PHẨM I: SONG YẾU
1. Nếu Con Mắt Ngươi Làm Hại Ngươi, Hãy Móc Bỏ Nó Ði
Ý
dẫn đầu các pháp,
Ý
làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.
Phật dạy Pháp
Cú này tại đâu?
- Tại Xá-vệ.
- Cho ai?
- Cho Trưởng
lão Cakkhupàla.
Tôi nghe như
vầy: Tại Xá-vệ có một Trưởng giả tên là Ðại Phú (Mahà Suvanna). Ông ta rất
giàu, có nhiều của cải và đủ trò vui chơi giải trí, nhưng lại chẳng có
con.
Ngày nọ trên
đường đi tắm trở về nhà, ông trông thấy bên vệ đường một cây rừng thật
lớn, tán lá to rộng. Nghĩ rằng đây chắc là chỗ ở của một vị thần đầy uy
lực, Trưởng giả ra lệnh cho dọn sạch miếng đất dưới gốc cây, rào tường
chung quanh và rải cát bên trong, rồi cho trang hoàng đủ loại cờ xí và
nguyện: "Nếu có một đứa con, ta sẽ tạ ơn thần xứng đáng".
Chẳng bao lâu
vợ ông mang thai. Bà lập tức báo tin cho chồng. Ông liền tổ chức lễ Bảo
thai cho bà. Sau mười tháng bà hạ sinh một bé trai, và ông đặt tên con là
Pàla, có nghĩa là người Bảo Trợ, vì nhờ sự bảo vệ và chăm sóc cội cây mới
sinh được đứa bé. Ít lâu sau, ông có thêm đứa con nữa, bèn đặt tên là
Culla Pàla (Bảo Trợ em), đứa lớn là Mahà Pàla (Bảo Trợ anh). Ðến tuổi
trưởng thành ông bà cưới vợ cho hai con. Thời gian sau, cả hai ông bà đều
qua đời, để lại cho hai anh em toàn bộ gia sản.
Lúc bấy giờ
đức Phật đang chuyển Pháp Luân. Sau khi du hành từ nơi này đến nơi nọ,
Ngài trú tại Tinh Xá Kỳ Viên do Trưởng Giả Cấp Cô Ðộc xây cất, trị gía năm
trăm bốn chục triệu đồng.
Suốt thời gian
ngụ tại Kỳ Viên , đức Phật dạy về pháp sanh thiên, pháp giải thoát (Ðức
Thế Tôn chỉ ở lại một mùa an cư tại ngôi tịnh xá do hai nhánh thân tộc
Ngài xây dựng, một nhánh gồm tám vạn gia đình bên ngoại và một nhánh gồm
tám vạn gia đình bên nội. Ngài trú tại Kỳ Viên suốt mười chín hạ, và sáu
hạ tại Pubbàràma, một tịnh xá do bà Tỳ-xá-khư, một nữ cư sĩ lỗi lạc xây
cất, trị giá hai trăm bảy chục triệu đồng. Do công đức lớn lao của hai gia
đình Cấp Cô Ðộc và Tỳ-xá-khư, đức Phật đã an cư gần Xá-vệ trong suốt hai
mươi lăm hạ).
Ông Cấp Cô Ðộc
và bà Tỳ-xá-khư mỗi ngày đều đặn đi đến Thế Tôn hai lần. Họ không bao giờ
đi tay không vì biết rằng các thầy Sa-di trẻ đang chờ họ để bát. Trước
ngọ, họ dâng thức ăn loại cứng và loại mềm. Sau ngọ, họ cúng năm thứ dược
liệu và tám thức uống. Ngoài ra họ luôn dành sẵn chỗ tại nhà cho hai ngàn
Tỳ kheo. Bất cứ vị nào cần thức ăn, nước uống hay thuốc men liền được cung
cấp như ý muốn.
Trưởng gỉa Cấp
Cô Ðộc không hề thưa hỏi Phật. Người ta nói rằng sở dĩ ông không dám thưa
hỏi vì Quá kính mến Phật. Ông nghĩ rằng đức Thế Tôn là một vị Phật cao qúy
và là một thái tử phong nhã. Sở dĩ Thế Tôn thuyết pháp cho ai vì nghĩ đó
là thí chủ của Ngài. Nếu bây giờ phải thuyết pháp cho ta, Ngài sẽ nhọc mệt
thêm. Vì lý do đó, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc không hề thưa hỏi Phật. Nhưng khi
ông vừa ngồi xuống, đức Phật đã nghĩ: "Trưởng giả này bảo trợ cho Ta khi
Ta không cần bảo trợ. Ta đã trải qua bốn a-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp để
thành tựu đạo quả. Mái tóc đeo đầy trang sức Ta đã cắt bỏ, đôi mắt Ta đã
vứt đi, máu thịt tim Ta cũng nhổ bỏ tận gốc. Con Ta, vợ Ta thân thiết như
chính mạng sống, Ta cũng từ bỏ, chỉ vì muốn đem chánh pháp đến cho chúng
sanh. Người này bảo trợ cho Ta khi Ta không cần bảo trợ". Rồi đức Phật
thuyết một bài pháp.
Lúc ấy có năm
mươi triệu trong số bảy mươi triệu cư dân thành Xá-vệ nghe xong liền xin
làm đệ tử tại gia của Phật. Còn lại hai mươi triệu chưa tin đạo. Các cư sĩ
đệ tử của Phật có hai nhiệm vụ: trước ngọ để bát cho chư Tăng, sau ngọ cầm
hương hoa và cùng với tôi tớ mang y phục, thuốc men, thức uống đi đến đức
Phật nghe pháp.
Một ngày nọ,
Mahà Pàla trông thấy các cư sĩ đi đến tịnh xá với hương hoa trên tay, anh
ta bèn hỏi:
- Các vị đi
đâu vậy?
Và được trả
lời:
- Ði nghe
pháp.
- Cho tôi đi
với.
Rồi anh ta đi
theo họ đến đảnh lễ đức Phật và ngồi bên ngoài vòng pháp hội.
Khi chư Phật
thuyết pháp, các Ngài luôn tùy theo căn cơ của thính chúng từng người một,
xem người nào thích hợp để quy y, để thọ giới hoặc xuất gia. Ngày hôm ấy,
đức Phật để ý đến căn cơ Mahà Pàla và thuyết pháp cho anh ta. Ngài giải
thích rành rẽ, theo thứ lớp từng vấn đề về trí tuệ, bố thí, giới luật, sự
sanh thiên, nghiệp báo, sự ngu si và uế trược của dục lạc, và về phước
lành của hạnh xuất gia.
Gia chủ Mahà
Pàla chú tâm lắng nghe. Anh nhận định khi con người từ giã cõi đời sang
bên kia thế giới, chẳng có thể đem theo con cái hay tài sản; hơn nữa, cả
thân này cũng chẳng đi theo được, vậy sống đời tục gia có lợi gì? Và anh
định xuất gia. Vì thế cuối thời pháp, Mahà Pàla đến bên đức Phật xin gia
nhập Tăng đoàn.
Ðức Phật hỏi:
- Con còn thân
nhân nào không, để việc xuất gia được đúng pháp?
- Bạch Thế
Tôn! Con còn một em trai.
- Vậy thì hãy
báo tin cho em con.
Mahà Pàla hoan
hỷ thưa:
- Xin vâng.
Rồi chào Phật
trở về nhà, gọi em đến bảo:
- Này chú! Mọi
tài sản trong nhà, động sản và bất động sản, anh giao hết cho chú, hãy bảo
quản.
Người em ngạc
nhiên hỏi:
- Còn anh thì
sao?
- Anh sẽ theo
Phật, gia nhập Tăng đoàn.
- Anh nói gì
vậy, anh thân yêu? Khi mẹ mất anh chăm lo cho em như mẹ, đến cha mất anh
lại thay cha. Nhà anh đầy của cải, chắc chắn anh sẽ làm được việc thiện dù
sống đời tại gia. Xin anh đừng xuất gia.
- Này chú, sau
khi nghe Phật thuyết pháp, anh không muốn sống đời tại gia nữa. Ðức Phật
đã giảng rất hay trong phần đầu, phần giữa và phần cuối. Ngài đã nêu lên
một cách chính xác và đúng đắn ba tính chất của các pháp: vô thường, khổ
và vô ngã. Anh không thể hành trì trọn vẹn giáo pháp nếu còn bận bịu việc
nhà. Anh phải xuất gia em à!
- Anh ơi! Anh
còn trẻ lắm, để lúc già hãy đi tu.
- Ðợi đến già
để thành lão khọm à! Tay chân lụm khụm, không làm gì được theo ý mình, lại
thêm con cháu đùm đề. Không, anh không thể nghe lời chú được. Anh sẽ làm
tròn bổn phận Tỳ-kheo.
Tuổi già tay yếu run chân
Tu
sao được nữa khi thân mỏi mòn?
Anh sẽ đi tu,
dù chú cản trở cách gì.
Mặc người em
than khóc, Mahà Pàla đi đến gặp Phật và xin xuất gia vào Tăng đoàn. Ðược
thu nhận và tu học, Mahà Pàla trải qua năm mùa hạ với thầy Tế độ và Giáo
thọ. Mãn hạ thứ năm và làm lễ giải hạ xong, thấy đến chỗ Phật, đảnh lễ và
thưa hỏi:
- Bạch Thế
Tôn! Nương theo Thế Tôn con có bao nhiêu bổn phận tu tập phải thọ trì?
- Này Tỳ-kheo!
Chỉ có hai là Pháp học và Pháp thiền.
- Bạch Thế
Tôn! Thế nào là Pháp học? Và thế nào là Pháp thiền?
- Pháp học là
hiểu biết Phật ngôn tùy theo căn cơ mỗi người, phải thông suốt một hoặc
hai bộ A Hàm, hay toàn bộ Tam Tạng kinh điển, thuộc lòng, đọc tụng và
giảng dạy. Còn Pháp thiền sẽ dẫn đến quả vị A-la-hán. Thiền định đòi hỏi
một đời sống đạm bạc, ưa thích ở nơi vắng, luôn chuyên niệm về lão và tử,
và khai triển Minh sát tuệ bằng sự nỗ lực bền bỉ.
- Bạch Thế
Tôn! Vì con đã lớn tuổi mới xuất gia, con không thể làm tròn bổn phận đối
với Pháp học, nhưng con có thể làm tròn bổn phận đối với Pháp thiền. Xin
dạy cho con thiền định.
Phật dạy cho
thầy pháp tu dẫn đến quả vị A-la-hán. Thầy đảnh lễ đức Phật và tìm được
sáu mươi vị Tỳ-kheo cùng đi với mình. Thầy đi khoảng hai mươi dặm (tám
mươi cây số), đến một làng rộng lớn gần biên giới, và cả đoàn vào làng
khất thực. Dân làng thấy các vị oai nghi chỉnh tề, làm tròn bổn phận tăng
sĩ và lại dễ thân cận nên sanh lòng quý kính. Họ mời các thầy ngồi, dâng
những thức ăn ngon.
Rồi họ hỏi:
- Thưa chư Tôn
giả, các vị đi đâu?
- Này chư
thiên tín, chúng ta đi đến một chỗ ẩn cư thích hợp.
Dân làng khôn
ngoan tự hiểu rằng những vị Tỳ-kheo đáng kính đang tìm chỗ an cư trong mùa
hạ. Họ thỉnh cầu:
- Nếu chư Tôn
giả bằng lòng ở đây suốt ba tháng hạ, chúng con xin quy y và thọ giới.
Nghĩ rằng nhờ
những thí chủ này trợ giúp để tu ra khỏi sanh tử luân hồi, các thầy ưng
thuận ở lại. Dân làng dựng ngay một tịnh xá, xây khu vực ban đêm và khu
vực ban ngày, dâng cúng lên chư Tăng. Các Tỳ-kheo chỉ có việc đều đặn vào
làng khất thực. Có một y sĩ phát tâm đến tịnh xá chữa bệnh, ông đã trình
lên chư Tăng nguyện vọng của mình:
- Chư Tôn giả!
Chỗ nào đông người đều không tránh khỏi bệnh tật. Nếu có người bệnh, xin
nhắn tôi đến chữa trị.
Ngày đầu hạ,
Trưởng lão Mahà Pàla đã gọi tất cả Tỳ-kheo lại hỏi:
- Các huynh
đệ, suốt ba tháng hạ các vị sẽ tu trong mấy oai nghi?
- Trong bốn
oai nghi, bạch Ðại đức.
- Nhưng có
thích hợp không, các huynh đệ?
Chúng ta phải
thật chánh niệm, chính vì đức Phật chỉ dạy Pháp thiền mà chúng ta đến đây
hành trì. Sở dĩ chúng ta được chư Phật gia hộ chẳng do nhờ dối trá hai
mặt, mà chính do hạnh tinh tấn tu tập. Bốn thứ khổ sanh, lão, bệnh, tử
đang chờ người giải đải tán tâm, đó là cảnh giới họ ra vào quen thuộc như
nhà riêng của mình. Vì thế, các huynh đệ hãy chánh niệm.
- Còn Ngài,
thưa Ðại đức?
- Tôi chỉ dùng
ba oai nghi. Tôi sẽ không đặt lưng nằm.
- Tốt lắm!
Thưa Ðại đức, hãy chánh niệm!
Sau tháng thứ
nhất Trưởng lão Mahà Pàla, người tự nguyện không ngủ, bắt đầu thấy nhức
mắt. Nước mắt chảy ra từ mắt thầy giống như từ chiếc bình bể. Suốt đêm
dài, thầy dốc hết thân tâm ngồi thiền, và chỉ đến sáng thầy mới vào liêu
ngồi nghỉ. Ðến giờ đi bát, chư Tăng đến chỗ Trưởng lão thưa:
- Bạch Trưởng
lão! Ðã đến giờ đi khất thực.
- Tốt lắm,
huynh đệ, hãy lấy y và bát.
Bảo họ lấy y
bát rồi, chính thầy cũng lên đường. Các Tỳ-kheo thấy thầy chảy nước mắt,
hỏi:
- Có việc gì
vậy, thưa Ðại đức?
- Gió làm xốn
mắt tôi.
- Sao ta chẳng
mời y sĩ, thưa Ðại đức? Chúng ta sẽ nhắn ông ta đến.
- Tốt lắm.
Các Tỳ-kheo
báo tin cho y sĩ. Ông chế một thứ thuốc gởi đến. Trưởng lão thoa thuốc mỡ
vào mũi và vẫn ngồi như thường lệ. Rồi Ngài vào làng. Y sĩ gặp Ngài hỏi
thăm:
- Thưa Tôn
giả, con nghe nói gió làm Ngài bị đau mắt?
- Ðúng thế,
thiện tín ạ.
- Thưa Tôn
giả, Ngài có thoa vào mũi thuốc con đã chế và gởi đến không?
- Có, thiện
tín ạ.
- Bây giờ Tôn
giả thấy thế nào?
- Vẫn đau nhức
như trước.
Y sĩ bán tín
bán nghi, thuốc mình gởi đến chỉ thoa một lần là khỏi bệnh, vì sao Tôn giả
không hết đau? Ông bèn hỏi tiếp:
- Khi thoa
thuốc Ngài ngồi hay nằm?
Trưởng lão im
lặng. Mặc cho y sĩ hỏi đôi ba phen, Ngài vẫn không nói một lời. Y sĩ không
biết làm sao để giải quyết, chỉ còn cách chào Ngài và đến tịnh xá xem xét
chỗ ở.
Liêu của
Trưởng lão chỉ có lối kinh hành và một chỗ ngồi, không có chỗ nằm. Y sĩ
thắc mắc:
- Thưa Tôn
giả, khi thoa thuốc Ngài đã ngồi hay nằm?
Trưởng lão vẫn
im lặng.
- Thưa Tôn
giả, xin Ngài đừng làm vậy. Việc tu tập chỉ có thể tiến hành khi nào thân
thể được chăm sóc cẩn thận. Ngài có nằm khi thoa thuốc không?
Y sĩ hỏi đôi
ba lần, Trưởng lão mới trả lời:
- Hãy về đi, Y
sĩ. Tôi sẽ hội ý lại và quyết định việc này.
Trưởng lão
không có ai thân thích ở đó cả, vậy thì Ngài hội ý với ai? Ngài chỉ bàn
với chính mình: "Này Pàlita, thầy quí con mắt hay quí Phật đạo? Trong vòng
luân hồi không manh mối, biết bao lần thầy không được sáng mắt. Trong vô
số muôn ngàn đức Phật đã ra đời, thầy đã không gặp được một vị nào. Giờ
đây trong mùa hạ này, thầy đã quyết không nằm suốt ba tháng. Vậy cứ để cho
đôi mắt bị hư. Chỉ lo giữ giới luật, đừng giữ con mắt".
Và để khiển
trách thân, Ngài đọc bài kệ sau:
Mắt tai nay đã hỏng rồi,
Cả
thân này nữa cũng thôi không còn.
Ðó
là chuyện mỏi mòn thân ấy,
Pàlita, sao vẫn tán tâm?
Mắt tai này đã hết mong,
Cả
thân này nữa chẳng trông lâu dài.
Ðó
là chuyện hoại hư thân ấy,
Pàlita, sao vẫn tán tâm?
Mắt tai nay đã tiêu tan,
Cả
thân này nữa tan hoang còn nào!
Ðó
là chuyện hư hao thân ấy,
Pàlita, sao vẫn tán tâm?
Tự khiển trách
mình với ba câu kệ xong, Trưởng lão thoa thuốc lên mũi, lại tiếp tục ngồi
như trước, rồi Ngài vào làng khất thực. Y sĩ trông thấy hỏi:
- Thưa Tôn
giả, Ngài có thoa thuốc vào mũi?
- Có.
- Ngài thấy
thế nào?
- Vẫn đau như
trước.
- Thưa Tôn
giả, Ngài có ngồi khi thoa thuốc hay nằm xuống?
Trưởng lão im
lặng. Y sĩ hỏi lại mấy lần, Trưởng lão vẫn không nói một lời. Y sĩ bảo:
- Ngài không
chịu làm điều phải làm để lành bệnh. Vì vậy Ngài không nên xin thuốc, và
tôi cũng sẽ không chế thuốc cho Ngài. Tôi không còn cách nào hơn.
Bị y sĩ từ
chối chữa bệnh, Trưởng lão trở về tịnh xá, tự dặn dò: "Tỳ-kheo, dầu cho
thầy bị y sĩ từ bỏ, chớ từ bỏ tư thế ngồi của mình".
Như con bệnh nan y,
Y
sĩ thôi chữa trị,
Chắc chắn gặp tử thần,
Pàlita, sao còn tán tâm?
Tự khiển trách
mình với bài kệ trên, Trưởng lão lại tiếp tục thiền định. Vào cuối đêm đôi
mắt Ngài mù hẳn, các lậu đồng thời hết sạch. Ngài chứng A-la-hán an trú
trong an lạc của Minh sát tuệ. Rồi Ngài vào liêu ngồi nghỉ. Ðến giờ khất
thực, các Tỳ-kheo đến bên Trưởng lão thưa:
- Bạch Tôn
giả, đã đến giờ chúng ta đi bát.
- Ðến giờ rồi
ư, chư hiền hữu?
- Thưa vâng.
- Thế thì các
thầy hãy đi.
- Còn Ngài,
thưa Tôn giả?
- Mắt tôi đã
mù.
Họ nhìn vào
mắt Ngài và mắt họ đẫm lệ:
- Ðừng lo
ngại, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Họ an ủi
Trưởng lão, và sau khi xong bổn phận hành thiền, họ vào làng khất thực.
Không thấy
Trưởng lão, dân làng hỏi thăm:
- Bạch quý
thầy, Tôn giả Trưởng lão của chúng con đâu?
Khi rõ sự
việc, họ gởi cháo về cúng dường Ngài. Sau đó, từng người một đem thức ăn
đến đảnh lễ Trưởng lão, lăn mình dưới chân Ngài, không ngớt than khóc. Rồi
họ an ủi Ngài:
- Thưa Tôn
giả, xin đừng lo lắng, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Từ đó, dân
làng đều đặn gởi cháo đến tịnh xá. Trưởng lão thường răn nhắc sáu mươi
Tỳ-kheo, và các Tỳ-kheo đều tuân hành theo lời Ngài, nghiêm chỉnh đến nỗi
vào ngày giải hạ tất cả đều chứng A-la-hán và đắc thần thông.
Cuối mùa an
cư, vì muốn gặp Phật, các Tỳ-kheo thưa với Trưởng lão xin đi. Trưởng lão
không tránh khỏi đăm chiêu: "Ta nay sức yếu, trên đường về lại đi qua khu
rừng có nhiều ma quỷ. Nếu ta cùng đi, các thầy sẽ nhọc công và không thể
khất thực. Ta sẽ để họ đi trước".
Và Ngài bảo:
- Các thầy hãy
đi trước.
Các Tỳ-kheo
thắc mắc:
- Nhưng còn
Tôn giả?
- Tôi ốm yếu,
đường đi phải băng qua khu rừng có nhiều ma quỷ, nếu tôi cùng đi các thầy
sẽ nhọc công. Các thầy hãy đi trước.
- Không được,
thưa Tôn giả. Chúng con chỉ đi cùng Ngài.
- Xin các thầy
đừng làm thế, tôi chẳng vui lòng. Nếu em tôi gặp các thầy và hỏi thăm tôi,
hãy bảo là tôi mù mắt, nó sẽ gởi người đến và dẫn tôi về. Hãy nhân danh
tôi chào mừng đấng Thập Lực và tám mươi vị Ðại Trưởng lão.
Nói xong, Tôn
giả bảo họ ra đi. Bắt buộc phải lên đường, các Tỳ-kheo đành xin phép
Trưởng lão vào làng khất thực rồi lên đường.
Dân làng mời
ngồi, dâng thức ăn, năn nỉ ở lại; nhưng biết các Tỳ-kheo phải về gặp Phật,
họ đành khóc lóc tiễn đưa. Du hành một thời gian, các thầy đến Kỳ Viên và
nhân danh Trưởng lão chào mừng Ðạo sư cùng tám mươi vị Ðại Trưởng lão.
Xong các thầy đi khất thực, qua nhà gia chủ em của Trưởng lão. Gia chủ
nhận ra các thầy ngay, thân mật đón tiếp, mời ngồi và hỏi thăm Trưởng lão.
Các Tỳ-kheo kể
lại những gì đã xảy ra. Người em lăn mình trên đất, than khóc mếu máo,
không biết phải làm sao bây giờ.
Các Tỳ-kheo vỗ
về:
- Trưởng lão
muốn có ai đến đưa Ngài về.
- Thưa, đây là
Pàlita, con của chị con. Xin gởi nó đi!.
- Ðể nó đi
không ổn vì đường nhiều nguy hiểm. Nếu cho nó xuất gia thì an toàn hơn.
Người em bằng
lòng.
Thế là các
thầy làm lễ xuất gia cho chàng trai, dạy anh ta cách thức đắp y v.v..
trong vòng hai tuần, rồi chỉ đường cho anh ta đi.
Băng qua nhiều
làng mạc, một hôm thầy Sa-di trẻ gặp một cụ già tại cổng làng đó và hỏi
thăm:
- Chào cụ, cụ
có biết một tu viện ẩn cư nào gần đây không?
- Thưa Tôn
giả, có.
- Ai sống ở
đó?
- Có một
Trưởng lão tên Pàlita.
- Hãy chỉ cho
tôi đường đến đó.
- Tôn giả là
ai?
- Tôi là con
của em gái vị ấy.
Cụ già liền
dẫn thầy đến nơi ẩn cư. Thầy tới đảnh lễ Trưởng lão, và trong hai tuần làm
đủ bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ đối với Trưởng lão, chăm sóc Ngài
thật tận tụy. Rồi thầy đề nghị với Trưởng lão:
- Thưa Tôn
giả, cậu của con mong được gặp Ngài.
Chúng ta hãy
trở về.
- Tốt lắm, hãy
nắm lấy gậy của ta.
Và như thế tay
không rời gậy, cả hai người một già một trẻ đi vào làng. Dân làng tìm hết
cách thuyết phục Trưởng lão ở lại nhưng vô hiệu, họ đành khóc lóc đưa đi
một đoạn đường. Họ đi đến ngôi làng kế cận ở ven rừng tên là Katthanagara,
và lần bước ra khỏi làng.
Bỗng từ xa cất
tiếng hát của một cô gái đang gom củi. Thầy Sa-di chợt cảm thấy yêu mến
ngay tiếng hát trong trẻo (Ðức Thế Tôn đã từng dạy: "Này các Tỳ-kheo! Chưa
từng có âm thanh nào khác thâu nhiếp con tim người nam bằng tiếng người
nữ"). Và quá xao xuyến thầy liền buông đầu gậy ra thưa với Trưởng lão:
- Thưa Tôn
giả, chờ con một lát. Con bận một chút việc.
Nói xong thầy
tất tả đi về hướng cô gái. Trông thấy thầy, nàng ngừng hát và thầy phạm
giới tà hạnh với cô gái. Trưởng lão đợi thầy Sa-di hồi lâu chưa thấy trở
lại, đoán ngay có điều bất thường, có tiếng hát phụ nữ và chú Sa-di lại đi
lâu quá, chắc đã phạm giới rồi.
Thầy Sa-di sau
đó trở về bên Trưởng lão, hối hả giục Ngài tiếp tục lên đường:
- Thôi ta đi,
thưa Tôn giả.
Trưởng lão
nghiêm giọng:
- Này Sa-di,
con đã phạm tội phải không?
Thầy im lặng,
và dù được hỏi lần nữa thầy vẫn nín khe. Trưởng lão răn tiếp:
- Một kẻ tội
lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
Thầy Sa-di quá
ăn năn, cởi chiếc y vàng, khoác áo thế tục, cúi đầu nhận lỗi:
- Thưa Tôn
giả, trước đây con là thầy tu, nay trở lại làm cư sĩ. Con đi tu chẳng phải
do tín tâm, chỉ vì sợ những bất trắc dọc đường. Giờ thì chúng ta đi thôi.
Trưởng lão vẫn
không đổi ý:
- Một kẻ xấu
ác, dù là bậc xuất gia hay tại gia vẫn là kẻ xấu ác. Khi là Sa-di chú
không giữ được phạm hạnh, thì liệu chú có là người tốt khi làm cư sĩ
không? Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
-Tôn giả !
Ðường đầy ma qủy, Ngài lại mù, làm sao Ngài lại ở đây được?
- Chú đừng lo
việc ấy. Ta có nằm chết ở đây hay đi đâu chăng nữa, cũng không có gì quan
trọng. Ta không đi với chú.
Nói xong,
Trưởng lão ngâm đoạn kệ sau:
Ôi
ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði
cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng nằm xuống chẳng đi, không màng.
Ôi
ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði
cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng phải chết, chẳng đi, không màng.
Chú nghe những
lời này, hối hận, nghẹn ngào, cất tiếng than:
- Con đã phạm
một tội ghê gớm, một lỗi lầm kinh khủng.
Rồi khóc lóc
vặn vẹo đôi tay, chú lao vào rừng mất dạng.
Ðức hạnh của
Trưởng lão làm cho ngai vàng Ðế Thích dài sáu mươi dặm, rộng năm mươi dặm,
dày mười lăm dặm, rực rỡ màu hoa hồng đỏ, tự động hạ thấp khi Ðế Thích
ngồi, vương cao khi Ðế Thích đứng, bỗng nhiên nóng bỏng lên. Ðế Thích giật
mình không hiểu ai có thể hắt ngài ra khỏi ngai như thế này, và quan sát
thế gian, với thiên Nhản Ngài thấy Trưởng lão. Người xưa kể rằng:
Ðế
Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla ghét tội lỗi,
Làm thanh tịnh tâm thân.
Ðế
Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla sùng giới luật,
An
lạc trong đạo tâm.
Ðế Thích tự
nhủ: "Nếu ta không đến giúp một Trưởng lão ghê tởm tội lỗi và tôn sùng
giới luật như vậy, thì đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh. Ta sẽ đến giúp Ngài".
Vậy là:
Ðế
Thích có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Ðến ngay trong khoảnh khắc,
Bên Cakkhupàla.
Và Ðế Thích
bay đến Trưởng lão. Khi đến gần, Ngài kéo lê chân.. Trưởng lão bèn hỏi:
- Ai đó?
- Tôi, một bộ
hành.
- Này thiện
tín, ngươi đi đâu vậy?
- Ðến Xá-vệ,
thưa Tôn giả.
- Hãy tiếp tục
lộ trình.
- Nhưng thưa
Tôn giả, Ngài đi đâu?
- Tôi cũng đến
đó.
- Tốt quá, vậy
thì chúng ta cùng đi.
- Này bạn, tôi
ốm yếu, đi với tôi bạn sẽ chậm trễ.
- Tôi không có
việc gì gấp. Hơn nữa nếu đi với Ngài, tôi sẽ được công đức vì đã làm một
trong mười điều thiện. Ta hãy cùng đi, thưa Tôn giả!
Nghĩ rằng đây
là một người ngoan đạo, Trưởng lão bằng lòng:
- Tốt lắm, hãy
nắm lấy đầu gậy của tôi.
Ðế Thích y lời
và làm phép thâu ngắn đoạn đường để họ đến Kỳ Viên kịp trong chiều ấy. Và
rồi tiếng kèn, trống và những nhạc cụ khác nổi lên bên tai, Trưởng lão
ngạc nhiên:
- Tiếng ấy ở
đâu?
- Ở Xá-vệ.
- Này thiện
tín, lần trước tôi đi lâu lắm mới đến, sao kỳ này nhanh vậy?
- Thưa Tôn
giả, tôi biết một lối đi tắt.
Trưởng lão
hiểu ngay đây không phải là người thường mà là một vị trời.
Phạm thiên có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Thâu ngắn đi khoảng cách,
Ðến Xá-vệ thật nhanh.
Rồi Ðế Thích
dẫn Trưởng lão đến một túp lều bằng lá và cỏ, nơi người em của Trưởng lão
dựng riêng cho anh mình ở tạm, để Trưởng lão ngồi trên giường, và hóa
thành anh bạn đến thăm người em. Anh bạn này kêu lên khi đến nhà:
- Bạn Pàla!
Pàla chào bạn:
- Gì vậy bạn?
- Anh có biết
Trưởng lão đã về chưa?
- Chưa! Ngài
về thật sao?
- Quả vậy, tôi
vừa từ nơi ẩn cư về, thấy Trưởng lão đang ngồi trong lều của anh.
Nói xong anh
bạn ra đi.
Vị gia chủ bèn
đi đến lều cỏ. Vừa trông thấy Trưởng lão, anh gieo mình xuống chân Ngài,
lăn trên đất khóc lóc:
- Con biết mà,
Trưởng lão! Vì thế con không muốn để người đi tu.
Hàn huyên thăm
hỏi xong, gia chủ bèn trả tự do cho hai nô lệ, cho chúng xuất gia làm đệ
tử Trưởng lão để trông nom Ngài. Anh dặn dò:
- Nhớ về làng
lấy cháo và thức ăn, chăm lo săn sóc Trưởng lão.
Hai tân Sa-di
chăm sóc Trưởng lão hết sức tận tụy, làm đủ các bổn phận từ việc lớn đến
việc nhỏ.
Ngày nọ, một
nhóm thầy Tỳ-kheo ở xứ khác đến kính viếng Phật. Sau khi lễ Phật và thăm
tám mươi Ðại Trưởng lão, họ đi tham quan tịnh xá. Ðến thất của Trưởng lão
Cakkhupàla họ bàn nhau đến vấn an Ngài. Chiều hôm đó họ định vào thăm,
nhưng một cơn bão dữ dội nổi lên, họ đành quay về và hẹn sáng hôm sau trở
lại. Cơn mưa lớn kéo dài suốt canh một, đến canh hai thì dứt. Trưởng lão,
một con người giàu nghị lực đã quen kinh hành, lần xuống hàng hiên vào
canh năm, và vô tình giẫm chết rất nhiều côn trùng bò lổn ngổn trên nền
đất ẩm. Các thầy Tỳ-kheo ngụ tại đó không quét dọn sớm, nên khi các thầy
Tỳ-kheo ở xa đến thăm Trưởng lão, thấy đủ loại côn trùng nằm chết rải rác
ngoài hàng hiên. Họ kinh ngạc lên tiếng:
- Ai đã bước
đi trên lối này?
Và được trả
lời:
- Thưa Tôn
giả, Thầy chúng tôi.
Họ bực bội
nói:
- Xem một
Tỳ-kheo kìa! Khi ông ấy sáng mắt thì nằm ngủ và không tạo tội. Còn bây giờ
mù mắt lại nghĩ: "Tôi sẽ kinh hành". Và đã giết chừng ấy côn trùng. Ông ấy
nghĩ mình làm đúng, nhưng thật chẳng đúng tí nào.
Rồi họ bỏ đi
và bạch với Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Trưởng lão Cakkhupàla nghĩ "Tôi sẽ kinh hành", và đã giết hại nhiều
côn trùng.
Thế Tôn gạn
hỏi lại:
- Nhưng các
ông có thấy ông ấy giết không?
- Thưa không
thấy.
- Thực sự các
ông không thấy ông ấy giết, cũng vậy, ông ấy không thấy côn trùng. Này
Tỳ-kheo! Người giải thoát các lậu hoặc, không còn ý sát sanh.
- Bạch Thế
Tôn, vị ấy chắc chứng A-la-hán, vậy do đâu mà bị mù?
- Này các
Tỳ-kheo, đó là vì lỗi lầm trong một kiếp quá khứ.
- Sao thế,
bạch Thế Tôn, vị ấy đã làm gì?
- Các ông hãy
lắng nghe!
Chuyện quá
khứ
A. Người
Ðàn Bà Và Ông Thầy Thuốc Ðộc Ác.
Thuở xưa, khi
vua Kàsi lên ngôi ở Ba-la-nại, có một thầy thuốc đi dạo xóm làng chữa
bệnh. Gặp một người đàn bà đau mắt, ông hỏi:
- Bà sao vậy?
- Tôi không
thấy rõ.
- Tôi sẽ chữa
cho bà.
- Xin thầy làm
ơn chữa giùm.
- Bà sẽ trả
công cho tôi thế nào?
- Nếu thầy
chữa được cho tôi mắt sáng và khỏe mạnh lại như xưa, tôi và luôn cả con
trai con gái tôi sẽ hầu hạ thầy.
- Tốt lắm.
Rồi ông kê toa
cho thuốc. Chỉ sau một lần dùng thuốc, đôi mắt của người đàn bà sáng lại.
Hạnh phúc vừa đến nhưng lại kèm theo nỗi lo âu mãi lởn vởn trong đầu:
"Mình hứa làm nô lệ cho ông thầy, cả các con mình cũng phải làm. Nhưng xem
ra lão ấy chẳng tử tế đâu. Chà! Làm sao bây giờ đây? Phải tìm cách để gạt
lão mới được". Kịp đến lúc thầy thuốc trở lại hỏi thăm bệnh tình, bà làm
ra vẻ khổ sở:
- Trước đây
mắt tôi đau ít, nay lại đau dữ dội hơn bao giờ.
Ông thầy đoán
ngay là bà ta muốn lừa mình để quỵt tiền công chữa bệnh. Ông tức giận lầm
bầm: "Ðược rồi, ta chẳng cần mụ trả công, ta sẽ cho mụ mù luôn". Và ông bỏ
đi ngay không nói một lời, trước cặp mắt ngơ ngác của người đàn bà thất
hứa.
Ông thầy thuốc
về nhà, kể lại cho bà vợ nghe cho hả tức. Vợ ông lặng thinh, còn ông thì
tức tốc bào chế một thứ thuốc mỡ khác, mang đến cho người đàn bà và dặn
thoa vào mắt. Người đàn bà làm theo chẳng chút nghi ngờ và ánh sáng đôi
mắt vụt tắt.
Ông thầy thuốc
đó chính là Cakkhupàla.
(Hết Chuyện
Quá Khứ)
- Này các
Tỳ-kheo! Ðệ tử ta làm ác nên bị ác nghiệp theo đuổi mãi mãi, vì việc ác đi
theo người làm ác như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe.
Kể chuyện
xong, đấng Pháp Vương, như một vị vua đóng dấu ấn bằng con triện hoàng gia
lên sắc dụ đã được niêm phong, tuyên đọc bài kệ sau:
(1) Ý dẫn đầu các pháp,
Ý
làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo. |