PHẨM I: SONG YẾU (tt)
12. Nghiệp Của Ðề Bà Ðạt Ða
Nay than,
đời sau than...
Giáo lý này do
đức Ðạo sư dạy khi ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Ðề-bà-đạt-đa.
Chuyện của
Ðề-Bà-Ðạt-Ða, từ lúc trở thành Tỳ-kheo đến lúc mặt đất nứt ra và nuốt ông
ta, đều có trong mọi chuyện Bổn Sanh.
Sau đây là tóm
tắt câu chuyện:
Khi Thế Tôn
ngụ tại vườn xoài Anupiya, gần Anupiya, một thị trấn của thị tộc Mallas,
tám mươi ngàn quyến thuộc của ngài một hôm bổng nhận ra những đặc điểm của
đấng Như Lai nơi Ngài, và tám mươi ngàn chàng trai con của họ đồng tình
rằng Ngài là vua hay một vị Phật, Ngài cũng sẽ sống với một đoàn tùy tùng
gồm những ông hoàng dòng Sát-đế-lợi. Sau đó trừ sáu ông hoàng trẻ tất cả
đều xuất ly thế gian và trở thành Tỳ-kheo.
Thấy sáu ông
hoàng trẻ họ Thích này là vua Bhaddiya, và các ông hoàng Anuruddha,
Ananda, Bhayu, Kimbila và Devadatta chưa xuất thế, hoàng tộc họ Thích thảo
luận với nhau:
- Chúng ta chỉ
cho chính con của chúng ta vào Tăng đoàn. Còn sáu ông hoàng họ thích này
chắc không phải quyến thuộc của Phật nên không xuất gia làm Tỳ-kheo.
Vì vậy, một
hôm, ông hoàng họ Thích tên Mahanama đến gặp em là A-nậu-lâu-đà
(Anuruddha), tâm sự:
- Này em,
trong gia đình ta chưa có ai xuất gia, em hãy xuất gia trở thành Tỳ-kheo
và anh sẽ theo gương em.
Thuở đó,
A-lậu-nâu-đà là người được nuôi dưỡng trong nhung lụa và sự cưng chìu,
chàng chưa bao giờ nghe tiếng "không có". Thí dụ, một hôm sáu ông hoàng họ
Thích này chơi bắn bi. A-nậu-lâu-đà lấy bánh ra đánh cuộc. Khi thua, chàng
nhắn về nhà đòi bánh. Mẹ chàng làm bánh đưa cho họ. Mấy ông hoàng ăn bánh
xong tiếp tục chơi. A-nậu-lâu-đà thua liên tiếp. Ba lần mẹ chàng phải gởi
bánh tới. Lần thứ tư bà nhắn:
- Không có
bánh để gởi.
Trước đó
A-nậu-lâu-đà chưa hề nghe chữ "không có". Do đó chàng nghĩ rằng đó là một
loại bánh khác, chàng nhắn bảo tên tiểu đồng về nhà:
- Hãy gởi cho
tôi mấy cái bánh không có.
Khi mẹ chàng
nhận được tin "Mẹ ơi! Hãy gởi cho con mấy cái bánh không có", bà tự nghĩ:
- Từ trước con
ta chưa hề nghe chữ không có, vậy thì ta sẽ dạy cho nó biết nghĩa ấy.
Rồi bà lấy một
bát vàng rỗng chụp lên một bát vàng khác và gởi cho con trai.
Chư thiên bảo
vệ thành biết được khi xưa A-nậu-lâu-đà là Annabhara đã bố thí thức ăn
phần mình cho Phật Ðốc Giác Uparritha và ước nguyện: "Không bao giờ bị
nghe tiếng 'không có', không bao giờ cần biết thức ăn từ đâu đến". Bây giờ
nếu để A-nậu-lâu đa thấy bát rỗng, các vị trời sẽ không bao giờ dự được
hội trời, ngoài ra có thể đầu bị bể làm bảy mảnh nữa.
Vì thế chư
thiên bỏ đầy bánh trời vào bát. Ngay khi bát được đặt xuống trên chiếc dĩa
tròn và mở ra, mùi bánh thơm tỏa khắp thành. Hơn nữa, lúc miếng bánh đuợc
đặt vào miệng, bảy ngàn thần kinh vị giác rung lên. A-nậu-lâu-đà thưởng
thức xong liền kết luận:
- Mẹ ta chẳng
thương ta, mọi khi mẹ chẳng hề chiên bánh không có này cho ta. Từ đây trở
đi ta sẽ không ăn loại bánh nào khác.
Rồi chàng về
nhà hỏi mẹ:
- Mẹ, mẹ có
thương con hay không?
- Con cưng của
mẹ, con ví như con mắt quí báu của một người chỉ có một con mắt, và cũng
giống như trái tim mẹ yêu quí con còn hơn thế nữa.
- Vậy thì mẹ
thương, tại sao mấy lần trước mẹ không chiên bánh "không có" cho con?
Người mẹ hỏi
chú tiểu đồng:
- Nhỏ, không
có gì trong bát chứ?
- Thưa bà,
chiếc dĩa tràn đầy bánh, và thứ bánh này tôi chưa hề thấy trước kia.
Người mẹ liền
hiểu: "Thật là con ta có công đức lớn. Chắc là nó có một ước nguyện. Những
vị trời chắc đã bỏ bánh dầy đĩa và gởi cho nó".
Ðứa con nói
tiếp với mẹ:
- Từ nay con
sẽ không ăn loại bánh nào khác hơn.
Từ nay về sau
xin mẹ hãy chỉ chiên bánh "không có" cho con.
Từ lần đó, khi
con bà nói "Con muốn ăn bánh" bà liền gởi một bát không, đậy bằng một bát
khác, và suốt thời gian chàng sống ở nhà, những vị trời gởi bánh trời cho
chàng. Vì A-nậu-lâu-đà quá ngây thơ với mọi sự như thế làm sao chàng có
thể nghĩ ra để hiểu ý nghĩ của từ ngữ "trở thành một Tỳ-kheo".
Vì lý do đó
chàng hỏi anh mình:
- Trở tnành
một Tỳ-kheo là sao?
Anh chàng trả
lời:
- Ðời sống của
một Tỳ-kheo gồm cạo bỏ râu tóc, ngủ trong bụi gai cũng bình thường như y
trong giường đẹp và đi khắp nơi khất thực.
A-nậu-lâu-đà
bày tỏ ý mình:
- Này anh, em
quá sung sướng, em sẽ không bao giờ có thể thành một Tỳ-kheo.
- Tốt lắm, em
thân yêu, vậy hãy học nghề nông và sống đời sống của một gia chủ. Nhưng ít
nhất, một trong hai anh em chúng ta phải trở thành Tỳ-kheo.
A-nậu-lâu-đà
nói:
- Làm nông là
sao?
Làm sao có thể
trông mong một chàng trai biết được ý nghĩ của chữ nông nghiệp khi anh ta
không biết được thức ăn từ đâu đến? Như một ngày nọ, ba ông hoàng Kimbila,
Bhaddiya và A-nậu-lâu-đà bàn lận với nhau về thức ăn từ đâu đến.
Kimbila nói:
- Nó đến từ
kho lúa.
Bhaddiya nói
với chàng:
- Anh không
biết thức ăn từ đâu đến, nó đến từ cái nồi.
A-nậu-lâu-đà
nói:
- Cả hai anh
đúng là chẳng biết thức ăn đến từ đâu cả. Nó đến từ một bát vàng đậy nắp
ngọc.
Người ta kể
rằng: Một hôm Kimbila thấy gạo được chuyển ra từ kho thóc, và lập tức
chàng nghĩ "những hạt gạo được sản xuất trong kho". Cũng vậy, một hôm
Bhaddiya thấy thức ăn được múc ra từ một cái nồi, và chàng cho rằng "nó có
được từ trong nồi".
A-nậu-lâu-đà
chưa hề thấy người ta chứa gạo, nấu cơm hay múc ra khỏi nồi, nhưng chỉ
thấy sau khi đã múc ra khỏi nồi và đặt trước chàng. Vì vậy chàng cho rằng
khi người ta muốn ăn, thức ăn xuất hiện ngay trong một bát vàng. Ðó là sự
ngu dốt của cả ba ông hoàng về việc thức ăn đến từ đâu.
Bấy giờ trở
lại khi A-nậu-lâu-đà hỏi:
- Làm nông
nghĩa là sao?
Chàng nhận
được câu trả lời sau:
- Trước hết
cánh đồng phải được cày lên, và sau đó những việc khác như thế, như thế
phải làm. Và những việc ấy phải làm từ năm này đến năm khác.
Chàng tự nhủ:
- Những bổn
phận ràng buộc với nghề nông như thế thì đến bao giờ mới hết. Bao giờ
chúng ta mới có thời gian vui hưởng tài sản của mình một cách an nhàn?
Và vì cho rằng
những bổn phận ràng buộc vào đồng áng không bao giờ hết và không bao giờ
dừng, chàng liền đổi ý:
- Thôi thì,
nếu như vậy anh phải sống đời sống của một gia chủ; còn em, em không sống
như vậy.
Sau đó, chàng
đến nói với mẹ:
- Mẹ! Hãy cho
phép con! con muốn xuất gia trở thành một Tỳ-kheo. Ba phen chàng đòi mẹ
cho phép trở thành Tỳ-kheo và ba lần bà từ chối. Cuối cùng bà nói với
chàng:
- Nếu vua
Bhaddiya, bạn con xuất gia, con có thể xuất gia với anh ta.
Sau đó, chàng
đến Bhaddiya bạn mình và nói:
- Này bạn, tôi
có xuất gia được hay không với điều kiện là bạn xuất gia đấy!
A-nậu-lâu-lâu-đà thúc giục bạn Bhaddiya bằng mọi lý lẽ khiến anh cùng đi
xuất gia. Và cuối cùng, vào ngày thứ bảy Bhaddiya hứa khả.
Rồi sáu ông
hoàng thuộc giai cấp Sát-đế-lợi - Bhaddiya, vua của những người họ Thích
(Sakyans), A-nậu-lậu-đá, Ananda, Bhagu, Kimbila và Ðề-bà-đạt-đa - kèm thêm
người hớt tóc là Upali thành bảy người, sau bảy ngày vui hưởng hạnh phúc
thần tiên như những vị trời, bắt đầu ra đi với trang phục nhiều gấp bốn
lần, như thể trên đường đến vườn giải trí. Khi họ tới lãnh thổ nước khác,
họ ra lệnh quân lính trở về. Họ cởi những đo trang sức, gói lại và đưa cho
Upali, nói:
- Này Upali,
bây giờ hãy trở về. Tất cả tài sản này sẽ đủ cung cấp cho anh sanh nhai.
Upali gieo
mình xuống chân họ, lặn lộn trên đất và khóc thảm thiết. Nhưng không giám
cãi lệnh, đứng lên và trở về. Giờ chia tay rừng rủ lá, đất rung động.
Upali đi được một quãng ngắn không an lòng vì nghĩ rằng những người
Sakyans họ Thích ác nghiệt và tàn bạo có thể giết mình vì nghĩ rằng mình
đã giết anh em họ. Những ông hoàng họ Thích Sakyans này đã từ bỏ nếp sống
lộng lẫy xa hoa, đã lột bỏ những trang sức vô giá xem như một đống đờm dãi
và dự định xuất gia trở thành Tỳ-kheo. Sao mình lại không?
Rồi ông mở
gói, treo những đồ trang sức trên cây để mặc, ai muốn hãy đến lấy!
Xong, ông đến
chỗ những ông hoàng. Họ ngạc nhiên hỏi ông tại sao ở lại, ông kể với họ
toàn bộ câu chuyện. Như vậy sáu ông hoàng đem theo người thợ cạo Upali đến
Thế Tôn và bạch:
- Bạch Thế
Tôn, chúng con là những người họ Thích kiêu hãnh. Người thợ cạo này là
người phục vụ chúng con từ lâu. Xin thu nạp ông ta vào Tăng đoàn trước, vì
để ông ta vào trước chúng con sẽ cung kính ông ta, do sự kiêu hãnh của
chúng con sẽ được giảm bớt.
Vậy là trước
tiên họ đã xin cho thợ cạo Upali xuất gia trước và sau đó chính họ xin vào
Tăng đoàn.
Trong sáu ông
hoàng họ Thích này , Tôn giả Bhaddiya chứng Tam minh ngay mùa hạ đầu. Tôn
giả A-nậu-lâu-đà chứng Thiên nhãn thông, và sau nghe bài kinh đầu đề
"Những điều suy niệm của một bậc đại nhân", Ngài chứng A-la-hán. Tôn giả
A-nan chừng quả Dự lưu, Trưởng lão Bhaya và Trưởng lão Kimbila sau đó khai
mở Minh-sát-tuệ và chứng A-la-hán. Ðề-bà-đạt-đa chứng thần thông thấp hơn.
Sau một thời
gian, khi Thế Tôn ngụ tại Kossambi, của cải và tiếng tăm đều dồn về Thế
Tôn và chúng đệ tử của Ngài. Mọi người đến tinh xá thường mang trong tay y
phục, thuốc men và những vật cúng dường khác, và hỏi:
- Ðức Ðạo sư ở
đâu?
- Trưởng lão
Xá-lợi-phất đâu?
- Trưởng lão
Mục-kiền-liên đâu?
- Trưởng lão
Ca-diếp đâu?
- Trưởng lão
Bhaddiya đâu?
- Trưởng lão
A-nậu-lâu-đà đâu?
- Trưởng lão
A-nan đâu?
- Trưởng lão
Bhagu đâu?
- Trưởng lão
Kimbila đâu?
Nói xong, họ
đi tìm chỗ ngồi của tám mươi vị Ðại đệ tử.
A. Những
Hành Ðộng Ác Của Ðề Bà Ðạt Ða.
Nhưng chẳng ai
hỏi đến Ðề-bà-đạt-đa. Từ đó ông sanh lòng bất mãn: "Ta đi tu cùng lúc với
những Tỳ-kheo kia, cũng thuộc giai cấp chiến sĩ như họ. Vậy mà các thí chủ
mang phẩm vật cúng dường kia chỉ đến tìm những Tỳ-kheo ấy, chẳng ai nhắc
đến tên ta. Ta sẽ về phe ai, thâu phục cảm tình ai để có được lợi dưỡng và
sự tôn kính?" Và ông toan tính ly khai. Sau đó ông nghĩ tiếp: "Vua Bình-sa
ngay hôm đầu gặp Phật cùng mười một vạn tùy tùng, đã chứng quả Dự lưu, ta
không thể về phe ông. Ta cũng không thể theo phe vua Kosala, nhưng ta sẽ
đến với hoàng tử A-xà-thế, kẻ không biết nhìn người".
Từ Kosambi,
Ðề-bà-đạt-đa đi đến Vương Xá, tự biến thành một chàng trai, với bốn con
rắn ở tay chân, một con quanh cổ, một con cuộn tròn trên đầu như búi nệm,
một con vắt trên vai. Trang điểm đầy rắn như thế ông từ không trung bay
xuống ngồi ngay trong lòng A-xà-thế hết hồn hỏi:
- Người là ai?
- Tôi là
Ðề-bà-đạt-đa.
Ðể A-xà-thế
hết sợ, Ðề-bà-đạt-đa biến nguyên hình trở lại là một Tỳ-kheo, đắp y mang
bát và ông chiếm được cảm tình của A-xà-thế cùng lợi dưỡng và sự tôn kính.
Ðược lợi dưỡng
và sự tôn kính rồi, Ðề-bà-đạt-đa quyết định: "Ta phải là người lãnh đạo
Tăng đoàn". Vừa khởi ác niệm, Ðề-bà-đạt-đa mất hết thần thông. Bấy giờ đức
Ðạo sư đang thuyết pháp cho Tăng chúng ở Trúc Lâm tinh xá, cũng có nhà vua
trong chúng hội. Giữa thời pháp Ðề-bà-đạt-đa đảnh lễ Phật, từ chỗ ngồi
đứng dậy chấp tay thỉnh cầu:
- Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn nay đã già yếu, mệt mỏi, hãy sống an nhàn không lo lắng. Tôi
sẽ lãnh đạo Tăng đoàn, hãy giao phó Tăng đoàn cho tôi.
Ðức Ðạo sư,
thay vì chấp nhận sự sắp xếp của Ðề-bà-đạt-đa, đã từ chối lời thỉnh cầu và
gọi ông là hạng người ăn đờm dãi. Ðề-bà-đạt-đa căm phẫn tột độ ra đi. Ðây
là lần thứ nhất ông oán hận đức Ðạo sư. Ðức Phật cho công bố câu chuyện
Ðề-bà-đạt-đa tại Vương Xá.
Ðề-bà-đạt-đa
hận thù không nguôi vì bị đức Phật khai trừ nên rắp tâm phá Phật. Ông đến
gặp A-xà-thế bày kế:
- Này chàng
tuổi trẻ, con người trước đây sống lâu, nhưng nay chết sớm. Một ông hoàng
như anh chẳng bao lâu cũng sẽ chết. Vậy thì, anh hãy giết cha rồi lên làm
vua, còn ta sẽ giết đức Thế Tôn và lên làm Phật.
Mưu kế thành
tựu, A-xà-thế giết cha rồi lên ngôi, còn Ðề-bà-đạt-đa không bỏ cuộc, tự
thân leo lên đỉnh núi lòng dặn lòng: "Một mình ta sẽ dứt đời Sa-môn
Cồ-đàm". Rồi ông lăn đá xuống, nhưng chỉ làm thân Phật chảy máu. Thất bại
lần nữa trong việc giết Phật, ông lại tính keo khác là thả voi Nàlàgiri
hại Phật. Khi voi đến gần, Ðại đức A-nan đứng mũi chịu sào hy sinh cản
đường cứu Phật. Ðức Ðạo sư nhiếp phục được voi và rời thành trở về tinh
xá. Sau khi dự buổi thọ trai do hằng ngàn thiện tín cúng dường, đức Ðạo sư
đúng thời nói pháp cho cư dân Vương Xá, đông đến một trăm tám mươi triệu
người. Có tám mươi bốn ngàn người được Pháp nhãn thanh tịnh. Các Tỳ-kheo
lúc đó không ngớt tán thán A-nan:
- Ðại đức
A-nan thật cao thượng! Khi con voi hung tợn chạy đến, người dám hy sinh
mạng sống đứng chắn cho đức Ðạo sư.
Ðức Phật nghe
các Tỳ-kheo khen vậy liền bảo:
- Các thầy,
đây chẳng phải là lần đầu A-nan hy sinh vì ta. Trong kiếp quá khứ, ông ấy
cũng làm như vậy.
Và đáp lời
thỉnh cầu của các Tỳ-kheo, Phật kể chuyện tiền thân Culla Hamsa và
Kakkata.
Qua việc bày
mưu giết vua, mướn người giết Phật, lăn đá, tính ác độc của Ðề-bà-đạt-đa
chưa gây chấn động dư luận như lần thả voi hại Phật. Dân chúng biết chuyện
xôn xao bàn tán: "Ðề-bà-đạt-đa một mình đã giết vua, mướn kẻ sát nhân ném
đá, nay còn thả voi Nàlàgiri. Nhà vua đang thân cận một kẻ ác độc đến
thế!" Nhà vua nghe được bèn bãi bỏ năm trăm nồi nấu thức ăn cho
Ðề-bà-đạt-đa và từ đó không cung cấp, đáp ứng các nhu cầu của Ðề-bà-đạt-đa
nữa. Dân chúng cũng vậy, khi ông đến nhà khất thực, họ vẫn không cúng
dường.
Danh và lợi
đều mất, Ðề-bà-đạt-đa lại giở trò quỷ quyệt. Ông đi đến đức Phật đưa ra
năm điểm nhưng đức Ðạo sư bác bỏ:
- Ðủ rồi,
Ðề-bà-đạt-đa! Ai muốn như vậy, hãy làm một nhà khổ hạnh ở trong rừng.
Ðề-bà-đạt-đa
quay sang các Tỳ-kheo:
- Chư huynh
đệ, lời dạy nào cao thượng hơn, lời Phật hay lời tôi vừa nói? Ðược rồi,
Thế Tôn. Sa-môn suốt đời nên sống trong rừng, đi khất thực, mặc áo bằng
giẻ rách lấy từ đống rác, ở dưới gốc cây, không ăn cá thịt. Ai muốn giải
thoát đau khổ, hãy để người ấy đến với tôi.
Nói rồi,
Ðề-bà-đạt-đa ra đi.
Một vài Sa-môn
vừa mới xuất gia, thiếu trí, nghe những lời này nghĩ là Ðề-bà-đạt-đa nói
đúng. Rồi họ đi theo Ðề-bà-đạt-đa cùng năm trăm Tỳ-kheo bằng mọi cách
thuyết phục mọi người từ người dễ tin đến người dày dạn, chấp thuận năm
điểm, và sống bằng cách khất thực từ nhiều gia đình. Ðồng thời
Ðề-bà-đạt-đa vẫn tìm cách tạo sự chia rẽ trong Giáo đoàn.
Ðức Thế Tôn
nghe ra bèn bảo:
-
Ðề-bà-đạt-đa, có đúng như người ta nói, ông đang cố tình gây chia rẽ Tăng
đoàn không?
Ðề-bà-đạt-đa
trả lời:
- Ðúng!
Phật dạy:
-
Ðề-bà-đạt-đa, chia rẽ Tăng đoàn là một tội ác ghê gớm.
Ðức Ðạo sư
tiếp tục răn nhắc Ðề-bà-đạt-đa. Nhưng ông không để ý đến lời Phật dạy.
Ðề-bà-đạt-đa ra đi, gặp Ðại đức A-nan đang đi khất thực trong thành Vương
Xá, ông nói:
- Sư huynh
A-nan, kể từ hôm nay tôi sẽ làm lễ phát lồ và tăng sự riêng biệt, không
cần Tăng đoàn, không cần Thế Tôn.
Ðại đức A-nan
kể lại cho đức Phật nghe, bậc Ðạo sư đã phẫn nộ một cách chính đáng, và
biết rằng Ðề-bà-đạt-đa làm như vậy là tự đóng cửa nhơn-thiên, sẽ phải chịu
đau khổ nơi đại ngục A-tỳ.
Và Ngài suy
nghĩ như vầy:
Dễ
làm thay việc ác,
Việc chỉ gây tai hại.
Những việc lành đem lại
Hạnh phúc, rất khó làm.
Rồi, đức Ðạo
sư lại nói lên câu kinh sau:
Dễ
thay cho người lành,
Làm những việc thiện tốt.
Khó thay cho người ác,
Làm những việc thiện lành.
Người ác khó làm lành,
Người lành khó làm ác.
Vào ngày phát
lồ, Ðề-bà-đạt-đa ngồi về một phía với những người theo ông, nói:
- Ai đồng ý
năm điểm hãy lấy một lá phiếu.
Năm trăm hoàng
tử Lệ-xá, những Sa-di ít lòng biết ơn, lấy phiếu. Ðề-bà-đạt-đa đem những
thầy này đến Gayàsìsa. Ðức Ðạo sư biết tin họ đến đó, liền phái hai đại đệ
tử đi dẫn họ về. Hai vị đến đó, trổ hết thần thông thuyết pháp khiến năm
trăm vị Tỳ-kheo nếm được vị Niết-bàn, liền theo hai vị bay về tinh xá hầu
Phật.
Tỳ-kheo
Kokàlika, người cùng âm mưu với Ðề-bà-đạt-đa, thấy vậy, đã vào đánh thức
ông dậy:
- Dậy đi huynh
Ðề-bà-đạt-đa, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã đoạt hết các Tỳ-kheo của anh
rồi, anh chẳng nhớ tôi đã nói là đừng tin Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên
sao?
Ðề-bà-đạt-đa
nói:
- Xá-lợi-phất
và Mục-kiền-liên ôm lòng ác độc.
Vừa nói lên
câu ấy, đầu gối Ðề-bà-đạt-đa đã dộng trúng tim mình và miệng hộc máu tươi
ra.
Các Tỳ-kheo
trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất bay trong không giữa một đoàn Sa-môn tùy
tùng, báo tin cho Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Ðại đức Xá-lợi-phất đi chỉ với một người mà trở về huy hoàng với cả
đám đông.
Ðức Ðạo sư
đáp:
- Các Tỳ-kheo,
đây không phải lần đầu xảy ra sự việc này. Khi Xá-lợi-phất sinh trong thân
thú, ông cũng đã trở về với Ta huy hoàng như vậy.
Và Phật nói
bài kệ chuyện tiền thân Lakkhana (Tiền thân của Xá-lợi-phất đã bảo vệ được
năm trăm con nai trong đàn an toàn trở về sau mùa săn. Còn nai Kàla, tiền
thân của Ðề-bà-đạt-đa không bảo vệ được đàn mình, để năm trăm con nai bị
chết hết).
Người đạo đức, thân thiện,
Mọi sự đều tốt lành.
Kìa, Lakkhana xuất hiện!
Dắt theo đủ bà con.
Và
kìa, xem Kàla,
Chẳng bà con nào còn!
Các Tỳ-kheo
lại kể tiếp:
- Bạch Thế
Tôn, người ta đồn rằng Ðề-bà-đạt-đa cũng đặt hai vị Ðại đệ tử ngồi hai bên
và bắt chước Thế Tôn nói: "Ta sẽ thuyết pháp như Phật".
Ðức Ðạo sư
nói: - Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu ông ấy làm như vậy.
Trong một kiếp quá khứ ông ấy cũng bắt chước ta, nhưng đã thất bại.
Vìraka! Có thấy
Chồng tôi, Savitthaka (1), đâu không?
Tiếng chàng thanh dịu ngọt
Cổ
rực rỡ như công?
Savitthaka ham bắt chước
Vĩraka, quạ nước
Lặn bắt cá trong hồ
Vướng rong rêu, đã chết.
(1) Quạ
Savitthaka - tiền thân của Ðề-bà-đạt-đa - muốn bắt chứơc con quạ nước
Vĩraka (tiền thân của Phật) lặn xuống hồ bắt cá, bị mắc giữa đám rong và
chết.
Ðể kể hết câu
chuyện, đức Thế Tôn thuật chuyện tiền thân Vìraka. Mấy hôm sau, cũng với
đề tài này, Ngài kể các chuyện tiền thân Kandagalaka và Virokana:
Chim gõ mõ (2) bay trong rừng mổ
Cây cành mềm, hư đổ, kiếm ăn.
Cây keo gỗ chắc một khi
Hắn lầm mổ phải đầu thì bể ngay
Óc
não mày nát chảy,(3)
Ðầu thì vỡ tan hoang,
Bao xương sườn gãy vụn,
Thật thảm thương kinh hoàng,
(2) Chim gõ mõ
Kandagalaka, tiền thân của Ðề-bà-đạt-đa bắt chước chim bạn-tiền thân của
Phật mổ cây leo kiếm sâu ăn. Vì khác loài, không đủ khả năng nó bị gãy mỏ,
mắt lồi ra, đầu bể.
(3) Dã can
(tiền thân của Ðề-bà-đạt-đa) sống nhờ ăn đồ thừa của sư tử - tiền thân
Phật- một hôm dã can bắt chước sư tử, giết voi, bị voi đạp nát xương thịt
rồi đi đại tiểu tiện lên.
Một ngày nọ,
nghe lời nhận xét "Ðề-bà-đạt-đa là kẻ bội ơn", đức Ðạo sư kể lại chuyện
tiền thân Java Sakuna:
Chúng tôi đã hết lòng phục vụ.
Và
vô cùng tôn kính chúa công.
Vậy nay xin được cầu mong,
Chúa ban ơn huệ mở lòng tha cho.
Ta
đã ngặm chắc ngươi trong mõm,
Ta
sống bằng uống máu ăn tươi.
Thói ưa giết chóc ta nuôi.
Quá lâu ngươi đã sống rồi, tiếc chi!
Phật lại kể
chuyện tiền thân Kurunga, cho thấy Ðề-bà-đạt-đa đi đây đi kia chỉ để sát
hại:
Con nai biết quá rõ,
Chính ngươi (4) thả trái rơi:
"Ta mau đến cây khác
Cây không thích, nên rời."
(4) Người thợ
săn chài lưới (tiền thân Ðề-bà-đạt-đa) liệng trái cây nhử nai (tiền thân
Phật) để giết nhưng không thành công.
Lại nữa, khi
người ta bàn bạc: "Ðề-bà-đạt-đa mất cả lợi dưỡng danh dự và địa vị tôn quý
của một Sa-môn", đức Ðạo sư nói:
- Các Tỳ-kheo,
đây chẳng phải là lần đầu ông ấy mất hết, trong một kiếp quá khứ cũng vậy;
và Phật kể chuyện tiền thân Ubhataobhattha:
Mắt hư, áo bị mất (5),
Cãi vả đến trong nhà,
Việc làm ăn hỏng cả
Dưới nước lẫn trên bờ.
(5) Một người
chài lưới (tiền thân Ðề-bà-đạt-đa) câu nhằm khúc cây tưởng là cá lớn, cởi
áo lặn xuống bắt, bị va vào khúc cây mù hai mắt áo trên bờ bị lấy cắp. Vợ
người ấy ở nhà sợ phải chia phần cá, cãi vã với hàng xóm và bị phạt vạ.
Trong lúc đức
Ðạo sư ngự tại Vương Xá, Ngài đã kể chuyện tiền thân của Ðề-bà-đạt-đa như
vậy. Rồi Ngài đến Xá-vệ ở tại Kỳ Viên.
Ðề-bà-đạt-đa
bị đau trong chín tháng. Sau cùng, muốn gặp đức Phật, ông nói với đệ tử
của ông:
- Ta muốn gặp
đức Ðạo sư, hãy giúp ta đến gặp Người:
Họ trả lời:
- Khi còn sức
khỏe, thầy đã đối xử thù nghịch với đức Ðạo sư, chúng tôi sẽ không dẫn
thầy đến gặp Phật.
Ðề-bà-đạt-đa
nói:
- Xin đừng hại
tôi! Tôi thật có lòng thù hận đức Thế Tôn, nhưng Ngài không hề ghét tôi
dầu chỉ mảy lông.
Và thật vậy:
Kẻ
sát nhân Ðề-bà-đạt-đa
Và
kẻ cướp Ương-quật-ma-la.
Voi Dhanapàla hay La-hầu-la
Với ai Phật cũng ôn hòa điềm nhiên.
- Cho tôi gặp
đức Thế Tôn.
Ðề-bà-đạt-đa
năn nỉ mãi.
Sau cùng họ để
Ðề-bà-đạt-đa trên cái cáng khiêng đi. Các Sa-môn nghe Ðề-bà-đạt-đa đến,
thông báo với Phật:
- Bạch Thế
Tôn, Ðề-bà-đạt-đa đang đến gặp Thế Tôn.
Phật dạy:
- Ông ấy sẽ
không gặp Ta trong kiếp này nữa.
(Người ta nói
rằng, kể từ lúc các Sa-môn đưa ra năm điều, họ đã không còn gặp Phật được
nữa).
- Bạch Thế
Tôn, họ đã đến nơi đó... nơi đó... rồi.
- Ông ấy làm
gì thì làm, cũng chẳng bao giờ gặp lại Ta.
- Bạch Thế
Tôn, hiện ông ấy chỉ còn cách một dặm, chỉ còn cách nửa dặm, chỉ còn cách
một khoảng... ông ấy đến hồ sen.
- Dầu cho ông
ấy vào đến Kỳ Viên, cũng không gặp được Ta.
Những người
khiêng Ðề-bà-đạt-đa đến hồ sen tinh xá, đặt cáng và xuống tắm trước khi
vào hầu Phật. Ðề-bà-đạt-đa ngồi dậy, bỏ chân xuống đất, và bị lún xuống
đất, và bị lún ngay tại đó. Ông bị lún từ từ, ban đầu là mắt cá, rồi đến
đầu gối, hông, ngực, rồi đến cổ... Sau cùng, khi làm sát đất, ông đọc đoạn
kệ sau:
Với xương và thịt này
Cùng với hơi thở còn
Con xin quy y Phật
Thiên Nhơn Sư, Thế Tôn
Ðiều Ngự, đấng Toàn Giác
Ðức hạnh hằng tỏa rạng
Trăm hảo tướng chói ngời.
Theo truyền
thuyết, khi đức Phật thấy sự việc như vậy, Ngài lại xuất gia cho
Ðề-bà-đạt-đa làm Sa-môn, vì Phật biết nếu Ðề-bà-đạt-đa là một cư sĩ, chưa
được xuất gia, với chừng ấy tội ác đã tạo, ông sẽ không thể còn có hy
vọng, tin tưởng gì ở kiếp tương lai. Nhưng nếu ông là một Sa-môn thì dầu
có phạm tội ghê gớm mức nào, vẫn có thể vững lòng tin vào kiếp tương lai.
(Sau trăm ngàn kiếp Ðề-bà-đạt-đa sẽ thành Phật Ðộc Giác hiệu là
Atthissara-Thiên Vương Như Lai, cõi nước tên là Thiện Ðạo).
Sau khi chết
lún trong đất, Ðề-bà-đạt-đa đọa vào địa ngục A-Tỳ. "Vì ông phạm tội với
một đức Phật thường hằng, hãy để ông chịu cực hình không gián đoạn". Và đó
là sự đau đớn Ðề-bà-đạt-đa phải chịu. Vì ngục A-tỳ rộng lớn một trăm dặm
nên thân ông cao một trăm dặm. Cả đầu đến lỗ tai ông bị ở trong một cáo sọ
sắt và chân lún đến mắt cá nằm trong mặt nền bằng sắt. Một cọc sắt to bằng
thân cây thốt nốt từ vách phía tây của chiếc ngục sắt đâm ngang thắt lưng,
suốt qua ngực và xuyên qua vách sắt phía đông. Một cọc sắt khác từ vách
sắt phía bắc. Một cọc khác từ đỉnh sọ sắt, đâm qua sọ của Ðề-bà-đạt-đa,
suốt xuống phần dưới và xuyên đến mặt nền bằng sắt. Ðề-bà-đạt-đa chịu sự
đau đớn trong tư thế không thể nhúc nhích này.
Các Tỳ-kheo
bắt đầu bàn bạc: "Ðề-bà-đạt-đa từ xa đến nhưng không gặp được đức Ðạo sư,
lại bị chôn sống".
Ðức Phật dạy:
- Ðây không
phải là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa phạm tội với Ta và bị chôn sống. Trong một
kiếp trước ông cũng bị chôn sống như vậy.
Ðể minh chứng,
Ngài kể câu chuyện đã xảy ra trong một tiền thân của Ngài làm voi chúa. Có
một người bị lạc đường, voi để anh ta ngồi trên lưng và chở về nơi an
toàn. Sau đó người ấy trở lại chỗ voi ba lần liên tiếp cưa lấy phần đầu,
phần giữa và phần gốc ngà của voi. Vừa đi khuất tầm mắt voi chúa, anh ta
liền bị đất chôn sống.
Và đức Ðạo sư
kết thúc câu chuyện tiền thân Sìlava Nàga:
Một người ưa bội bạc
Và
luôn tìm cơ hội
Dầu cho cả quả đất
Cũng không thấy thỏa lòng.
Mọi người bàn tán mãi chuyện này.
Vì thế đức
Phật kể lại câu chuyện Kalàburàjà (tiền thân Ðề-bà-đạt-đa) bị đất nứt chôn
sống vì làm hại Khantivàdi (tiền thân đức Phật). Rồi đức Ðạo sư lại kể
chuyện Mahàpatàparàjà (tiền thân Ðề-bà-đạt-đa) bị đất chôn sống vì làm hại
Culla Dhammapàla (tiền thân Phật).
Giờ đây khi
Ðề-bà-đạt-đa đã bị đất nuốt, dân chúng vui mừng, treo cờ, dựng cây chuối
rẻ quạt, bày những lu hũ đầy nước, mở hội lớn: "Cái chết của hắn quả là
thắng lợi lớn đối với chúng ta".
Khi các
Tỳ-kheo bạch lại chuyện này cho đức Ðạo sư, Ngài dạy:
- Ðây không
phải là lần đầu dân chúng vui mừng vì Ðề-bà-đạt-đa chết. Trong quá khứ họ
cũng vui mừng như vậy. Rồi Ngài kể câu chuyện tiền thân Pingala vua xứ
Ba-la-nai, bị dân chúng oán ghét vì quá ác độc. Họ rất vui mừng khi vua
chết:
Chính vua Pingala,
Làm hại khắp mọi người.
Nay vua kia đã chết,
Ai
cũng an vui cười.
Này, anh chàng gác cổng!
Có
phải ngươi khóc than
Vì
lòng ngươi thương tiếc
Lão vua cặp mắt vàng?
Chẳng phải thương tiếc chi
Lão vua mắt vàng đó
Tôi khó vì lo sợ
Lão trở lại nơi này.
Lão đi đến cõi chết
Hại đến cả thần chết
Thần chết ngán ắt quẳng
Lão trở lại cõi này!
Sau cùng, các
Tỳ-kheo hỏi Phật:
- Bây giờ,
bạch Thế Tôn, hãy cho chúng con biết Ðề-bà-đạt-đa tái sanh nơi nào?
- Ông ấy ở nơi
địa ngục A-tỳ.
- Bạch Thế
Tôn, lúc sống, ông ấy chịu khổ, và khi chết đi, tái sinh ở cảnh khổ.
- Ðúng vậy,
Tỳ-kheo. Người không chánh niệm, dù là tu sĩ hay cư sĩ, chịu khổ cả hai
nơi.
Và đức Phật
đọc câu kệ:
(17) Nay than, đời sau than,
Kẻ
ác, hại đời than,
Nó
than: "Ta làm ác"
Ðọa cõi dữ,than hơn.
13. Bà Sumanà
Nay sướng,
đời sau sướng...
Pháp Cú này
đức Ðạo sư nói lúc ở tại Kỳ Viên tinh xá, liên quan đến bà Sumanaqa.
Mỗi ngày có
hai ngàn Tỳ-kheo thọ thực tại nhà Trưởng giả Cấp Cô Ðộc ở Xá-vệ, và hai
ngàn vị tại nhà bà đại thí chủ Tỳ-xá-khư (Visàkhà).
Tại Xá-vệ, ai
muốn cúng dường, trước hết đều tìm đến hai thiện tín này. Bạn có thắc mắc
lý do không? Giá như có ai hỏi bạn: "Liệu ông Cấp Cô Ðộc và bà Tỳ-xá-khư
cúng dường có được nhiều bằng của bạn không?" Và nếu bạn trả lời không
bằng, thì bạn có thể để ra một trăm ngàn đồng tiền để lo cúng dường, và
dầu vậy, các Tỳ-kheo cũng không hoan hỷ, sẽ thầm thì: "Cúng dường kiểu gì
vậy?" Sự thật là cả hai vị thí chủ trên biết tường tận khẩu vị của chư
Tăng và biết chính xác việc gì phải làm. Vì vậy, tất cả những ai muốn cúng
dường đều mời hai vị này cùng đi. Và nếu thỉnh chư Tăng về nhà riêng thì
các thí chủ chẳng thể tự mình lo chu đáo được bằng họ.
Gặp những
trường hợp này, Tỳ-xá-khư đâm ra lo lắng không biết ai sẽ thay bà hộ cho
chư Tăng. Bà trông thấy đứa cháu nội và chỉ định cô ta thay thế bà. Từ đó,
cháu gái bà Tỳ-xá-khư hộ cho chư Tăng tại nhà bà. Còn ông Cấp Cô Ðộc thì
chỉ định cô con gái lớn Mahà Subhaddà, cô gái này chăm sóc chúng Tăng như
lệ thường, lắng nghe pháp, và sau đó chứng quả Dự lưu. Rồi cô ta kết hôn
và đến sống với gia đình chồng. Ông Cấp Cô Ðộc chỉ định cô em là Cullà
Subhaddà, và cũng như chị cô chứng quả Dự lưu, và sau đó lấy chồng và đến
sống bên nhà chồng. Cuối cùng ông chỉ định cô em út Sumanà. Cô này chứng
quả Tư-đà-hàm, nhưng vẫn độc thân. Thất vọng vì không gặp được một người
chồng, cô nhịn ăn. Và vì muốn gặp cha, cô cho người mời ông đến.
Ông Cấp Cô Ðộc
đang ở trong phòng ăn khi nhận được lời nhắn tin của con gái. Ông đi đến
ngay và hỏi:
- Chuyện gì
vậy, con gái cưng Sumanà?
Sumanà bảo:
- Em nhỏ hỏi
gì?
- Con nói
chuyện thật lộn xộn.
- Này em nhỏ,
tôi không nói lộn xộn.
- Con sợ hả,
con gái cưng?
- Tôi không
sợ, em nhỏ.
Cô không nói
nữa, chết ngay.
Dầu đã chứng
quả Dự lưu, ông Trưởng giả cũng không chịu nổi sự buồn phiền. Nên vừa chôn
cất con xong, ông liền đến Phật khóc lóc.
Ðức Phật bảo:
- Này gia chủ,
sao ông đến Ta buồn rầu, đầy nước mắt như vậy?
- Bạch Thế
Tôn, con gái Sumanà của con đã chết.
- Rồi tại sao
ông khóc? Cái chết không đến với mọi người sao?
- Con biết,
bạch Thế Tôn. Nhưng con gái con quá hiền lành lương thiện, vậy mà khi chết
nó không tỉnh táo, lại nói mê sảng. Thật quá đỗi đau buồn!
- Nhưng này
Trưởng giả, con gái út của ông đã nói gì?
- Bạch Thế
Tôn, con gọi nó "con cưng Sumanà" và nó trả lời "em nói gì, em nhỏ"; rồi
con bảo nó "con nói thật lộn xộn" và nó trả lời "tôi không nói lộn xộn, em
nhỏ"... Rồi nó không nói nữa, nó chết.
- Này ông
Trưởng giả, con ông không nói nhảm đâu?
- Nhưng tại
sao nó trả lời như vậy?
- Chỉ vì ông
là "em nhỏ của cô ấy". Này gia chủ, con gái ông lớn về quả vị tu chứng.
Trong khi ông chỉ chứng quả Dự lưu, con ông đã chứng Tứ-đà-hàm. Con gái
ông lớn về quả vị tu chứng nên nói như vậy.
- Lý do là vậy
sao, bạch Thế Tôn?
- Lý do là
Thế, gia chủ.
- Bạch Thế
Tôn, giờ nó tái sanh ở đây?
- Ở cõi trời
Ðâu-suất.
- Bạch Thế
Tôn, khi con gái còn sống ở đây với anh em thân thuộc, nó đi lại vui vẻ,
và khi ra đi, nó lại tái sinh cõi phước lạc, an vui.
Ðức Ðạo sư bảo
ông Cấp Cô Ðộc:
- Ðúng như
vậy, gia chủ! Người chánh niệm, dù tại gia hay xuất gia, đều an vui đời
này và đời sau.
Phật đọc bài
kệ:
(18) Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó
sướng: "Ta làm thiện".
Sanh cõi lành sướng hơn.
14. Chuyện Hai Huynh Ðệ
Nếu người
nói nhiều kinh...
Pháp Cú này
Phật dạy lúc trú tại Kỳ Viên liên hệ đến hai vị Tỳ-kheo đồng tu.
Tại Xá-vệ có
hai chàng trai thuộc hạng khá giả vốn là bạn thân thiết không rời. Một dịp
nọ, họ đến tinh xá nghe Phật nói pháp, liền bỏ hết dục lạc thế gian dấn
thân vào phật đạo và trở thành Sa-môn. Sau năm năm an cư với các vị thầy
hướng dẫn, họ đến gặp đức Ðạo sư và hỏi về bổn phận tu tập. Sau khi được
nghe trình bày chi tiết về pháp thiền và pháp học, một người nói:
- Bạch Thế
Tôn, vì con xuất gia khi đã lớn tuổi, con không thể làm tròn pháp học
nhưng có thể làm tròn pháp thiền.
Vị này được
đức Ðạo sư hướng dẫn thiền định hướng đến quả vị A-la-hán và ông đã cố
gắng phấn đấu, đạt quả vị này cùng với các thần thông.
Còn người kia
nói:
- Con sẽ làm
tròn pháp học.
Dần dà vị này
thuộc hết Tam tạng kinh điển, Phật ngôn. Ði đến đâu ông cũng giảng pháp và
đọc tụng. Ông du hành thuyết pháp cho năm trăm Sa-môn, và làm thầy giáo
thọ của mười tám hội chúng.
Bấy giờ một
nhóm Tỳ-kheo được Phật chỉ dạy thiền định đi đến trú xứ của vị sư già
chuyên tu thiền định nói trên. Và nhờ tinh tấn tu tập theo lời chỉ bảo của
vị ấy họ đã chứng quả A-la-hán.
Sau đó, họ đến
xá chào Tôn giả Trưởng lão thầy họ và nói:
- Chúng con
muốn gặp đức Ðạo sư.
- Hãy đi, các
huynh đệ. Cho tôi kính lời thăm hỏi đức Thế Tôn, tám mươi vị Ðại Trưởng
lão và sư đệ tôi, nói rằng: "Thưa Tôn giả, thầy chúng con xin kính chào".
Các Tỳ-kheo đi
đến tinh xá, đảnh lễ đức Ðạo Sư và các Trưởng lão: "Thưa Tôn giả, thầy
chúng con xin kính chào". Khi họ đến chào Tôn giả huynh đệ của thầy họ
chuyên về pháp học, vị này nói:
- Thầy chư
hiền giả là ai?
- Thưa Tôn
giả, là huynh đệ của Ngài.
- Nhưng chư vị
học được gì từ ông ấy? có học được kinh nào trong Trường Bộ kinh và các
kinh bộ khác? Có học được tạng nào trong ba tạng kinh không?
Và Tôn giả này
tự nghĩ: "Ông ấy chẳng biết ngay cả bài kệ bốn câu. Vừa xuất gia liền mặc
áo giẻ rách, vào rừng rồi tụ tập đông đảo đồ chúng. Khi ông ấy trở về đây
mình phải hỏi vài câu mới được."
Chẳng bao lâu,
vị sư già về thăm đức Phật. Tôn giả gởi y bát nơi người huynh đệ, đi gặp
đức Ðạo sư và tám mươi đại Trưởng lão rồi trở lại trú xứ của vị huynh đệ.
Tỳ-kheo trẻ tuổi này tiếp đón ân cần như thông lệ, mời ngồi tòa tương
đương, và khi đã ngồi nhủ thầm: "Mình sẽ hỏi ông ấy một câu".
Ðức Ðạo sư
biết trước "nếu Tỳ-kheo này quấy rầy con của Phật, ông ấy sẽ rơi vào địa
ngục". Vì lòng từ, đức Ðạo sư giả vờ đi kinh hành quanh xá, đến nơi hai
huynh đệ đang ngồi và Phật ngồi vào ghế dành sẵn (bất cứ nơi nào, trước
khi ngồi, các Tỳ-kheo đều dành sẵn một chỗ cho đức Phật).
Khi đã an tọa,
đức Phật hỏi Tôn giả chuyên học tập một câu hỏi về Sơ thiền, vị này trả
lời đúng. Ðức Phật hỏi tiếp về Nhị thiền, về Bát định, về sắc giới và vô
sắc giới... thầy đều đáp đúng cả. Ðến lúc đức Phật hỏi về quả Dự lưu, thầy
không đáp được. Ngài liền hỏi vị sư già đã chứng A-la-hán và vị này đáp
đúng ngay.
- Tốt lắm! Tốt
lắm! Ðức Ðạo sư tán thán một cách hoan hỷ.
Rồi Ngài hỏi
về các quả vị tiếp theo, Tôn giả chuyên học không đáp được lấy một câu,
trong khi vị sư già đã chứng A-la-hán trả lờii thông suốt. Ðức Ðạo sư đều
khen ngợi sau mỗi câu trả lời đúng. Nghe lời khen của Phật, tất cả chư
thiên từ địa thần đến Phạm thiên, luôn cả long vương và kim xí điểu đều
tán thán vang dội.
Nghe tiếng tán
thán, những đệ tử của Tôn giả trẻ bất bình đức Phật. Họ nói với nhau:
- Tại sao đức
Thế Tôn làm như vậy? Ngài khen ngợi sau mỗi câu trả lời của ông sư già
chẳng biết gì! Còn đối với thầy chúng ta, thuộc lòng toàn bộ kinh điển và
đang lãnh đạo năm trăm chúng, Ngài chẳng khen một lời.
Ðức Ðạo sư hỏi
họ:
- Tỳ-kheo, các
ông đang nói gì?
Khi họ trả
lời, đức Phật dạy:
- Trong đạo
của Ta, thầy các ông như kẻ chăn bò mướn, còn con của Ta như ông chủ được
thọ hưởng năm sản phẩm của bò.
Rồi Phật nói
bài kệ sau:
(19) Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật.
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa-môn hạnh.
(20) Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ
bỏ tham, sân si,
Tỉnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự
phần Sa-môn hạnh. |