từng
thấy, chưa ai từng nghe,
Ðức Bổn sư
thuyết pháp âm êm dịu,
Nay từ
Ðâu-suất trở về với chúng tùy tùng.
Bày tỏ niềm
vui bằng câu kệ và bằng mọi cách xong rồi, Tôn giả bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, hôm nay, tất cả trời người được thấy sự tôn quý của Ngài và theo
Ngài.
- Này
Xá-lợi-phất, với phạm hạnh như vậy chư Phật là bậc tôn quý hơn cả người và
trời.
Ngài nói kệ:
(181) Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm.
Lệ thường của
chư Phật, sau khi hóa hiện thần thông Song Hành đã an cư ba tháng trên cõi
trời, và trở xuống tại cổng thành Samkassa. Ðể ghi dấu nơi đức Phật đặt
bàn chân mặt xuống quả đất, một tinh xá được xây cất tại đây. Ðức Phật sẽ
đặt một câu hỏi vừa sức hiểu của những ai chưa chứng Sơ quả, những người
này trả lời dễ dàng câu hỏi ấy, nhưng không thể trả lời câu hỏi dành cho
những người chứng Sơ quả. Tương tự như thế chứng Sơ quả không thể trả lời
câu hỏi dành cho những người chứng Nhị quả.. cuối cùng người được Tứ quả
không thể trả lời câu hỏi dành cho Tôn giả Mục-kiền-liên, Tôn giả
Mục-kiền-liên không thể trả lời câu hỏi dành cho Tôn giả Xá-lợi-phất, và
Tôn giả Xá-lợi-phất không thể trả lời câu hỏi dành cho Phật.
Ðầu tiên Phật
nhìn về phương Ðông, và các phương kế tiếp. Thật là một pháp hội vĩ đại.
Trời và người đứng khắp bốn phương tám hướng, Phạm thiên phía trên, dưới
là các Long vương, A-tu-la (Supannas), tất cả đều đứng với dáng cung kính,
tất cả đều nói:
- Bạch Thế
Tôn, trong đây không ai có thể trả lời câu hỏi này, xin đừng hỏi thêm.
Ðức Phật nói:
- Xá-lợi-phất
bối rối khi nghe câu hỏi thuộc về Phật trí này: "Tất cả những ai đã tu
theo pháp và chứng quả A-la-hán, tất cả những ai đang tu tập, những ai
chưa chứng quả Dự lưu, Thượng tọa, ông biết đấy, tôi hỏi rồi, ông hãy nói
tôi nghe về việc đi và nói của những người ấy".
Xong, đức Phật
nghĩ: "Mặc dù trong tâm Xá-lợi-phất không hề nghi ý nghĩ của câu hỏi, bởi
ông ấy hiểu Ta đang hỏi về việc đi và nói của những người đang tu tập và
những người đã tu tập đắc quả A-la-hán, nhưng ông ấy lại nghi mục đích Ta
hỏi câu ấy, và ông ta đang suy nghĩ như vầy: "Về các vấn đề uẩn và đại của
hữu tình, hay là vấn đề lục nhập, không biết ta nên nắm ý của Thế Tôn qua
cái nào?" Nếu Ta không khai mở giúp Xá-lợi-phất, ông ấy không thể trả lời
câu hỏi. Nay ta sẽ giúp Xá-lợi-phất". Và Phật hỏi:
- Xá-lợi-phất,
ông có hiểu ý danh từ "hữu tình này" không?
Phật nghĩ
tiếp: "Ngày lúc Xá-lợi-phất hiểu được ý Ta, ông ấy sẽ đáp câu hỏi trong
phạm vi các uẩn của hữu tình".
Ðức Thế Tôn
vừa truyền mật ý, câu hỏi liền hóa ra rõ ràng theo một trăm và một ngàn
cách. Sau khi Thế Tôn gợi ý, Trưởng lão lập tức trả lời câu hỏi.
Chúng ta biết
rằng, trừ các bậc Toàn Giác, không ai có thể trả lời câu hỏi mà Phật nêu
ra với Xá-lợi-phất. Cho nên Trưởng lão đứng trước Phật cao giọng hùng hồn
nói:
- Bạch Thế
Tôn, con có thể đếm số giọt mưa rơi trên biển lớn của tất cả những cơn mưa
trong suốt một kiếp, và cũng thế con đếm được số giọt mưa rơi trên đất
liền, rơi trên núi. Và con có thể đưa ra một con số chính xác.
Phật dạy:
- Này
Xá-lợi-phất, Ta biết khả năng toán số của ông.
Thật vậy,
không gì có thể sánh với trí tuệ của Xá-lợi-phất (Trí tuệ vô tỷ). Vì thế,
Tôn giả nói:
- Cát sông
Hằng vô số, nước biển lớn bao la, vi trần nhiều vô lượng, con có thể dùng
trí tính đếm được tất cả.
(Ý câu kệ trên
như sau: "Bạch Thế Tôn bậc Thánh trí tối thượng, sau khi trả lời câu hỏi
này, con có thể trả lời hàng trăm ngàn câu hỏi khác, mỗi câu được đánh dấu
bằng một hạt cát hoặc một giọt nước hay một hạt bụi. Gồm tất cả số hạt
cát, hạt nước, hạt bụi sông Hằng, không thiếu sót một hạt nào, số hạt bụi
này còn ít hơn khả năng trả lời các câu hỏi của con").
Vị Sa-môn dồi
dào phước báo đã nương theo phương tiện của Phật trả lời câu hỏi thông
suốt, mặc dù lúc đầu Tôn giả không biết đầu đuôi câu hỏi ra sao vì nó nằm
trong lãnh vực Phật trí.
Khi các
Tỳ-kheo nghe kệ này, đã bàn tán như sau:
- Tôn giả
Xá-lợi-phất, vị tướng quân của chánh pháp, đã trả lời câu hỏi mà không ai
trên trái đất có thể trả lời được.
Ðức Phật nghe
những lời bàn tán ấy, dạy rằng:
- Ðây không
phải lần đầu tiên Xá-lợi-phất trả lời câu hỏi mà trên toàn thế gian này
không ai có thể trả lời, ông ấy đã làm như thế ở thời quá khứ.
Ðức Phật kể
lại câu chuyện quá khứ (Jàtaka 99):
Dù cho hơn
ngàn người thiếu trí tụ họp nhau và lảm nhảm cả một trăm năm.
Không bằng một người có trí siêu việt, hiểu rõ điều người khác nói. |