PHẨM XXIV: THAM ÁI
1. Con Cá Vàng
Người sống
đời phóng dật...
Câu chuyện xảy
ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ viên, trong trường hợp của cá vàng
Kapilamaccha.
Chuyện quá
khứ
A. Thầy Tỳ
Kheo Tự Phụ - Ðảng Cướp
Thuở xưa, thời
đức Phật Ca-diếp nhập Niết-bàn, có hai anh em một gia đình quý tộc xuất
gia làm Sa-môn. Người anh tên Sodhana và người em tên Kapila. Cả người mẹ
Sàdhinì và cô em gái Tàpanà cũng xuất gia làm Tỳ-kheo ni. Khi xuất gia, cả
hai anh em đều làm tròn bổn phận với bậc thầy thế độ và các vị Giáo thọ
một cách thành kính. Một ngày nọ, họ hỏi thầy:
- Bạch thầy,
trong tôn giáo này có bao nhiêu bổn phận chánh yếu?
- Có hai bổn
phận: học và thiền định.
Nghe thế,
người anh cả nghĩ thầm: "Ta sẽ hoàn thành bổn phận thiền định". Và thầy ở
lại bên vị Bổn sư năm năm. Nhận một đề mục thiền định dẫn đến quả Tuệ
giác, thầy vào rừng và sau khi nỗ lực hết sức mình, thầy chứng A-la-hán.
Người em nói:
"Ta còn trẻ, khi nào già, ta sẽ thiền định". Thầy chọn bổn phận học tập.
Thầy học thông Tam tạng, do đó thầy có đông đồ chúng và được nhiều lợi
dưỡng. Say sưa với kiến thức đa văn của mình và bị ma tham danh chi phối,
thầy trở nên tự phụ. Thầy hay sửa lưng người khác. Khi người ta nói đúng
thầy bảo sai, khi người ta nói sai thầy bảo đúng, việc có tội thầy nói là
vô tội, việc vô tội cho là có tội.
Các vị Sa-môn
hiền đức vẫn hay khuyên thầy:
- Này huynh
Kapila, đừng nói như vậy.
Các vị nhắc
thầy về điều luật, về Phật pháp. Nhưng Kapila trả lời:
- Các ông biết
được gì? Hỡi những con cá rỗng?
Thầy lại tiếp
tục nhục mạ người.
Các vị Sa-môn
kể lại với thầy Sodhana. Thầy Sodhana khuyên em:
- Này Kapila,
với cương vị Tỳ-kheo, em nên cư xử đúng đắn. Em đừng khinh thường, bác bỏ
các lời khuyên chân thật, và nói năng theo cách của em như thế.
Nhưng thầy
Kapila chẳng màng gì đến lời khuyên của anh. Thầy Sodhana kiên nhẫn khuyên
hai, ba lần thầy Kapila cũng không đếm xỉa gì đến. Thầy chỉ còn biết nói:
- Này sư đệ,
em sẽ mang tiếng xấu vì những hành động thầy nữa.
Thầy Kapila cư
xử xấu và kết hợp một số đồ chúng cũng tệ như thầy. Ngày nọ, thầy tự nói:
"Ta sẽ trùng tuyên Luật tạng tại Pháp đường". Thầy cầm quạt, lên tòa ngồi,
tuyên đọc Luật với câu hỏi thường lệ.
- Thưa các đại
đức, chúng đã nhóm, có ai cần phát lồ?
Các vị Tỳ-kheo
nghĩ thầm: "Trả lời ông ấy chẳng ích lợi gì". Tất cả yên lặng. Kapila
tiếp:
- Này chư
huynh, ở đây không có Giáo lý cũng không có Giáo luật, các vị có nghe đọc
luật cũng như không nghe thôi.
Nói rồi Kapila
xuống tòa. Như thế, thầy đã làm chậm trễ việc giảng dạy giáo pháp của đức
Phật Ca-diếp.
Trong đời ấy,
Trưởng lão Sodhana vào Niết-bàn. Kapila với thái độ như thế đã vào ngục
A-tỳ. Cả mẹ và em gái thầy theo chế nhạo các vị Sa-môn hiền đức, cũng rơi
vào địa ngục.
Thời ấy, có
năm trăm tên cướp, một ngày kia chúng bị rượt bắt, phải vào rừng ẩn náu.
Chúng không tìm được nơi nương thân, và khi gặp một vị ẩn sĩ, chúng vái
chào và thưa:
- Bạch Ngài,
hãy cho chúng con nương tựa.
Vị ấy trả lời:
- Không có nơi
nương tựa nào bằng đạo đức. Tất cả các anh có thể giữ năm giới được không?
- Thưa được.
Chúng bằng
lòng thọ năm giới cấm.
Tôn giả ẩn sĩ
khuyên họ:
- Hôm nay các
anh đã thọ giới, cho dù mạng sống bị đe dọa đi nữa, các anh cũng không
được phạm giới hay có tư tưởng ác.
- Ðược thôi.
Các tên cướp
hứa sẽ giữ giới luật đã thọ.
Dân làng đuổi
theo tận nơi bọn cướp ẩn náu, và giết chết hết tất cả. Chúng được tái sinh
lên cõi trời, tên cầm đầu bọn cướp thành vị thiên chủ cai quản các vị kia.
Sau khi tái sinh nhiều lần nơi các cõi trời, lúc ở cõi cao lúc cõi thấp
suốt vô số kiếp trôi qua trong thời kỳ giữa hai vị Phật, chúng lại tái
sinh trong đời Phật hiện tại vào một làng chài lưới có năm trăm gia đình
gần thành Xá-vệ.
Vị Thiên chủ
đầu thai vào nhà ông xã trưởng làng, những vị còn lại đầu thai trong các
nhà kia. Như thế cùng một ngày tất cả năm trăm vị đầu thai và đều sanh ra
một lượt. Ông xã trưởng nghĩ thầm: "Không biết hôm nay trong làng có các
cậu bé khác chào đời hay không?". Cho người kiểm tra khắp làng ông được
biết tất cả đều tái sinh vào một nơi. "Các cậu này sẽ là bạn của con trai
ta". Ông nghĩ vậy rồi gởi thực phẩm đến nhà nuôi hết các cậu bé. Chúng lớn
lên, chơi đùa với nhau, kết bạn thân cho đến lúc cùng trưởng thành. Chàng
trai lớn nhất trở nên một người danh tiếng, được trọng vọng, làm thủ lãnh
cả nhóm.
Kapila thọ khổ
trong ngục A-tỳ suốt vô số kiếp trôi qua trong thời gian giữa hai vị Phật,
và do dư báo của nghiệp ác, lúc ấy tái sinh làm con cá nơi dòng sông
Aciravatì. Mình cá màu vàng óng nhưng hơi thở hôi thối vô cùng.
Chuyện hiện
tại:
B. Nhóm Dân
Chài Và Con Cá Hôi
Một ngày kia,
đám bạn thanh niên ấy bảo nhau:
- Ta hãy tung
lưới kiếm ít cá.
Họ lấy lưới
quăng xuống sông, xui khiến thế nào con cá vàng lọt vào lưới. Khi dân làng
trông thấy cá, họ mừng rỡ kêu lên:
- Các con
chúng ta lần đầu bủa lưới, đã tóm được chú cá vàng. Thế nào đức vua cũng
ban thưởng một cách hậu hỷ.
Ðám bạn thanh
niên ném con cá lên thuyền, đi yết kiến đức vua. Thấy con cá, vua hỏi:
- Cái gì đấy?
Ðám thanh niên
tâu:
- Tâu đại
vương, đây là một con cá.
Nhận ra đó là
một con cá vàng, vua nghĩ thầm: "Ðức Thế Tôn sẽ biết vì sao con cá này màu
vàng". Vua liền ra lệnh mang cá đi đến ra mắt đức Thế Tôn. Cá vừa mở miệng
ngáp, cả tinh xá Kỳ Viên tràn ngập mùi hôi thối. Vua bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, vì duyên cớ gì con cá này có màu vàng? Và tại sao hơi thở nó hôi thối
đến thế?
- Ðại vương,
vào thời Phật Ca-diếp, con cá ấy là một vị Tỳ-kheo tên Kapila, đa văn,
được đồ chúng theo đông đảo. Do vì buông lung theo lợi dưỡng, ông ấy đã
chửi mắng, lăng mạc các Tỳ-kheo không theo mình. Ông gây chậm trễ việc
truyền bá giáo pháp đức Phật Ca-diếp và bị đọa vào ngục A-tỳ. Sau, từ dư
báo nghiệp ác, lại đầu thai làm con cá. Do nhân duyên giảng dạy giáo pháp
Phật, đọc tụng kinh điển tán thán Phật trong thời gian khá lâu, mình cá
mới có màu vàng ấy. Còn hơi thở thối vì ông đã chửi mắng lăng mạ các
Tỳ-kheo. Ðại vương, Như Lai sẽ khiến ông ấy kể về chính mình đây.
- Bạch Thế
Tôn, xin Ngài dùng mọi cách để ông ấy tự kể về mình.
Ðức Phật hỏi
con cá:
- Ngươi có
phải là Kapila?
- Bạch Thế Tôn
vâng, con là Kapila.
- Ngươi từ đâu
đến?
- Bạch Thế
Tôn, con từ ngục A-tỳ đến.
- Còn anh
ngươi, Sodhana, ra sao rồi?
- Bạch Thế
Tôn, anh ấy đã nhập Niết-bàn.
- Mẹ ngươi, bà
Sàdhini đâu?
- Bạch Thế
Tôn, người bị đọa địa ngục.
- Còn em gái
ngươi, Tàpanà, thì sao?
- Cô ấy cũng
đọa địa ngục, Bạch Thế Tôn!
- Giờ ngươi đi
đâu?
- Bạch Thế
Tôn, ngục A-tỳ.
Nói xong, lòng
đầy ăn năn, cá đập đầu chết ngay tại chỗ, bị tái sanh trong ngục A-tỳ.
Thính chúng vây quanh đều xúc động, lông tóc dựng ngược cả lên. Ðức Thế
Tôn thấy tâm họ thuần phục, bèn giảng bài pháp thích hợp:
Hằng sống trong chánh kiến,
Hằng tu hạnh thanh tịnh,
Ðấy hạt ngọc sang đẹp,
Quý hơn trong tất cả.
Nói kệ rồi,
đức Phật giảng tỉ mỉ toàn bài kinh "Kapila"; sau này được chép trong tập
Suta Nipàta. Ngài nói kệ tiếp:
(334) Người sống đời phóng dật,
Ái
tăng như dây leo,
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng.
(335) Ai sống trong đời này,
Bị
ái dục buộc ràng,
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ bị gặp mưa.
(336) Ai sống trong đời này,
Ái
dục được hàng phục,
Sầu rơi khỏi người ấy,
Như giọt nước lá sen.
(337) Ðây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây,
Hãy nhổ tận gốc ái,
Như thổ gốc cỏ bỉ,
Chớ để ma phái hoại,
Như dòng nước cỏ lau.
2. Con Heo Nái Tơ
Như cây bị
chặt đốn...
Câu chuyện xảy
ra khi đức Thế Tôn ở tại tinh xá Trúc Lâm, liên quan đến chị heo nái tơ nọ
sống lăn lóc trong đống phân.
Chuyện kể
rằng, một hôm đức Thế Tôn vào thành Vương-xá khất thực, gặp một con heo
nái tơ. Ngài mỉm cười, Trưởng lão A-nan trông thấy vầng hào quang chói
sáng từ răng Ngài, liền hỏi lý do:
- Bạch Thế
Tôn, tại sao Ngài cười?
Ðức Phật bảo:
- Này A-nan,
hãy nhìn con heo nái tơ kia.
- Con có thấy
nó, bạch Thế Tôn!
- Vào thời đức
Phật Kakusandha, con heo tơ này là một chị gà ở gần Thiền đường nọ. Chị
thường chăm chú nghe một thầy Tỳ-kheo niệm đề mục thiền tu chứng Tuệ giác.
Chỉ nghe những âm thanh thiêng liêng kia thôi, cũng khiến chị thoát kiếp
được tái sinh vào cung vua, làm công chúa tên Ubbari.
Một hôm công
chúa đi vào nhà xí, thấy đống dòi. Liền tại chỗ ấy, chăm chú quan sát đám
dòi, tâm định tĩnh, cô nhập Sơ thiền. Sau khi mãn kiếp làm công chúa, cô
được sanh vào dòng dõi Bà-la-môn. Từ giai cấp Bà-la-môn, do nghiệp tạo
trong kiếp ấy, bây giờ cô lại tái sinh làm con heo nái tơ này. Ta biết
những cảnh huống ấy nên cười.
Các Tỳ-kheo đi
sau Trưởng lão A-nan lắng nghe đức Thế Tôn nói, rất xúc cảm. Sau khi tác
động tâm tư họ, đức Phật liền giảng giải sự ngu si của tham ái, và vẫn
đứng giữa đường đi, Ngài nói kệ tiếp:
(338) Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền,
Ái
tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài.
(339) Ba mươi sáu dòng ái,
Trôi người đến khả ái,
Các tư tưởng tham ái,
Cuốn trôi người tà kiến.
(340) Dòng ái dục chảy khắp,
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc.
(341) Người đời nhớ ái dục,
Ưa
thích các hỷ lạc,
Tuy mong cầu an lạc,
Họ
vẫn phải sanh, già.
(342) Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới,
Chúng sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài.
(343) Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới,
Do
vậy vị Tỳ-kheo,
Mong cầu mình ly tham,
Nên nhiếp phục ái dục.
Sau kiếp ấy,
chị heo nái tơ tái sinh vào cung vua ở Suvannabhùmi. Hết kiếp, cô tái sanh
ở Ba-la-nại, kiếp sau cô tái sanh ở cảng Supàraka trong nhà một người lái
ngựa, rồi sanh vào nhà một thủy thủ cảng Kavìra. Kế tiếp, cô sanh vào nhà
một gia đình quý tộc cao sang ở Anuràdhapura. Cuối cùng, cô tái sanh làm
con gái ông Sumanà làng Bhokkkanta thuộc vùng phía Nam, được đặt tên theo
cha là Sumanà.
Khi dân chúng
bỏ làng đi hết, cha cô đến vương quốc Diighavaapi, lập nghiệp tại làng
Mahàmuni. Lakuntaka Atimbara, Tể tướng vua Dutthagàmanì, có việc đến đấy
gặp cô, liền cưới làm vợ, đưa về sống tại làng Mahàpunna. Một hôm, Trưởng
lão Anula trú tại tinh xá Kotipabbata đi khất thực ngang qua nhà trông
thấy cô bèn bảo các thầy Tỳ-kheo:
- Này chư
huynh, con heo nái tơ đã trở thành phu nhân ngài Lakuntaka Atimbara, Tể
tướng của đức vua, thật lý thú biết bao!
Nghe những lời
này cô bỗng nhớ hết các tiền kiếp của mình và chứng Túc mạng thông. Xúc
dộng sâu xa, cô xin phép chồng từ bỏ đời thế tục xuất gia theo Tăng đoàn
Tỳ-kheo ni Pancabalaca. Sau khi nghe giảng bài pháp Mahà satipatthàna tại
tinh xá Tissa, cô đắc qủa Dự lưu. Rồi khi người Damilas bị tiêu diệt, cô
trở về làng Bhokkanta sống với cha mẹ. Tiếp đó, nghe bài pháp Asìvisopama
tại tinh xá Kallaka, cô đắc qủa A-la-hán. Ngày cô nhập Niết-bàn, đáp lời
hỏi của các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, cô kể hết câu chuyện cho các Tỳ-kheo Ni
nghe. Giữa một buổi nhóm chúng của các thầy Tỳ-kheo, với sự giúp đỡ của
Trưởng lão Maha Tissa, vị Tỳ-kheo thường giảng nói Pháp Cú đang trú tại
Mandalàràma, cô kể như sau;
- Vào thời xa
xưa, con đánh mất thân người, sanh làm gà mái. Bị diều hâu xớt, và tái
sanh ở thành Vương xá, từ bỏ cuộc đời thế tục, làm một Tỳ- kheo ni hành
khước đây đó và tu đạt đến Sơ thiền. Hết kiếp ấy, con tái sanh vào nhà một
trưởng giả. Nhưng chỉ sống ít lâu, con đã bị đọa làm heo nái. Hết kiếp,
con tái sanh ở Suvannabhùmi, rồi ở Ba-la-nại, ở cảng Suppàraka, ở cảng
Kavìra, ở Anuràdhapura và sau cùng tại làng Bhokkanta. Sau khi trải qua
mười ba kiếp thăng trầm như vậy, kiếp này con cảm nhận được sự bất như ý
của cuộc sống nên từ bỏ thế tục, xuất gia, và chứng quả A-la-hán. Xin chư
vị mỗi người hãy tự mình chánh niệm tinh tấn tiến đến giải thoát.
Lời cô làm tứ
chúng vô cùng xúc động. Sau đó cô nhập Niết-bàn.
3. Thầy Tỳ Kheo Bỏ Ðạo
Ðược thoát
khỏi buộc ràng...
Câu chuyện xảy
ra khi đức Thế Tôn ở tại tinh xá Trúc lâm, liên quan đến một thầy Tỳ-kheo
hoàn tục.
Thầy Tỳ-kheo
kia vốn là đồ đệ Trưởng lão Ðại Ca-diếp, tuy đã đạt Tứ thiền nhưng một hôm
đến chơi nhà ông chú làm thợ vàng, trông thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt,
thầy sanh lòng tham luyến, bèn hoàn tục. Thầy lại làm biếng chẳng chịu mó
tay vào việc gì nên bị đuổi ra khỏi nhà. Từ đấy thầy kết bạn với kẻ xấu,
chuyên sống bằng nghề cướp bóc. Một hôm người ta bắt thầy, trói chặt hai
tay sau lưng, mang đi hành hình, trên đường cứ gặp mỗi ngã tư lại dùng roi
da đánh đập thầy.
Trưởng lão Ðại
Ca-diếp vào thành khất thực, thấy thầy Tỳ-kheo bỏ đạo bị dẫn ra cửa Nam
liền làm cho dây trói lỏng đi, và bảo thầy.
- Ông hãy quán
tưởng lại đề mục định như đã từng làm.
Vâng lời dạy,
thầy Tỳ-kheo bắt đầu thiền định, và nhập Tứ thiền. Lính áp tải đưa thầy
đến chỗ hành hình, bảo:
- Bọn ta sẽ
cho ngươi chết.
Rồi chúng nung
đỏ chông sắt lên. Nhưng tên cướp chẳng hề lo sợ mảy may. Lính xử tội vây
tứ phía đưa cao gươm giáo, lao phóng sáng lòa.
Thấy tên cướp
không tỏ dấu sợ hãi chi cả, chúng phải kêu:
- Thưa các
Ngài, hãy nhìn người này xem. Ðứng giữa trăm người lăm lăm vũ khí, ông ta
chẳng run chẳng sợ. Thật là điều lạ lùng.
Quá kinh ngạc
và thán phục, chúng reo hò ầm ĩ, rồi đến tâu lên vua. Nghe hết chuyện, vua
phán:
- Hãy thả
người ấy ra.
Họ đến bạch
Phật câu chuyện. Ðức Thế Tôn phóng hào quang, phân thân đến pháp trường
nói kệ:
(344) Lìa rừng lại hướng rừng,
Thoát rừng chạy theo rừng,
Nên xem người như vậy,
Ðược thoát khỏi buộc ràng,
Lại chạy theo ràng buộc.
Nghe pháp âm
mầu nhiệm, thầy Tỳ-kheo bỏ đạo đang nằm trên bàn chông lính vây quanh kín
đặc, liền quán tưởng đề mục sanh tử, quán tam pháp ấn, thấu rõ ngã không
và đắc quả Dự lưu. Trong niềm an lạc của đạo quả vừa đắc, thầy bay lên
không đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài. Ngay giữa chúng hội, trong đó có
cả nhà vua, thầy đắc quả A-la-hán.
4. Ngôi Nhà Tù
Người trí
xem chưa bền...
Câu chuyện xảy
ra khi đức Thế Tôn ngụ tại Kỳ Viên, liên quan đến ngôi nhà tù.
Một hôm, các
tội phạm bị dẫn đến trước vua Ba-tư-nặc, nào trộm đạo, cướp đường, nào
những kẻ giết người. Vua ra lệnh dùng gông cùm, dây thừng và dây xích trói
họ lại. Lúc ấy, có ba mươi thầy Tỳ-kheo ở vùng quê đến thăm đức Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài rồi lui. Hôm sau, đi quanh thành Xá-vệ khất thực, các thầy
qua chỗ nhà tù và thấy bọn tội phạm. Chiều lại, khất thực xong các thầy
đến yết kiến Phật và bạch:
- Bạch Thế
Tôn, hôm nay đi khất thực chúng con thấy các tội nhân ở trong nhà tù. Họ
bị trói bằng gông cùm, dây thừng, dây xích, vô cùng đau khổ. Họ chẳng cởi
nổi các gông cùm này để trốn thoát được. Bạch Thế Tôn, có thứ gì trói buộc
bền chắc hơn nữa không?
Ðức Phật đáp:
- Này các
Tỳ-kheo, những thứ đó đâu đã lấy gì làm bền chắc. Hãy xem sự trói buộc của
si mê, gông xiềng có tên là tham ái, sự ràng rịt của lòng tham luyến của
cải, lúa thóc, vợ con. Dây trói buộc này còn bền chắc gấp trăm, nói cho
đúng, gấp nghìn lần hơn những thứ các ông đã thấy. Nhưng dầu nó bền chắc
như vậy và khó cởi bỏ đến thế mà xưa kia người có trí vẫn cởi bỏ được, ra
đi vào Hy-mã-lạp-sơn, xa lìa thế tục.
Rồi Ngài kể
chuyện tiền thân:
Chuyện quá
khứ:
A. Chồng Và
Vợ
Vào thuở xa
xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Ngài là con trai một gia
đình nhà nghèo nọ. Khi đến tuổi trưởng thành thì cha chết, chàng phải đi
làm mướn nuôi mẹ. Bà mẹ chọn cưới cho chàng một cô gái con nhà tử tế, mặc
những lời phản đối của chàng. Thời gian sau, mẹ già qua đời, vợ chàng hoài
thai đứa con đầu lòng.
Chẳng biết vợ
đang mang thai, chàng bảo:
- Này em, hãy
tự kiếm sống nhé. Anh sẽ đi tu.
Vợ chàng đáp:
- Em đang có
thai. Xin đợi đến ngày em sinh nở, chàng thấy mặt con rồi đi tu cũng không
muộn.
- Thôi được.
Khi cô vợ sanh
đứa bé xong, chàng từ giã vợ:
- Em thân yêu,
em đã sanh nở mẹ tròn con vuông. Anh có thể đi tu được rồi chứ.
Nhưng cô vợ
nói:
- Xin chàng
chờ đến lúc con dứt sữa hãy đi.
Trong khi
chàng chờ, cô vợ có thai đứa con thứ hai.
Chàng tự nghĩ:
"Nếu ta làm theo lời yêu cầu của nàng thì chẳng bao giờ đi được. Ta sẽ bỏ
trốn và xuất gia, đừng cho nàng hay gì cả". Thế là không nói một lời về dự
định của mình, giữa đêm chàng trở dậy trốn đi. Lính gác thành bắt chàng.
Nhưng chàng thuyết phục được họ thả ra:
- Thưa các
ông, tôi phải săn sóc mẹ già. Xin các ông tha cho tôi.
Ở lại quanh
đấy một thời gian, chàng lên đường về vùng Hy-Mã-lạp-sơn sống đời ẩn sĩ.
Sau khi đắc thần thông và tu chứng được những quả vị cao hơn, chàng tiếp
tục sống ở đấy, vui hưởng thiền duyệt. Chàng thầm nghĩ: "Ta đã bứt tung
được sợi dây trói thật quá ư bền chắc, sợi dây tham dục xấu xa, sợi dây
của lòng luyến ái vợ con".
Nghĩ rồi,
chàng đọc một bài kệ.
(Kết Thúc
Chuyện Quá Khứ)
Kể xong chuyện
quá khứ, đức Thế Tôn nói kệ làm rõ nghĩa bài kệ của nhà ẩn sĩ:
(345) Sắt, cây, gai trói buộc,
Người trí xem chưa bền,
Tham châu báu, trang sức,
Tham vọng vợ và con.
(346) Người có trí nói rằng:
"Trói buộc này thật bền,
Trì kéo xuống, lún xuống,
Và
thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ
dục lạc không màng".
5. Sắc Ðẹp Phù Du
Người đắm
say ái dục...
Câu chuyện xảy
ra khi đức Thế Tôn ngụ tại Trúc Lâm, liên quan đến hoàng hậu Khema, vợ vua
Tần-bà-sa-la.
Người ta nói
rằng bà Khema, do phước báu lời nguyện dưới chân Phật Padumuttara, nhan
sắc vô cùng lộng lẫy. Nghe đồn đức Thế Tôn thường chê trách sắc đẹp thể
chất, bà tránh không gặp Phật. Vua Tần-bà-sa-la biết bà rất tự kiêu về sắc
đẹp của mình nên cho người làm những bài ca tán thán Trúc Lâm, rồi ra lịnh
cho các nghệ sĩ hát các bài ca ấy khắp nơi.
Nghe các bài
ca, Trúc Lâm đối với bà thật là một nơi xa xôi nào chưa từng biết. Bà hỏi
các nghệ sĩ:
- Các ngươi
hát về khu rừng nào thế?
- Tâu hoàng
hậu, chúng con hát về rừng Trúc Lâm của lệnh bà đấy.
Tức thì hoàng
hậu muốn xem Trúc Lâm. Lúc ấy, đức Thế Tôn đang ngự trên tòa giảng pháp
cho tứ chúng, biết bà đến bèn hóa phép cho một cô gái tuyệt đẹp cầm quạt
đứng quạt hầu Phật.
Hoàng hậu
Khema bước vào Pháp đường, thấy cô gái bà nghĩ thầm: "Ta vẫn nghe nói đấng
Ðại Giác chê trách sắc đẹp thể chất. Mà đây lại có cô gái này đứng quạt
hầu Ngài. Ta chẳng sánh được một góc sắc đẹp cô ấy. Quả thực ta chưa bao
giờ thấy ai đẹp như vầy. Chắc chắn người ta nói về đức Thế Tôn không được
đúng lắm".
Hoàng hậu cứ
dán mắt vào người đẹp, lời giảng pháp của đứa Thế Tôn chẳng lọt một tiếng
vào tai bà. Phật biết bà đang chú tâm vào cô gái, liền biến người đẹp trẻ
trung diễm lệ kia thành bà già lụ khụ, rồi cuối cùng chỉ còn là một túi da
bọc xương. Thấy thế, hoàng hậu Khema suy nghĩ: "Chỉ trong phút chốc thôi,
một hình hài tuyệt mỹ như thế đã đi đến chết chóc, hoại diệt. Quả nhiên
hình hài vật chất này không thật chút nào!"
Ðức Thế Tôn
đọc được tư tưởng bà, liền bảo:
- Khema, bà
nghĩ một cách sai lầm rằng sắc đẹp thể chất là có thật. Bà hãy xem cái
không thật của nó kìa.
Ngài nói kệ:
Bà
Khema có thấy
Mớ
duyên hợp kia không?
Ðầy bệnh hoạn thối ung
Ðồ
bất tịnh dơ xấu
Từng phút giây rỉ chảy
Chỉ những kẻ ngu si
Mới đắm say thứ ấy.
Nghe xong,
hoàng hậu Khema đắc quả Dự-lưu. Ðức Thế Tôn bảo bà:
- Này Khema,
chúng sanh trong thế gian này đắm say ái dục, bị lòng sân hận làm hư hỏng,
bị ngu si đánh lừa, do đó dính chặt trong dòng sông tham ái, không thể
vượt thoát ra nổi.
Và Ngài nói kệ
giảng pháp:
(347) Người đắm say ái dục,
Tự
lao mình xuống dòng,
Như nhện sa lưới dệt,
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ
mọi khổ, không màng.
Khi bài pháp
kết thúc, hoàng hậu Khema đắc quả A-la-hán. Hội chúng cũng được lợi lạc.
Ðức Phật bảo
vua Tần-bà-sa-la:
- Ðại vương,
bà Khema giờ hoặc phải xa rời thế tục, hoặc phải nhập Niết-bàn.
Vua bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn, xin Thế Tôn hãy nhận bà ấy vào Tăng đoàn, khoan nhập Niết-bàn.
Bà Khema xuất
gia và trở thành một trong những Trưởng lão ni xuất sắc của Tăng đoàn đức
Phật. |