PHẨM I: SONG YẾU (tt)
9. Trưởng Lão
Nan
Ðà
Như mái nhà vụng lợp,
Mưa liền xâm nhập vào...
Giáo lý này
đức Thế Tôn đã dạy cho Ðại đức Nan-đà khi Ngài ngụ tại Kỳ Viên.
A. Nan Ðà
Trở Thành Một Tỳ Kheo Bất Ðắc Dĩ
Sau khi bắt
đầu chuyển pháp luân, Thế Tôn rời Vương Xá và đến ngụ tại Veluvana. Ngay
sau đó, cha Ngài, Ðại vương Tịnh Phạn gởi sứ giả đến, người này tiếp người
nọ, mỗi người mang theo một ngàn tuỳ tùng với lời dặn dò:
- Hãy tìm con
trai ta và rước mời về trước mặt ta.
Chín sứ giả đã
đến nơi, chứng A-la-hán và không trở về, sau cùng Trưởng lão Kàla Udàyi
đến và cũng chứng A-la-hán. Biết rằng đã đến lúc Ðạo sư lên đường, Trưởng
lão mô tả những cái hay cái đẹp trong cuộc hành trình và hướng dẫn đức
Phật cùng hai mươi ngàn A-la-hán đi Kapilapura. Tại đây, giữa thân tộc vây
quanh, đức Ðạo sư đã lấy trận mưa rào làm đề tài giảng pháp, và kể chuyện
bổn sanh Bồ- tát Vessantara, tiền thân Ngài.
Ngày hôm sau,
Ngài vào thành khất thực. Với bài kệ bắt đầu bằng câu: "Nỗ lực chớ phóng
dật! Hãy sống theo chánh hạnh," đức Phật độ vua Tịnh Phạn chứng quả Dự
lưu. và với câu" hãy khéo sống chánh hạnh..." Ngài độ Mahà Pàjapatì đắc Sơ
quả, và vua Tịnh Phạn đắc thêm Nhị quả. Cuối bữa ăn, Phật thuật lại truyện
Bổn Sanh Canda Kinnara vì ân nghĩa của mẹ La-hầu-la đối với Ngài.
Ngày hôm sau,
trong khi nghi lễ Quán đảnh và đám cưới của hoàng tử Nan-đà đang tiến
hành, đức Ðạo sư bước vào nhà khất thực, đặt bình bát vào tay Nan-đà và
chúc phúc. Rồi từ chỗ ngồi đứng lên, đức Ðạo sư ra đi không lấy lại bình
bát trong tay Nan-đà không dám hở môi "Bạch Thế Tôn, xin Ngài lấy lại bình
bát", mà tự an ủi "Thế Tôn sẽ lấy lại bình bát ở đầu thềm". Nhưng khi đến
đầu thềm, Thế Tôn đã không lấy bình bát. Nan-đà lại nuôi hy vọng" Thế Tôn
sẽ lấy lại bình bát ở chân thềm". Nhưng Ðạo sư vẫn không lấy bình bát.
Nan-đà lại nghĩ "Thế Tôn sẽ lấy bình bát ở sân cung điện". Nhưng Ðạo sư
cũng không lấy bình bát. Hoàng tử Nan-đà tuy rất muốn trở lại với cô dâu
nhưng phải bấm bụng đi theo Ðạo sư. Vì lòng quý kính Ðạo sư quá sâu đậm
chàng không dám nói "Thế Tôn hãy nhận bình bát", mà đành tiếp tục bước
theo, trong lòng vẫn chưa tắt hy vọng: "Thế Tôn sẽ lấy bình bát ở đây, Thế
Tôn sẽ lấy bình bát ở đó, Thế Tôn sẽ lấy bình bát ở kia".
Lúc ấy người
ta nhắn với cô dâu mới "giai nhân của xứ sở" Janapada-Kalyànì:
- Thưa công
nương, Thế Tôn đã đem hoàng tử Nan-đà đi với Ngài, mục đích của Ngài là
chia uyên rẽ thúy.
Lập tức
Janapada-Kalyànì, khuôn mặt đầm đìa nước mắt và đầu tóc chưa chải xong,
tung mình lao theo vị hôn phu khẩn khoản:
- Công tử, xin
trở lại ngay!
Lời của nàng
làm tim Nan-đà chấn động. Nhưng đấng Ðạo sư vẫn không lấy lại bình bát,
dẫn chàng về tinh xá và bảo:
- Nan-đà, ông
có muốn đi tu không?
Vì lòng tôn
kính Phật của Nan-đà quá sâu đậm nên chàng cố nín để đừng thốt: "Con không
muốn tu", thay vào đó chàng thưa:
- Vâng, con
muốn đi tu.
Ðấng Ðạo sư
ưng thuận ngay:
- Tốt lắm, hãy
xuất gia cho Nan-đà!
Thế là, vào
ngày thứ ba sau khi Phật đến Kapilapura, Ngài đã tạo duyên cho Nan-đà
thành Tỳ-kheo.
Vào ngày thứ
bảy, mẹ của La-hầu-la trang điểm cho cậu hoàng con và gởi đến Thế Tôn, bà
dặn dò:
- Con cưng,
hãy đến xem vị Sa-môn này, người có hai ngàn tăng sĩ tùy tùng, có một thân
hình vàng óng, có một dáng vóc đẹp đẽ của Ðại Phạm thiên. Sa-môn này là
cha của con. Ngày xưa Ngài đã sở hữu những kho tài sản vĩ đại. Từ lúc Ngài
xuất gia, chúng ta không được gặp Ngài. hãy đòi Ngài gia tài của con, hãy
nói: "Cha thân yêu, con là hoàng thái tử, và ngay khi nhận lễ Quán đảnh,
con sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương. Con cần có tài sản, cha hãy ban
của cải cho con, vì một người con có quyền hưởng tài sản của cha để lại".
Hoàng tử
La-hầu-la vâng lời đi đến Thế Tôn. Khi thấy ngài, cậu ta cảm thấy một tình
cảm nồng ấm của cha dành cho mình, trong lòng sanh tâm hoan hỷ nên thỏ
thẻ: "Bạch Thầy, dưới bóng mát của Thầy con thật hạnh phúc". Và cậu còn
nói nhiều nữa, với những lời ngây thơ của trẻ con ở lứa tuổi ấy.
Thế Tôn thọ
thực xong, hồi hướng công đức và từ chỗ ngồi đứng lên, bước đi. Hoàng tử
La-hầu-la nối bước theo Thế Tôn, thưa:
- Bạch Thầy,
hãy cho con gia tài mà con được thừa hưởng! Bạch Thầy hãy cho con gia tài
mà con được thừa hưởng!
Ðức Thế Tôn im
lặng, ngay cả chư Tăng cũng để mặc không ngăn cậu bé theo Thế Tôn.
Cứ thế, hoàng
tử theo Thế Tôn đến khu rừng. Rồi một tư tưởng nảy sanh trong trí Thế Tôn:
"Gia tài của cha mà cậu bé đòi sẽ không tránh khỏi hậu quả là mang đến sự
hủy diệt. À, Ta sẽ ban cho nó bảy thánh tài mà Ta đã nhận được dưới cội
Bồ-đề. Ta sẽ khiến La-hầu-la làm chủ một gia tài xuất thế gian".
Thế rồi, Thế
Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
- Xá-lợi-phất,
ông hãy xuất gia cho La-hầu-la.
Nhưng khi
hoàng tử La-hầu-la gia nhập tăng đoàn, vua Tịnh Phạn (ông nội) rất sầu
muộn. Không chịu đựng nổi sự buồn rầu, ông bày tỏ với Thế Tôn và thỉnh
cầu:
- Bạch Thế
Tôn, sẽ phải lẽ hơn nếu chư Tăng đừng nhận những người vị thành niên vào
Tăng đoàn khi cha mẹ không cho phép.
Ðức Thế Tôn
chấp nhận lời thỉnh cầu này. Lại một hôm, đức Thế Tôn ngồi trong hoàng
cung sau bữa ăn sáng, đức vua cung kính ngồi một bên bạch:
- Bạch Thế
Tôn, trong khi Ngài đang hành trì khổ hạnh, một vị trời đến và nói với
tôi: "Con ông đã chết". Nhưng tôi không tin và trả lời: "Con tôi sẽ không
chết cho đến khi giác ngộ:.
Ðức Thế Tôn
nói:
- Phụ vương
tin chuyện này không? Trong một kiếp trước đây, khi một vị trời chỉ một
nắm xương và bảo phụ vương: "Con ông đã chết" phụ vương cũng đã không tin.
Và Ngài thuật
lại truyện Bổn Sanh Mahà Dhammapàla, liên quan đến câu chuyện. Sau khi câu
chuyện chấm dứt, nhà vua đắc quả A-na-hàm.
B. Nan Ðà
Và Những Thiên Nữ
Thế Tôn độ cho
cha Ngài đắc Tam quả xong, Ngài lại trở về Vương Xá cùng với Tăng đoàn.
Bấy giờ Ngài đã hứa với ông Cấp Cô Ðộc đến thăm Xá-vệ, ngay khi đại tinh
xá Kỳ Hoàn được hoàn thành. Chẳng bao lâu, Ngài nhận được lời báo: "Tinh
xá đã hoàn thành". Ngài liền đến Kỳ Viên cư ngụ. Ðại đức Nan-đà lúc đó trở
nên bất mãn, tỏ sự buồn phiền của mình với các Tỳ-kheo:
- Chư huynh,
tôi bất mãn. Tôi đang sống đời xuất gia, nhưng tôi không thể chịu đựng lâu
hơn nữa. Tôi dự định xả bỏ những giới luật cao cả và trở về đời sống thấp
hơn, đời sống của một cư sĩ thế tục?
Thế Tôn nghe
được việc này, cho gọi Tôn giả Nan-đà đến bảo:
- Nan-đà, có
phải thật sự ông đã nói với nhiều Tỳ-kheo rằng: "Chư huynh, tôi bất mãn.
Tôi đang sống đời xuất gia nhưng tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Tôi
dự định xả bỏ những giới luật cao cả và trở về đời sống thấp hơn, đời sống
của một cư sĩ thế tục".
- Bạch Thế
Tôn, hoàn toàn đúng thế.
- Nhưng
Nan-đà, tại sao ông bất mãn với cuộc sống đạo hạnh mà ông đang sống? Tại
sao ông không thể chịu đựng lâu hơn? Tại sao ông định xả bỏ những giới
luật cao đẹp và trở về đời sống thấp hơn, đời sống của cư sĩ thế tục?
- Bạch Thế
Tôn! Khi con rời nhà vị hôn thê yêu quí Janapada Kalyànì của con, với đầu
tóc rối bời, từ giã con và khẩn khoản: "Công tử, xin hãy mau trở về!" Bạch
Thế Tôn, vì con vẫn nhớ nàng nên con bất mãn đời sống xuất gia hiện con
đang sống. Con không thể chịu đựng cuộc sống này lâu hơn, và con dự định
xả bỏ những giới luật cao cả để trở về cuộc sống thấp hơn, cuộc sống của
cư sĩ thế tục.
Khi ấy, đức
Thế Tôn nắm tay Ðại đức Nan-đà, dùng thần lực đưa chàng đến cõi trời Ba
mươi ba. Trên đường đi, đức Thế Tôn chỉ cho Tôn giả Nan-đà thấy trên một
cánh đồng bị lửa rụi, một con khỉ háu ăn đang ngồi trên một gốc cây đã
cháy rụi và lửa cũng đã thiêu đốt tai, mũi và đuôi của nó. Ðến cõi trời ba
mươi ba, Ngài chỉ năm trăm thiên nữ gót son đang hầu hạ Sakka, vua của chư
thiên (thiên chủ). Khi Thế Tôn cho thấy hai cảnh tượng đó rồi, Ngài hỏi
Nan-đà:
- Nan-đà, ông
thấy ai đẹp đẽ, ưa nhìn và duyên dáng hơn? Cô vợ quí Janapada Kalyànì của
ông hay năm trăm thiên nữ gót son này?
- Bạch Thế
Tôn, Nan-đà đáp, thật Janapada Kalyànì kém xa, giống như con khỉ háu ăn đã
mất tai, mũi và đuôi. Bạch Thế Tôn, cô vợ quí Janapada Kalyànìi đối với
năm trăm thiên nữ này, nàng còn kém xa hơn nhiều. So sánh với những thiên
nữ này, vị hôn thê của con chẳng đáng kể, cô ta không bằng một phần nhỏ
của họ, không bằng một phần nhỏ của một phần nhỏ của một phần nhỏ của họ.
Ngược lại, năm trăm thiên nữ gót son này đẹp đẽ, ưa nhìn và duyên dáng vô
cùng.
- Hãy vui lên,
Nan-đà! - Ðức Thế Tôn trả lời - Ta bảo đảm ông sẽ được năm trăm thiên nữ
gót son này.
Ðại đức Nan-đà
thưa:
- Bạch Thế
Tôn, nếu Thế Tôn bảo đảm con sẽ được năm trăm thiên nữ gót son này, thì
trong trường hợp đó, bạch Thế Tôn, con sẽ sung sướng vô cùng để sống cuộc
sống cao thượng của người xuất gia.
Rồi Thế Tôn
đem Ðại Nan-đà theo Ngài, biến mất khỏi cõi trời ba mươi ba và hiện ra tại
Kỳ Viên. Không bao lâu, những Tỳ-kheo được nghe kể như sau:
- Vì mong muốn
được các thiên nữ mà Ðại đức Nan-đà, em đức Thế Tôn, con bà Di mẫu, tiếp
tục sống đời tu sĩ. Ðức Thế Tôn đã bảo đảm rằng ông ta sẽ được năm trăm
thiên nữ gót son.
Kết quả là
những Tỳ-kheo huynh đệ của Ðại đức Nan-đà đã xem chàng như một người đi tu
mướn, như người đã bị mua chuộc và họ nói về Ngài:
- Ðại đức
Nan-đà là một người đi tu mướn, Tôn giả Nan-đà là một người bị mua chuộc,
vì hy vọng được các thiên nữ mà ông ta sống đời tu sĩ, Thế Tôn đã bảo đảm
rằng ông ta sẽ được năm trăm thiên nữ gót son.
Ðại đức
Nan-đà, mặc dù bị các bạn đồng tu xem thường, xấu hổ vì chàng và làm khổ
chàng khi gọi chàng là "người tu mướn" và "bị mua chuộc", Ðại đức vẫn sống
độc cư, xuất ly, chánh niệm, tinh tấn, dõng mãnh. Không bao lâu, ngay
trong đời này, chính Nan-đà an trú trong tuệ trí giác ngộ và đạt được đạo
quả tối thượng của đời sống tu hành, đạo quả mà vì nó biết bao thanh niên
thiện tín đã vĩnh viễn từ bỏ đời sống thế tục sống đời xuất gia. Ðại đức
đã biết: "Sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, ta không còn
trở lại đời này nữa". Vậy là thêm một Ðại đức Trưởng lão nhập vào hàng ngũ
A-la-hán.
Bấy giờ, một
vị trời đến chỗ Thế Tôn vào ban đêm, chiếu sáng cả Kỳ Viên, cúi đầu đảnh
lễ Thế Tôn bạch rằng:
- Bạch Thế
Tôn! Ðại đức Nan-đà, con trai bà Di mẫu của Phật đã lậu tận; ngay trong
đời này, chính Ðại đức đã an trụ trong chánh trí, đã được giải thoát khỏi
dục lậu, tâm giải thoát tuệ giải thoát.
Thế Tôn cũng
đã biết như thế. Trong đêm ấy, Tôn giả Nan-đà cũng đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ
và thưa:
- Bạch Thế
Tôn, con xin bãi bỏ lời hứa của Thế Tôn bảo đảm con sẽ được năm trăm thiên
nữ gót son.
Thế Tôn trả
lời:
- Nan-đà,
chính tâm Ta đã thấu hiểu tâm ông và thấy do lậu tận, ngay trong đời này,
chính ông đã an trú trong chánh trí, được giải thoát khỏi dục lậu, tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Một vị trời cũng đã đến cho ta hay điều đó. Do
đó, này Nan-đà, khi ông không còn tham đắm vào ngũ dục thế gian, tâm ông
thoát khỏi dục lậu, ngay lúc ấy Ta không còn bị ràng buộc bởi lời hứa cũ.
Rồi Thế Tôn,
thấu rõ ý nghĩa thâm sáu thực sự của việc này đã tuyên đọc Thánh ngôn sau:
Diệt sạch vọng tưởng nguy hại.
Ông sẽ bình thản, an nhiên,
Khi gặp hạnh phúc, đau khổ.
Một hôm, các
Tỳ-kheo đến gặp Tôn giả Nan-đà và hỏi Ngài:
- Sư huynh
Nan-đà! Lúc trước huynh nói: "Tôi bất mãn", bây giờ huynh có nói như thế
không?
- Chư huynh,
tôi chẳng còn ưa thích đời sống thế tục.
Khi các
Tỳ-kheo nghe Ngài trả lời, họ nói:
- Tôn giả
Nan-giả nói không thật, hoàn toàn nói láo. Ngày trước ông ta nói: "Tôi bất
mãn". Nhưng bây giờ ông ta nói: "Tôi chẳng còn ưa thích đời sống thế tục".
Và lập tức họ
đến và trình lại câu chuyện với Thế Tôn. Thế Tôn đáp:
- Này Tỳ-kheo!
Ngày trước nhân cách của Nan-đà như một nhà lợp vụng, nhưng nay giống như
một nhà lợp kín. Từ ngày ông ấy thấy những thiên nữ, ông ấy đã cố gắng
hành trì để đạt đến cứu cánh của đạo nghiệp và bây giờ ông ta đã đạt được.
Nói xong, Ngài
đọc những Pháp Cú sau:
(13) Như mái nhà vụng lợp,
Mưa tiền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu,
Tham dục liền xâm nhập.
(14) Như ngôi nhà khéo lợp,
Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập.
Các Tỳ-kheo
bắt đầu bàn tán chuyện trên trong Pháp đường:
- Chư huynh!
Chư Phật thật kỳ diệu! Ðại đức Nan-đà đã bất mãn đời tu sĩ vì cô Janapada
Kalyànì, nhưng đấng Ðạo sư dùng những thiên nữ làm mồi, khiến ông ta vâng
phục hoàn toàn.
Ðức Phật đi
đến và hỏi họ:
- Các Tỳ-kheo!
Các ông ngồi đây bàn tán chuyện gì?
Nghe họ kể
xong, Ngài nói:
- Này các
Tỳ-kheo! Ðây không phải lần đầu tiên Nan-đà đã vâng phục bởi mồi nhử bằng
người khác phái, kiếp trước cũng xảy ra tương tự như thế.
Nói xong, Ngài
kể như sau:
Chuyện quá khứ
C. Kappata
và Con Lừa
Ngày xưa, khi
Brahmadatta (Phạm-ma-đạt) trị vì Benàres. Có một con lừa chở đồ gốm cho
ông và mỗi ngày ông thường đi bảy dặm. Vào một dịp nọ, Kappata chất một lô
đồ gốm lên lưng lừa và đi đến Takkasilà (thành Hoa Thị).
Trong khi ông
bận sắp xếp hàng hoá, ông cho lừa chạy rong. Chàng lừa ta bèn lang thang
dọc theo bờ mương, bỗng thấy một nàng lừa liền chạy thẳng đến. Nàng lừa
chào hỏi thân mật và mở đầu câu chuyện:
- Anh từ đâu
đến?
- Từ Benàres.
- Mục đích gì?
- Buôn bán.
- Anh mang
hàng gì nhiều thế?
- Một lô đồ
gốm thật nhiều.
- Anh đi bao
nhiêu dặm mà mang số hàng nhiều thế?
- Bảy dặm.
- Trong những
nơi anh đi qua, có ai xoa bóp chân và lưng anh không?
- Không!
- Nếu thế, anh
phải chịu đường dài khắc nghiệt kinh khủng!
(Dĩ nhiên loài
vật không ai xoa bóp chân và lưng, cô lừa nói chỉ vì để kết mối thân tình
với anh lừa).
Lời cô lừa
khiến chàng lừa trở nên bất mãn. Sau khi nhà buôn đã xếp đặt hàng hóa
xong, ông chạy đến chàng lừa và nói:
- Nào, Jack,
chúng ta đi!
- Ông đi đi,
tôi không đi!
Nhà buôn cố
gắng lặp đi lặp lại với những lời lẽ dịu dàng để thuyết phục nó đi. Mặc dù
ông dỗ hết sức, lừa ta vẫn dở chứng, ông bèn trút hết lời chửi rủa nó.
Cuối cùng ông nghĩ: Ta sẽ biết cách làm cho nó đi, và nói kệ sau:
Ta
sẽ làm cây gậy
Có
mũi nhọn thật dài
Sẽ
đâm xẻ thân này
Nhớ đó nghe, lừa hỡi!
Lừa đáp:
- Nếu vậy, tôi
biết ngay phải làm gì với ông.
Rồi nó đọc kệ:
Ông bảo sẽ làm gậy
Có
mũi nhọn thật dài
Tốt thôi! Tôi cũng sẽ
Chân trước bấm chặt sâu
Tung vó hai chân sau
Ðá
cho răng ông gãy
Nhớ nghe, Kappaka!
Khi nhà buôn
nghe thế, ông thắc mắc không biết lý do gì khiến nó nói thế. Ông ta nhìn
lại con đường và cuối cùng bắt gặp con lừa cái. À ra thế! Ông hiểu ngay.
Cô ả đã dạy chàng lừa nhà ta mấy trò này đây. Ta sẽ hứa mang về nhà một
con lừa cái như thế cho nó. Như vậy, dùng con lừa cái làm mồi, ta sẽ khiến
nó phải đi.
Ông bèn đọc
kệ:
Một lừa cái bốn chân
Mặt như dáng vỏ trai
Ðầy đủ muôn vẻ đẹp
Sẽ
đi mua cho mày
Nghe ra chưa lừa hỡi?
Nghe thế, tim
chàng lừa rộn rã và trả lời:
Một lừa cái bốn chân,
Mặt như dáng vỏ trai,
Ðầy đủ muôn vẻ đẹp,
Ông hứa mua cho liền.
Xưa đi ngày bảy dặm
Nay tôi chạy gấp đôi!
Kappata nói:
- Vậy thì tốt,
đi!
Và ông dắt lừa
lại chỗ để xe.
Vài ngày sau
con lừa nói với ông ta:
- Chẳng phải
ông đã nói với tôi là sẽ đem cho tôi một cô bạn ư?
Thương gia trả
lời:
- Phải, ta đã
nói thế, và ta không nuốt lời. Ta sẽ cho mi một cô bạn về nhà. Nhưng ta
chỉ cung cấp thức ăn cho mi thôi. Không biết có đủ hay không cho cả mi và
cô ả, nhưng việc đó mi giải quyết một mình. Sau khi hai đứa mi sống với
nhau, sẽ sinh những chú lừa con. Thức ăn ta sẽ cho mi, không biết có đủ
cho mi, bạn mi và những lừa con nữa hay không, việc này mi tự giải quyết
lấy.
Thương gia nói
rồi, con lừa hết mơ ước hy vọng.
Ðạo sư chấm
dứt bài học này:
- Lúc đó, các
Tỳ-kheo! Con lừa cái là Janapada Kalyànì, con lừa đực là Nan-đà và người
thương gia chính là Ta. Khi xưa Nan-đà cũng đã chịu vâng phục vì miếng mồi
khác phái.
10. Cunda - Ðồ Tể Mổ Heo
Nay sầu,
đời sau sầu...
Giáo pháp này
đức Ðạo sư dạy khi Ngài cư ngụ tại Veluvana (tinh xá Trúc Lâm) nhắm đến
Cunda, người đồ tể mổ heo.
Chuyện kể rằng
trong năm mươi lăm năm Cunda sống bằng nghề mổ heo để ăn hay bán. Nhằm lúc
đói kém, ông ta đi về nông thôn với chiếc xe đầy nhóc gạo và trở về đầy ắp
heo con, mua trong các làng, với giá mỗi con chỉ nửa lít hoặc một lít gạo.
Sau nhà, ông ta có một miếng đất rào lại thành một chuồng heo, và ông ta
nuôi heo với tất cả các loại cây cỏ và phân. Khi nào ông ta muốn giết heo,
ông ta trói heo thật chắc chắn vào một cây cột và nện nó bằng một cây chày
vuông để làm thịt nó sưng phồng lên và mềm đi. Rồi, banh hàm heo và lồng
vào miệng nó một cái nêm nhỏ, ông ta rót nước thật nóng từ một nồi đồng đổ
xuống họng nó. Nước nóng thấm vào dạ dày heo, làm lỏng phân, và tống ra
ngoài hậu môn phân nóng với nước. Nếu còn một cục phân nhỏ sót lại trong
bao tử heo, thì nước chảy ra biến màu và đục, nhưng khi bao tử heo đã
sạch, nước chảy ra sẽ trong và sạch. Chỗ nước còn lại ông ta đổ lên lưng
heo, và nước sẽ làm tuột da, lột lớp da đen. Rồi ông ta thui lớp lông cứng
bằng một cây đuốc. Cuối cùng ông cắt đầu heo bằng một thanh kiếm nhọn. Khi
máu phun ra, ông ta hứng vào dĩa, rồi ông quay heo, bôi máu hứng được lên
da. Và ông ta ngồi vào bàn cùng vợ con ăn thịt heo quay. Thịt còn lại, ông
ta bán. Theo cách này, ông ta đã sinh sống trong năm mươi lăm năm. Dù đức
Ðạo sư ở tinh xá bên cạnh mà không có một ngày nào Cunda cúng dường Ngài,
dù là một nắm hoa hay một muỗng cơm, cũng không làm một việc công đức nào
cả.
Một hôm ông
mắc bệnh, và dù ông ta vẫn còn sống, ngọn lửa của đại địa ngục A-tỳ đã bốc
cháy trước mặt. (Ngọn lửa A-tỳ là một cực hình có sức thiêu đốt kinh khủng
có thể phá huỷ mắt người nào nhìn cách một trăm dặm).
Thật ra, ngọn
lửa ấy được mô tả như sau: "Ngọn lửa luôn luôn phụt ngọn liên tục vào mọi
phía, xa đến một trăm dặm". Trưởng lão Nàgasena (Tỳ-kheo Na- tiên) đã dùng
lối so sánh sau để chỉ sức nóng mãnh liệt biết bao so với ngọn lửa thường:
"Ðại vương! Hãy nghĩ xem, một khối đá to bằng một ngôi chùa đưa vào ngọn
lửa địa ngục sẽ tan chảy chỉ trong chốc lát. Tuy nhiên, chúng sanh bị tái
sanh ở đó, vì quả báo của việc làm quá khứ, không bị chết tiêu mà cảm thấy
như đang nằm trong thai mẹ".
Khi cực hình
của đại địa ngục A-tỳ giáng xuống đồ tể mổ heo Cunda, hành động của ông ta
thay đổi tương xứng với nghiệp quá khứ. Dù còn ở trong nhà, ông ta bắt đầu
kêu ủn ỉn như heo và bò bằng tay và đầu gối, bỏ ra trước nhà rồi bò đến
phía sau. Những người trong gia đình áp đảo và bịt miệng ông ta. Nhưng dù
họ làm đủ cách (bởi không ai có thể ngăn được quả báo xảy đến cho một
người do hành động quá khứ của chính người đó), ông ta vẫn bò lui và kêu
ủn ỉn liên tục như một con heo.
Bảy nhà xung
quanh không ai có thể ngủ được. Thân quyến của ông ta khủng khiếp vì sợ
chết, không có cách nào khác có thể ngăn ông ta đi ra, họ chặn các cửa và
nhốt ông ta ở trong nhà. Xong, họ bao vây nhà và đứng canh Cunda bò tới bò
lui trong nhà suốt bảy ngày, chịu sự đau khổ cùng cực của địa ngục, kêu ủn
ỉn và rống eng éc như heo.
Qua bảy ngày
bò như thế, ông ta chết và bị đọa vào đại địa ngục A-tỳ.
Vài Tỳ-kheo đi
ngang qua cửa nhà ông, nghe tiếng eng éc ồn ào, chỉ nghĩ là tiếng của
những con heo, họ đi về tinh xá, ngồi một bên đức Ðạo sư và bạch:
- Bạch Thế
Tôn, trong bảy ngày cửa nhà đồ tể Cunda đóng kín, và suốt bảy ngày vẫn
tiếp tục giết heo, chắc chắn ông ta định làm tiệc chiêu đãi. Thế Tôn nghĩ
xem, bao nhiêu heo bị giết! Hiển nhiên ông ta không có một chút từ bi và
hoàn toàn thiếu lòng trắc ẩn. Thật từ trước tới giờ chúng tôi chưa thấy ai
độc ác và man rợ như thế!
Ðức Ðạo sư
nói:
- Này các
Tỳ-kheo! Ông ta không giết heo trong bảy ngày qua. Sự trừng phạt phù hợp
với việc làm quá khứ của ông ta đã xảy đến bất ngờ đối với ông ta. Ngay
khi ông ta còn sống, cực hình của đại địa ngục A-Tỳ đã hiển hiện. Vì cực
hình này, ông ta bò tới lui trong nhà suốt bảy ngày, kêu la eng éc như một
con heo. Hôm nay ông ta chết và bị đọa vào ngục A-tỳ.
Khi đức Phật
nói xong, các Tỳ-kheo thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Ðã đau khổ ở đây trong thế gian này, ông ta lại đi đến chỗ đau khổ
nữa và tái sanh ở đó.
- Ðúng thế,
các Tỳ-kheo!
Ðức Thế Tôn
nói tiếp:
- Người nào
sống buông lung, dù cư sĩ hay tu sĩ, đều bị đau khổ ở cả hai nơi.
Nói xong, Ngài
đọc Pháp Cú:
(15) Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ
ác hai đời sầu,
Nó
sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.
11. Cư Sĩ Hiền Thiện
Nay vui,
đời sau vui...
Giáo lý này
được Thế Tôn dạy cho một cư sĩ hiền thiện khi Ngài ngụ ở Kỳ Viên.
Chúng ta nghe
kể ở Xá-vệ có năm trăm thiện tín sinh sống, mỗi người có năm trăm cư sĩ
tuỳ tùng. Người thiện tín lớn nhất có bảy con trai và bảy con gái. Mỗi đứa
con thường xuyên cúng dường theo lối rút thăm để dâng món cháo đặc và các
thức ăn khác, ngoài ra còn cúng thức ăn, thức ăn cuối tháng, thức ăn đầu
tháng, thức ăn chiêu đãi, thức ăn ngày chay, thức ăn cho khách viếng thăm,
và thức ăn mùa mưa (hạ). Tất cả những người con đó đều là "thế hệ sau',
cho nên thiện tín cùng vợ và mười bốn con duy trì mười sáu cách cúng
dường. Và vị thiện tín đức hạnh, chính trực cùng với vợ con đều hoan hỷ
trong việc sắp đặt bố thí.
Sau một thời
gian, vị thiện tín mắc bệnh và sức khoẻ suy sụp. Mong muốn được nghe pháp,
ông gởi lời đến Thế Tôn xin cử tám hay mười sáu Tỳ-kheo đến. Ðức Thế Tôn
gởi các Tỳ-kheo và họ đi ngay đến vây quanh giường ông ta, rồi ngồi xuống
chỗ được dành sẵn.
Vị thiện tín
nói:
- Chư Tôn giả!
Bây giờ muốn thấy các Ngài khó lắm vì tôi yếu quá, xin tụng lại cho tôi
nghe một bài kinh thôi.
- Ông thích
nghe kinh gì hở thiện tín?
- Kinh Tứ Niệm
Xứ, phổ cập đối với tất cả chư Phật.
Thế là chư
Tăng bắt đầu tụng bài kinh, mở đầu bằng những lời: "Chỉ có đường này, này
các Tỳ-kheo, con đường duy nhất này dẫn đến sự cứu độ chúng sanh".
Vào lúc ấy từ
sáu cõi trời hiện đến sáu chiếc xe dài một trăm năm mươi dặm do một ngàn
con ngựa Sindth thuần chủng kéo, trang hoàng với đủ loại trang sức rực rỡ.
Trên mỗi chiếc xe ngựa có một vị trời đứng, và mỗi vị trời nói:
- Cho phép
chúng tôi chở Ngài về thiên giới của chúng tôi.
Và họ nói
tiếp:
- Giống như ta
đập bể một bình đất và thay bằng một bình vàng, cũng như thế chúng sanh
sanh thiên sẽ được hạnh phúc trên cõi trời của chúng tôi.
Vị cư sĩ không
muốn bị ngắt quãng trong khi nghe pháp, liền van xin:
- Hãy khoan!
Hãy khoan!
Các Tỳ-kheo
nghĩ rằng ông ta nói với mình nên dừng tụng pháp. Con trai và con gái của
ông khóc thét:
- Trước kia
cha chúng tôi không bao giờ cho rằng mình đã được nghe pháp đầy đủ, mà nay
sau khi thỉnh các Tỳ-kheo đến và yêu cầu tụng pháp, chính ông ngăn họ lại.
Rốt cuộc không ai mà không sợ chết.
Các Tỳ-kheo
bàn với nhau:
- Không phải
lúc ở lại.
Và lập tức họ
đứng lên ra đi.
Sau một lúc,
thiện tín tỉnh lại và hỏi các con:
- Tại sao các
con khóc?
Họ đáp:
- Cha thân
yêu, cha mời các Tỳ-kheo lại, và ngay khi đang nghe pháp, chính cha ngăn
họ tụng pháp. Chúng con khóc vì nghĩ rằng rốt cuộc không ai là không sợ
chết.
- Nhưng các vị
Tỳ-kheo quí kính đâu rồi?
- Các Tỳ-kheo
đã bảo nhau: "Ðây không phải là lúc nên ở lại", và lập tức họ từ chỗ ngồi
đứng lên ra đi.
- Các con yêu,
ta không phải nói với các Tỳ-kheo quí kính như vậy.
- Vậy thì cha
nói với ai, cha thân yêu?
- Từ sáu cõi
trời có sáu vị trời hiện đến trong sáu xe ngựa trang hoàng lộng lẫy, và
đứng trên xe ngựa lơ lửng trên không, họ nói với cha: "Hãy hưởng hạnh phúc
trên thiên giới của chúng tôi". Và cha đã trả lời với họ: "Hãy khoan! Hãy
khoan!"
- Cha thân
yêu, những xe ngựa ở đâu, sao chúng con không thấy?
- Ta có vòng
hoa nào không?
- Có, thưa
cha.
- Cõi trời nào
vui sướng nhất?
- Cha thân
yêu! Vui sướng nhất là cõi trời Ðâu-suất nơi cha mẹ chư Phật cư trú, cùng
với tất cả các vị Phật tương lai.
- Tốt lắm, vậy
hãy ném lên không một vòng hoa mà nói: "Hãy khiến vòng hoa này mắc vào
chiếc xe ngựa của cõi trời Ðâu-suất".
Những người
con của của vị thiêïn tín ném lên và vòng hoa mắc vào gọng xe ngựa treo lơ
lửng trên không. Ðám con thấy vòng hoa lơ lửng trên không, nhưng không
thấy xe ngựa. Vị thiện tín hỏi:
- Các con có
thấy vòng hoa không?
- Vâng, chúng
con thấy.
- Vòng hoa này
treo lơ lửng nơi chiếc xe ngựa đến từ cõi trời Ðâu-suất. Cha sắp đi đến
cõi trời Ðâu-suất, đừng lo lắng. Nếu các con muốn tái sanh theo cha, hãy
làm những công đức như cha đã làm.
Khi dứt lời,
ông chết và đặt chân lên chiếc xe ngựa, lập tức ông tái sanh thành một vị
trời thân cao ba phần tư dặm, được trang điểm với sáu mươi xe đồ trang
sức. Ông có một ngàn thiên nữ theo hầu và ở trong cung điện bằng vàng rộng
hai mươi lăm dặm.
Khi những
Tỳ-kheo về đến tinh xá, đức Phật hỏi họ:
- Các Tỳ-kheo,
vị thiện tín có nghe tụng đọc pháp không?
- Có, bạch Thế
Tôn! Nhưng nửa chừng ông ta kêu lên: "Hãy khoan! Hãy khoan!" và ngăn chúng
con lại. Rồi con trai và con gái ông ta bắt đầu khóc. Lập tức, chúng con
bảo nhau: "Ðây không phải là lúc nên ở lại", và chúng con ttuừ chỗ ngồi
đứng lên ra đi.
- Các Tỳ-kheo!
Ông ấy không nói với các ông. Từ sáu tầng trời có sáu vị trời đến trên sáu
chiếc xe ngựa lộng lẫy, và họ gọi vị thiện tín ấy đi với họ; nhưng thiện
tín không muốn bài pháp đang đọc bị ngắt quãng nên nói với sáu vị trời như
thế.
- Thật vậy
sao, Thế Tôn?
- Ðó là sự
thật, các Tỳ-kheo ạ!
- Bạch Thế
Tôn, bây giờ ông ấy tái sinh nơi nào?
- Trên cõi
trời Ðâu-suất, các Tỳ-kheo!
- Bạch Thế
Tôn, nhưng gần đây ông sống rất vui sướng giữa các thân tộc của mình, và
bây giờ ông ấy cũng đi tái sanh một nơi vui thú.
- Ðúng vậy,
các Tỳ-kheo! Ông là người giác tỉnh. Dù cư sĩ hay tu sĩ, ông được sung
sướng cả hai nơi như nhau.
Nói xong, Ngài
đọc Pháp cú:
(16) Nay vui, đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó
vui, nó an vui,
Thấy ngiệp tịnh mình làm. |