PHẨM II: KHÔNG PHÓNG DẬT
1. Những Chuyện Luân Hồi Quanh Vua Udena ( hay Udayna)
Không phóng
dật, đường sống...
Pháp Cú này do
đức Ðạo sư nói tại tinh xá Ghosita gần Kosambi, liên hệ đến cái chết của
bà Sàmàvatì với năm trăm tỳ nữ và bà Màgandiyà cùng năm trăm thân thuộc.
Phần 1:
Thời Niên Thiếu Của Udena
Một thuở nọ,
vua Allakappa cai trị vương quốc Allakappa và vua Vethadìpaka cai trị
vương quốc Vrthadìpaka. Họ là bạn thân từ thuở bé, cùng học một thầy. Sau
khi phụ hoàng băng hà, họ nối ngôi cai trị vương quốc rộng hơn mười dặm.
Họ gặp nhau
thường xuyên, ăn cùng mâm ngủ cùng giường. Nhận thấy con người cứ sinh ra
rồi lại chết đi, cả hai cùng kết luận rằng sau khi chết ta chẳng đem theo
được gì, kể cả xác thân, vậy thì có ích lợi gì nếu sống đời tại gia, ta
nên xuất gia.
Vì vậy hai vua
nhường ngôi cho vợ con và đi tu, sống đời khổ hạnh trong dãy
Hy-mã-lạp-sơn. Rồi họ nghĩ từ bỏ ngai vàng, sống đời xuất gia cũng chẳng
khó khăn gì, nhưng nếu sống chung thì chưa phải là nếp sống khổ hạnh. Do
đó họ sống riêng biệt ở hai ngọn núi, cứ hai tuần vào ngày phát lồ họ lại
gặp nhau. Tuy không thường xuyên liên lạc với nhau, họ vẫn biết được bạn
mình sống hay chết nhờ mỗi người đều đốt ngọn lửa trên núi cho người kia
thấy.
Một thời gian
sau, tu sĩ Vethadiipaka chết, tái sinh làm con trai Phạm thiên có quyền
năng phi thường. Hai tuần sau, Allakappa không thấy ngọn lửa trên núi,
biết rằng bạn mình đã chết. Vethadìpaka vừa được tái sinh liền quan sát,
tầng trời của mình, xét lại việc làm đời trứơc, những sự khổ hạnh từ ngày
xuất gia, và muốn đi thăm bạn mình. Ngài bỏ lớp trời, hoá thành một bộä
hành đi đến gặp Allakappa, đảnh lễ rồi cung kính đứng một bên.
Allakappa hỏi:
- Ông từ đâu
đến?
- Tôi là một
bộ hành từ xa đến. Nhưng thưa tôn giả, Ngài ở đây có một mình sao?
- Tôi chỉ có
một người bạn.
- Người ấy đâu
rồi?
- Ông ta ở
trên ngọn núi kia, không thấy đốt lửa vào ngày phát lồ, tôi biết ông ta đã
chết.
- Tôi chính là
bạn Ngài, thưa tôn giả.
- Bạn tái sinh
ở đâu?
- Ở cõi trời,
là con trai Phạm thiên có quyền năng phi thường. Tôi trở lại đây để thăm
Ngài. Ngài sống ở đây có an ổn không, hay bị quấy rầy?
- Tôi rất bực
lũ voi.
- Tôn giả,
chúng quấy rầy gì Ngài?
- Tôn vừa quét
dọn xong chúng đã đến ị đầy, rồi lại dậm chân tung bụi mù. Phần hốt phân,
phần dọn đất, tôi mệt lử.
- Vậy Ngài có
muốn đuổi chúng đi không?
- Muốn!
- Ðược rồi.
Tôi sẽ giúp Ngài.
Vethadìpaka
cho Allakappa một cây đàn ba dây và chỉ cách đọc ba câu chú để mê hoặc lũ
voi:
- Ðánh dây thứ
nhất và đọc thần chú này lũ voi sẽ bỏ chạy, không dám nhìn Ngài một chút
nào. Ðánh dây thứ hai và đọc thần chú này, chúng cũng sẽ bỏ chạy, mỗi bước
mỗi nhìn Ngài. Ðánh dây thứ ba và đọc thần chú này, voi đầu đàn sẽ chạy
đến cho Ngài cưỡi. Ðây, hãy sử dụng theo ý muốn.
Nói rồi,
Vethadìpaka ra đi. Từ đó vị ẩn sĩ sống yên ổn.
Thuở ấy vua xứ
Kosambi là Parantapa. Một sáng nọ, vua ngồi phơi nắng sớm với hoàng hậu
đang mang thai. Hoàng hậu khoác chiếc long bào đỏ tía của vua đáng giá một
trăm ngàn đồng tiền, và đang khi trò chuyện bà tháo ngọc ấn nơi ngón tay
vua đáng giá một trăm ngàn đồng vàng, đeo vào tay mình.
Ngay lúc ấy,
một quái điểu mỏ lớn như vòi voi hay liệng trên không, trông thấy hoàng
hậu và lầm bà là một miếng thịt tươi nên dang rộng cánh nhào xuống. Nghe
tiếng chim sà xuống, nhà vua bật dậy lao vào cung. Còn hoàng hậu, vừa có
thai, vừa chậm chạp yếu đuối không chạy nhanh được, bị chim đâm bổ xuống,
dùng vuốt quắp lấy rồi bay vút lên không (Giống chim này mạnh bằng năm con
voi, có thể quắp mồi bay đi đến nơi nào tùy ý rồi ăn thịt). Tuy khiếp hãi
hoàng hậu vẫn tỉnh táo. Biết rằng nếu la lên, chim sợ tiếng người sẽ buông
ra ngay, nhưng lại nguy hiểm cho mình và đứa con trong bụng. Cho nên bà
kiên nhẫn chịu đựng, chờ khi chim dđáp xuống sẽ la lớn cho nó sợ bay đi.
Quái điểu như
thường lệ mang hoàng hậu đặt trên nhánh chĩa ba một cây đa khá lâu năm, có
tán che rộng trong dãy Hy-mã-lạp-sơn, vừa trông chừng dưới đất. (Người ta
nói loài chim này có thói quen trông chừng con đường dẫn đến cây nó đang
ở).
Biết đã đến
lúc, hoàng hậu đưa tay lên vỗ, hét lớn đuổi chim đi.
Ðến chiều,
trong lúc giông bão nổi lên bốn phía, bà chuyển dạ, yếu quá, gần ngất đi
vì đau đớn, chẳng có ai bên cạnh để an ủi.
Suốt đêm bà
không ngủ. Khi trời sáng dần, mây tan, đứa trẻ ra đời. Vì sinh giữa cơn
bão trên đỉnh núi lúc mặt trời mọc, bà đặt tên con là Udena. Cách đó không
xa là trú xứ của ẩn sĩ Allakappa. Vào những ngày mưa ẩn sĩ không vào rừng
hái vì sợ lạnh, mà thường đi đến gốc cây đa nhặt những mẫu xương thừa của
chim, gĩa nhỏ và nấu nước xúp uống. Hôm ấy, Alakappa đi đến gốc cây lượm
xương, nghe tiếng trẻ khóc trên cành và nhìn lên thấy hoàng hậu, Ngài hỏi:
- Ai đó?
- Tôi là một
phụ nữ.
- Sao bà ở
trên ấy?
- Con quái
điểu mang tôi đến.
- Xuống đi!
- Thưa ngài,
tôi không dám xuống vì sợ khác giai cấp.
- Bà thuộc
giai cấp nào?
- Giai cấp
chiến sĩ.
- Tôi cũng
vậy.
- Ngài hãy đọc
khẩu lệnh của giai cấp chiến sĩ.
Ẩn sĩ đọc lên,
hoàng hậu đồng ý cho ngài leo lên cây đem đứa bé xuống. Vâng lệnh hoàng
hậu không được chạm đến bà, Ngài ẵm đứa bé rồi đặt xuống đất, để hoàng hậu
tự leo xuống.
Ẩn sĩ dẫn
hoàng hậu về túp lều của mình. Ngài săn sóc và phục vụ bà với mật ong, nấu
xúp và cháo với lúa đã trồng, mà không phạm giới cấm. Thời gian trôi qua,
vì lo sợ bị ẩn sĩ bỏ rơi, phần vì không biết đường đến cả đường về, nên
hoàng hậu nảy sinh ý định quyến rũ ẩn sĩ. Và ẩn sĩ đã phạm giới với bà, từ
đó hai người chung sống với nhau.
Một hôm xem
thiên văn, ẩn sĩ thấy sao chiếu mệnh của Parantapa vua xứ Kosambi mờ đi,
bèn nói với hoàng hậu:
- Này bà, vua
xứ Kosambi đã chết.
- Tôn giả, sao
ngươi nói vậy? Sao ngươi có ác tâm với nhà vua?
- Tôi không có
ác tâm. Tôi nói vậy vì thấy ngôi sao của vua mờ đi.
Hoàng hậu bật
khóc. Ẩn sĩ ngạc nhiên hỏi:
- Sao bà khóc?
Lúc đó hoàng
hậu mới cho biết vua Paratapa chính là chồng bà. Ẩn sĩ an ủi:
- Ðừng khóc.
Ai sinh ra cũng đều phải chết.
- Tôi biết.
- Vậy sao bà
vẫn khóc?
- Tôi khóc vì
buồn cho con tôi, đáng lý phải được nối ngôi, được che lọng trắng. Giờ đây
nó chỉ là thường dân.
- Không sao,
bà đừng lo. Nếu bà muốn nó làm vua, tôi sẽ có cách. Allakappa bèn cho chú
bé cây đàn và dạy các câu chú mê hoặc voi. Ngày thứ nhất, chú bé búng sợi
dây đàn thứ nhất và đọc câu chú đầu tiên, bầy voi đang tụ tập quan gốc cây
đa bỗng chạy hết, không dám nhìn lại một chút nào. Qua ngày hôm sau, chú
búng sợi dây đàn thứ hai và câu chú thứ hai, bầy voi chạy đi mỗi bước mỗi
nhìn chú bé. và trước khi chỉ dạy câu chú thứ ba, ẩn sĩ bảo hoàng hậu dạy
chú bé thông điệp lên ngôi vua: "Con phải nói con là con trai vua
Parantapa xứ Kosambi, bị một quái điểu bắt đem đi, rồi con đọc tên tổng tư
lệnh quân đội và các đại tướng. Nếu người ta vẫn chưa tin, con sẽ cho họ
xem chiếc áo choàng này và chiếc nhẫn ngọc ấn này của cha con". Ðến ngày
thứ ba, chú bé theo lời ẩn sĩ ngồi trên nhánh cây đa thấp nhất, búng sợi
dây đàn
và đọc câu chú thứ ba, voi đấu đàn chạy đến cho chú cưỡi lên, chú thì thầm
bên tai voi:
- Tôi là con
trai vua xứ Kosambi. Hãy mang tôi đến ngai vàng của cha tôi.
Voi đầu đàn
liền rống lên:
- Ngàn voi,
tập hợp!
Hàng ngàn voi
tụ lại. Voi rống lần thứ hai:
- Các voi già
yếu ở lại!
Các voi già
yếu bèn rút lui.
Voi rống lần
thứ ba:
- Các voi con
ở lại.
Các voi con
bèn rút lui.
Như thế, chú
bé ra đi giữa hàng ngàn voi dũng sĩ. Ðến một làng biên giới, chú tuyên bố:
- Ta là con
trai của đức vua, ai muốn ấm no thịnh vượng hãy đến với ta!
Rồi chú tiến
lên, tuyển thêm quân, bao vây thành phố và gởi thông điệp "Hoặc đánh nhau,
hoặc trao ngai vàng". Dân chúng trả lời:
- Cả hai là
không. Hoàng hậu của chúng tôi bị quái điểu bắt mang đi khi đang có thai.
Chúng tôi không biết bà còn sống hay đã chết. Chúng tôi không đánh nhau
hay trao ngôi vua cho đến bao giờ được tin tức hoàng hậu.
Chú bé liền
nói:
- Chính ta là
con của hoàng hậu.
Rồi chú đọc
tên vị tổng tư lệnh, tên các đại tướng. Thấy dân chúng chưa tin, chú đưa
ra áo choàng và chiếc nhẫn. Dân chúng nhận ra, liền mở cổng thành, tung hô
chú bé lên ngôi vua.
Phần 2:
Thời Niên Thiếu Của Ghosaka
Câu chuyện
tiền thân - Kotuuhalaka Vứt Con
Một thuở nọ,
tại vương quốc Ajita xảy ra nạn đói. Một người tên Kotùhalaka không đủ ăn,
định đến Kosambi để kiếm sống. Ông cùng con trai nhỏ Kapi và vợ Kali ra đi
với một ít lương thực. (Cũng có người nói ông bỏ nhà đi vì dân ở đó đang
chết vì bệnh dịch tả).
Họ đi mãi cho
đến lúc hết lương thực. Sau cùng, đói quá họ không bồng nổi đứa con. Người
chồng bảo vợ:
- Này bà, nếu
chúng ta còn sống thì sẽ có đứa con khác. Hãy bỏ đứa nhỏ lại để đi tiếp.
Lòng mẹ lúc
nào cũng từ ái nên người vợ trả lời:
- Tôi không
bao giờ vứt bỏ đứa con còn sống.
- Vậy ta phải
làm sao?
- Thay phiên
nhau ẵm nó.
Phiên bà mẹ
bồng thì bà đỡ đứa bé như nâng một vòng hoa, ôm vào lòng hoặc mang bên
hông. Ðến phiên người cha, ông bồng kiểu nào cũng thấy nặng nhọc, khổ sở
còn hơn cả cơn đói. Ông cứ lặp đi lặp lại mãi điệp khúc: "Này bà, nếu
chúng ta còn sống sẽ có đứa con khác, vứt đứa nhỏ này đi!" Nhưng người mẹ
nhứt quyết không chịu. Ðứa bé bị bồng tới bồng lui tới một lúc thì quá mệt
nên ngủ thiếp trên tay người cha. Kotuhalaka bèn chậm chân để người mẹ đi
trước, rồi lén đặt đứa bé trên đệm lá dưới một cây, và lập tức đi tiếp. Ði
một đoạn bà mẹ bỗng quay lại, không thấy đứa bé liền hỏi:
- Ông! Con tôi
đâu rồi?
- Bỏ nó dưới
bụi cây rồi!
- Trời! Ông
đừng có giết tôi Thiếu nó tôi sống sao nổi. Trả con lại cho tôi!
Thấy bà đấm
ngực khóc lóc, ông chồng phải đi lui tìm đứa bé trao lại cho vợ. (Do một
lần vứt con này mà kiếp sau đó, Kotuhalaka bị cha mẹ vứt bỏ bảy lần. Ta
chớ có xem thường việc ác và bảo rằng chỉ là việc nhỏ).
Tiếp tục cuộc
hành trình, họ đến nhà người chăn nuôi gia súc. Hôm ấy có con bò cái đẻ
nên chủ nó làm tiệc ăn mừng. Sau khi cúng dường vị Bích Chi Phật thường
đến khất thực, ông nấu đãi rất nhiều cháo và xúp. Trông thấy hai người
khách lỡ đường và thương xót cho hoàn cảnh của họ, ông bố thì cháo và
nhiều bơ sữa. Bà vợ thì đặt bơ sữa lỏng và bánh sữa trước mặt, nhường cho
chồng ăn uống thỏa thích sau những ngày đói khổ, còn mình thì ăn chút ít.
Ông chồng thì ăn ngốn ăn nghiến vẫn chưa thấy no vì đã nhịn đói sáu bảy
ngày trước. Thấy người chăn bò đang dùng bữa, thỉnh thoảng cho con chó cái
nằm chực dưới ghế vài muỗng cháo, ông chồng lại khởi tâm thèm muốn, bảo
con chó tốt phước được ăn ngon lành và no đủ. Tối đến, ông chồng bị đầy
bụng và qua đời, thác sinh vào bụng con chó cái.
Người vợ chôn
cất chồng xong, ở lại làm thuê cho ấy luôn. Ðược trả công nửa lít gạo, bà
nấu cơm để bát cúng dường vị Bích Chi Phật, hồi hướng phước báo cho con
mình. Nghĩ rằng dù có cúng dường hay không, cũng được đặc ân đảnh lễ và
hầu hạ vị Bích Chi Phật mỗi ngày, do đó sẽ được phước lành an lạc, bà bèn
quyết định ở lại đây luôn.
Sáu, bảy tháng
sau, con chó cái xinh một chú chó con. Người chủ nhà dành riêng sữa một
con bò cho nó. Chẳng bao lâu nó lớn thành một con chó to khỏe. Còn vị Bích
Chi Phật mỗi khi thọ thực đều dành cho nó một phần cháo nên nó cứ quấn
quýt bên Ngài.
Mỗi ngày người
chăn bò đều đến viếng thăm vị Bích Chi Phật với con chó theo sau. Trên
đường đi, đến một hang thú ông ta thường đập gậy vào bụi cây và dộng gậy
xuống đất, kêu lên ba lần "su,su" cho thú sợ. Ngày kia, ông ta bạch với
Phật rằng khi nào không đến được sẽ gởi con chó đến tìm, và xin Phật hiểu
cho là ông đang mong Ngài đến. Quả nhiên vài ngày sau, ông thấy khó chịu
trong mình nên để con chó đến thỉnh Phật. Nghe lệnh chủ, con chó chạỵ đi.
Ngang qua nơi hang thú, chú ta sủa ba lần rồi mới đi tiếp. Sáng sớm, đi vệ
sinh xong chú mới vào lều tranh sủa ba tiếng ra mắt vị Bích Chi Phật, rồi
nằm về một bên. Biết đã đến lúc, Ngài đứng dạy lên đường. Chú chó chạy
phía trước sửa từng chặp. Nhiều lần vị Bích Chi Phật vờ đi nhầm đường để
thử chú, nhưng lần nào chú cũng biết, đứng chận lại sủa vang, ra dấu cho
Phật đi đường khác. Một hôm, chú cũng cản lại khi Phật đi nhầm đường,
nhưng lần này Phật không trở lui, chỉ lấy chân đẩy nó ra rồi đi tiếp. Chú
chó liền cắn tà áo trong của Phật và kéo trở lui cho đến khi Ngài đi đúng
đường. Chú quả là trung thành và nhiệt tình với Phật.
Rồi đến một
ngày y Phật rách, người chăn bò cúng dường vải để may y mới, và Phật phải
đi đến chỗ khác để nhờ may giúp. Ngài bay lên không về hướng Gandhamadana.
Chú chó sủa và chu lên cho đến khi bóng Ngài khuất dần, rồi vỡ tim ngay
đó. (Người ta thường nói loài vật sống chơn chất không biết lừa dối, còn
con người tâm một đường miệng một nẻo. Vì vậy Thế Tôn có dậy một Sa-môn:
"Lòng người khó lường còn loài thú lại đơn giản").
Chú chó chết
đi, do lòng ngay thẳng trung hậu, tái sinh lên cõi trời ba mươi ba với một
ngàn thiên nữ tùy tùng, hưởng phúc lạc vô kể. Vị trời này chỉ cần thì thầm
âm thanh đã vang xa mười sáu dặm. Khi nói năng bình thường khắp cõi trời
rộng ngàn dặm đều nghe (Ðó là do thân chó kiếp trước đã sủa và chu vì
thương mến vị Bích Chi Phật).
Ở tầng trời ba
mươi ba không còn lâu, vị này mạng chung (Chư thiên mạng chung do bốn
nguyên nhân: mạng tận, phước tận, thực phẩm tận và sân hận. Nếu nhiều
phước, ở tầng trời này đủ hạn kỳ rồi sanh thiên cao hơn nữa, đó là "mạng
tận". Nếu ít phước, giống như một, hai lít gạo bỏ vào kho chẳng nhằm đâu
cả, không bao lâu sẽ chết, gọi là "phước tận". Trường hợp thứ ba, vị trời
ham hưởng lạc, quên cả ăn uống, sức khoẻ suy sụp và chết, đó là "thực phẩm
tận". Thứ tư là do ganh tỵ với sự sáng chói của vị khác, sân hận mà chết).
Câu chuyện
hiện tại - Bảy Lần Ghosaka Bị Vứt Bỏ
Ghosaka, tiền
kiếp là chú chó, ở cõi trời Ba mươi ba thụ hưởng lạc thú quên cả uống nên
mạng chung, thác sinh làm con một kỹ nữ ở Kosambi. Vừa lâm bồn, cô ta đã
hỏi ngay nàng hầu là trai hay gái. Biết là con trai cô ra lệnh bỏ đứa bé
trong cái giỏ cũ, đem vất ngoài đống rác. (Kỹ nữ chỉ nuôi con gái vì sẽ kế
nghiệp họ).Qụa và chó xúm quanh nhưng do phước báo kiếp trước, chẳng con
nào làm hại đứa bé. Lúc đó có người đi đến, thấy chuyện lạ, tiến lại xem,
gặp đứa bé trai liền thương ngay và nhặt lên mang về nuôi.
Hôm đó viên
chưởng khố ở Kosambi vào cung vua gặp thầy tế lễ xem thiên văn cho biết là
một bé trai ra đời hôm nay sẽ thành vị chưởng khố trọng yếu. Lúc bấy giờ
vợ viên chưởng khố đang có mang gần ngày sinh, nhưng hôm đó thì chưa sinh.
Viên chưởng khố bèn gọi một bà nô lệ tên Kàkì cho một ngàn đồng tiền, bảo
đi lùng khắp thành tìm đứa bé vừa mới sinh ra hôm nay đem về gấp. Bà nô lệ
sục sạo khắp nơi. Khi đến nhà đứa bé vừa được lượm về, bà liền trả giá, từ
một xu rồi tăng dần đến một ngàn đồng tiền thì xin được đứa bé mang về cho
viên chưởng khố. Ông ta nuôi đứa bé trong nhà, định bụng nếu sau này con
mình là gái sẽ cho nó làm rễ để nối nghiệp chưởng khố, nếu là trai sẽ giết
đứa bé đi.
Ít ngày sau vợ
ông hạ sinh một bé trai. Ông bèn bảo Kaalii mang đứa bé nuôi để ngay lối
vào chuồng bò vào giờ bò đi ăn, để chúng giẫm chết nó. và còn dặn thêm xem
kỹ nó chết rồi hãy về báo cho ông. người nô lệ làm y theo lời ông dặn.Ngay
khi cửa chuồng vừa mở, con bò đực đầu đàn xông ra trước tiên, khác với
thường lệ là nó đi sau rốt. Ðến chỗ đứa bé, nó dùng bốn chân che kín lại
và đứng yên ở đó. Hàng trăm con bò lần lượt đi ra hai bên, chạm sát vào
sườn nó. Quanh cảnh này không lọt khỏi cặp mắt người chăn bò đang đứng gần
đấy. Ông đi đến gần, ngạc nhiên thấy đứa trẻ nằm ngay chân bò. Ông thấy
thương nó ngay và liền mang về nuôi.
Kaalii thấy
hết từ đầu đến cuối, trở về kể rõ tự sự cho viên chưởng khố. Ông lại bảo
Kaalii đi gặp thằng chăn bò, cho một ngàn đồng tiền để bắt đứa bé lại.
Tiếp theo ông ra lệnh cho Kaalii mang đứa bé đặt nơi bánh xe bò, vì biết
rằng sáng mai năm trăm cỗ xe này sẽ lên đường đi một chuyến buôn xa, mấy
con bò không dậm chết nó thì bánh xe cũng nghiến nát nó. Và ông không quên
dặn Kaalii phải xem thằng bé chết ra sao rồi mới về báo cho ông. Sáng sớm
trưởng đoàn buôn đến tròng ách vào cổ bò và thúc chúng bước đi. Nhưng
chúng vùng ra không chịu đi. Mấy lần như thế cũng không được, ông vật lộn
đàn bò cho đến mặt trời mọc. Ông thắc mắc không hiểu tại sao, chợt nhìn
xuống đường thấy đứa bé nằm ờ đó. Ông bế lên, lòng vui mừng vì được một
đứa con trai. Kaalii vẫn theo dõi từ nãy giờ, lúc này mới trở về báo tin
cho viên chưởng khố. Ông lại bảo Kaalii đến gặp trưởng đoàn buôn đưa một
ngàn đồng tiền để chuộc lại thằng bé, rồi quăng nó trong lùm cây nơi bãi
thiêu cho chim thú ăn thịt hay ma quỷ giết nó. Kaalii lại mang đứa bé đi,
nhưng chẳng có con thú hay ma quỷ nào làm hại đứa bé vì qủa báo đời trước
đã che chở cho nó. Chợt có một đàn dê đi qua bãi thiêu. Một chị dê đi len
trong lùm bụi ăn lá cỏ, thấy đứa trẻ liền quỳ xuống cho bú. Người chăn dê
gọi mãi chị ta vẫn không chun ra. Cuối cùng chủ nó phải cầm gậy xông vào
và bắt gặp đứa trẻ, hớn hở đem về. Ðến lần này đứa trẻ vẫn chưa yên vì
viên chưởng khố vẫn chưa chịu thua. Kaalii lại được lệnh chuộc nó từ người
chăn dê và leo lên ngọn Dốc Ðá Cướp ném nó xuống sườn núi, nó sẽ va vào
vách đá rồi rớt xuống khe núi tan xác. Nhưng dọc sườn núi lại có một bụi
tre dày và trên chót núi nhiều bụi gunjà bao phủ. Ðứa bé rơi xuống ngay
giữa đám tre như trên một nệm lông dê. Ngày hôm đó, người trưởng nhóm đánh
tre vừa nhận một mối bán tre hời. Và khi ông cùng con trai lia dao vào bụi
tre định chặt thì đứa bé bị tre lay động bật khóc. Ông ngạc nhiên nghe sao
giống tiếng trẻ khóc, vội trèo lên xem thì thấy ngay một đứa con trai. Ông
lại hân hoan mang về nhà. Kaalii lại đi chuộc đứa bé một lần nữa. Cho đến
lần này đứa bé vẫn sống mạnh khỏe đến lớn, tên nó là Ghosaka, nhưng cũng
còn là cái gai trước mắt viên chưởng khố. Ông vẫn tìm mọi cách để giết cậu
bé. Lần này ông đích thân đến gặp người bạn làm nghề gốm, đưa trước một
ngàn đồng tiền và dặn dò như sau:
- Tôi có một
đứa con tư sinh và sẽ gởi nó đến cho anh. Cho nó vào một phòng kín lấy búa
bén băm nó ra thành từng mảnh rồi thảy vào lò nung đốt hết. Ðây là một
ngàn đồng tiền như đã giao hẹn. Việc xong tôi sẽ thưởng thêm cho anh xứng
đáng.
Thợ gốm đồng
ý. Về nhà, viên chưởng khố gọi Ghosaka sai đến thợ gốm.
- Hôm qua ta
có nhờ thợ gốm làm một ít việc cho ta. Hãy đến bảo ông ấy hoàn tất công
việc cha tôi đã giao hôm qua.
- Thưa vâng.
Và Ghosaka lên
đường. Rời khỏi nhà một quãng anh ta gặp con trai viên chưởng khố đang
chơi bắn bi với chúng bạn. Nó chận Ghosaka lại hỏi.
- Mày đi đâu
vậy?
- Tôi mang lời
cha đến cho người thợ gốm.
- Ðể tao đi!
Mấy đứa này ăn hết tiền của tao, mày đánh ăn lại cho tao.
- Tôi sợ cha
lắm!
- Ðừng sợ, tao
sẽ nói cho. Tao đã thua nhiều tiền rồi, mày chơi cho đến lúc tao trở về,
ráng ăn lại số tiền của tao.
Ghosaka bắn bi
rất giỏi nên anh nuôi nó cứ nài nỉ mãi. Cuối cùng Ghosaka bằng lòng. Vậy
là chính con đẻ của chưởng khố chuyển lời đến thợ gốm, và đúng như lệnh
giao hẹn anh ta giết người đưa tin rồi ném thây vào lò nung.
Ghosaka chơi
bi suốt ngày, chiều mới về. Viên chưởng khố ngạc nhiên hỏi ngay:
- Mày về đó ư?
Ghosaka liền
kể lại tự sự. Chưởng khố tái nhợt như mất hết máu, gầm lên;
- Trời ơi! Khổ
tôi chưa!
Rồi ông tức
tốc đi đến thợ gốm, vặn vẹo đôi tay rên rỉ:
- Thợ gốm ơi!
Ông giết tôi mất rồi! Tôi chết mất! Tôi chết mất!
Thợ gốm thấy
ông hốt hoảng như vậy vội trấn tỉnh ông;
- Thưa Ngài,
đừng làm ồn. Công việc xong rồi.
Ðau buồn như
một trái núi úp chụp xuống, viên chưởng khố phải gánh chịu sự đau khổ cùng
cực như tất cả những ai đã làm hại người vô tội.
Vì vậy đức Thế
Tôn dạy:
(137) Dùng trượng phạt không trượng,
Làm ác, người không ác.
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ.
(138) Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm
(139) Hoặc tai vạ từ vua,
Hay bị vu trọng tội,
Bà
con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.
(140) Hoặc phòng ốc nhà cửa,
Bị
hỏa tai thiên đốt.
Khi thân hoại mạnh chung,
Ác
tuệ sanh địa ngục.
Viên chưởng
khố không thể nào nguôi ngoai nổi khi thấy mặt Ghosaka, nên cứ phải tìm
cách giết cậu ta. Lần này ông sai cậu mang lá thư đến người quản lý trăm
ngôi làng của ông, trong thư ông dặn giết cậu ta rồi liệng xuống hầm phân.
Lá thư được cột nơi viền áo của Ghosaka. Cậu ta không biết chữ vì từ khi
chào đời đến khôn lớn viên chưởng khố luôn âm mưu giết cậu, nên cậu không
được đi học. Và với lệnh giết mình, cậu xin cha lương thực để lên đường.
Người cha ác nghiệt của cậu bảo rằng trên đường đi, ở làng đó làng đó có
người bạn của ông cũng làm quản khố, và hãy ăn ở đó rồi đi tiếp.
Ðến làng đó,
Ghosaka hỏi nhà người quản khố và gặp được bà vợ. Biết đó là con trai của
bạn mình, bà có cảm tình ngay với chàng trai. Viên quản khố này có cô con
gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, xinh đẹp tuyệt vời. Ðể giữ tiếng tốt và
an toàn cho con, hai ông bà cho cô ở trên tầng cao nhất trong toà lâu đài
bảy tầng, cung vi lộng lẫy như trong hoàng cung với một nàng hầu.
Hôm đó, cô gái
sai nàng hầu đi chợ. Giữa đường nàng hầu gặp bà mẹ và được bà nhờ trải chỗ
ngồi cho Ghosaka, rửa chân và xức dầu rồi trải giường cho chàng. Nàng hầu
đi chợ về trễ, bị cô chủ rầy, phải kể lại việc hầu hạ Ghosaka. Nghe đến
tên chàng trai, cô gái thương ngay thấu tận xương tủy tim gan. Cô chính là
vợ của Kotùhalaka kiếp trước, nhờ cúng dường vị Bích Chi Phật được phước
báo sanh vào nhà viên quản khố giàu có. Do đó lòng luyến ái kiếp trước
sống lại. Ðức Thế Tôn có dạy;
Do
liên hệ đời trước,
Hay lợi lộc hôm nay,
Lòng mến thương bừng dậy,
Như hoa vươn mặt hồ.
Cô hân hoan
hỏi thăm về chàng trai. Khi được biết chàng trai đang nằm ngủ với lá thư
nơi viền áo, cô lén đi xuống gỡ lấy lá thư mang về phòng, đóng cửa lớn, mở
cửa sổ và đocï thư.
Xem xong cô
gái buột miệng:
- Ố! Anh chàng
ngốc, ra đi với lệnh giết mình buộc nơi áo. Nếu mình không lén đọc thư
trước chắc hẳn anh ta sẽ bị giết.
Rồi cô xé
phăng lá thư, viết một cái khác, nhại giọng viên chưởng khố: "Ðây là
Ghosaka con tôi. Hãy kiếm lễ vật từ trăm ngôi làng của ta cho nó. Sửa soạn
lễ cưới cho nó với con gái viên quản khố vùng này. Xây một ngôi nhà hai
tầng ngay giữa làng cho hai vợ chồng mới ở, có tường vách bao quanh và
người canh gác bảo vệ cẩn thận. Xong việc, hãy báo tin cho ta rằng đã làm
đúng như vậy, ta sẽ hậu thưởng xứng đáng". Xong, buộc lá thư vào viền áo
chàng trai như cũ.
Ngủ nguyên một
ngày, Ghosaka thức dậy, ăn uống, lấy lại sức rồi đi tiếp. Sáng hôm sau
chàng đến ngôi làng nơi viên quản lý trăm ngôi làng của cha nuôi cư ngụ.
Chào hỏi xong, chàng trao ngay bức thư của viên chưởng khố. Viên quản lý
xem thư xong reo lên mừng rỡ, và ra lệnh cho gia nhân chở gỗ và các vật
liệu xây dựng khác đến cất một ngôi nhà hai tầng ngay giữa làng như lời
dặn trong thư. Rồi ông mang lễ vật của trăm ngôi làng đến nhà viên quản
khố cách đó không xa để xin làm lễ cưới. Ðồng thời ông cũng báo tin cho
viên chưởng khố thành phố biết là đã làm đúng như vậy.
Viên chưởng
khố nhận được tin xây nhà và cưới vợ cho Ghosaka muốn bật ngửa, chỉ còn
biết than thầm: "Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên!" Phần rầu buồn vì
con chết, phần đau tức kế mưu sụp đổ, lòng ông lúc nào cũng như lửa đốt,
và còn sinh ra chứng tiêu chảy. Ông vẫn không hạ được cơn tức tối về
Ghosaka: "Bằng mọi giá ta không để cho thằng khốn nạn này thừa kế gia
sản". Và ông sai viên thư lại phái người đi gọi Ghosaka về.
Cô gái viên
quản khố, bây giờ là vợ của Ghsaka, đã dặn trước đám gia nhân khi có ai từ
viên chưởng khố thành phố đến, hãy báo cho cô ta biết trước khi nói với
Ghosaka. Vì thế khi người của viên thư lại đến, cô liền chận lại hỏi thăm.
Người này thật thà cho biết là viên chưởng khố bệnh tình chưa trầm trọng,
ăn uống cũng còn được, và xin gặp Ghosaka để chuyển lời cha chàng bị bệnh
muốn gặp chàng. Cô vợ không để cho Ghosaka biết, ra lệnh cung cấp cho
người này chỗ ở và tiền công, và bảo y ở lại đi, khi nào cô ta sai y hãy
đi.
Viên chưởng
khố đợi mãi chẳng thấy người nhắn tin về, hỏi viên thư lại, cũng không có
tin tức gì, bèn phái thêm người đi nữa. Cô vợ làm y như trước. Khi người
thứ ba đến, biết tin rằng viên chưởng khố bệnh đã nặng, không ăn uống nằm
liệt giường, phải đổ bô luôn, cô liền cho Ghosaka hay và khuyên chàng mang
phẩm vật từ trăm ngôi làng về thăm cha. Nhưng khi phẩm vật được chở tới
quá nhiều, nếu chất hết mọi thứ lên xe cùng đi e chậm trễ, do đó cô gái
bảo chồng nên để lại nhà, chỉ có hai vợ chồng đi, và không quên dặn rằng:
"Anh nhớ đứng đằng chân cha, còn em sẽ đứng bên gối nằm của ông". Và khi
vào nhà cô ra lệnh cho gia nhân của mình đứng canh cả phía trước và phía
sau nhà.
Viên chưởng
khố đang nằm trên giường bệnh, có viên thư lại chà xát bàn chân, và báo
cho ông là con trai và dâu đã về. Khi biết rằng Ghosaka đang đứng dưới
chân mình, ông gọi viên thủ quỹ đọc cho ông nghe số tài sản và lợi tức của
mình như sau: "Tiền mặt là bốn trăm triệu đồng. Còn dụng cụ và đồ giải
trí, những ngôi làng, đất ruộng, người hầu, súc vật, xe bò, xe ngựa, tổng
cộng là chừng ấy, chừng ấy..." Viên chưởng khố nghe qua, định nói:
- Tất cả tài
sản này ta không cho con trai ta Ghosaka.
Nhưng lại nói:
- Ta cho.
Cô vợ Ghosaka
nghe xong, nghĩ rằng nếu để ông ta nói lại lần nữa, e sẽ khác đi. Vì thế
cô giả vờ như quá đau buồn, bứt tóc kêu khóc:
- Cha thân
yêu, cha nói thật chứ? Dù vậy chúng con cũng thật là bất hạnh khi nghe
những lời của cha.
Rồi với vẻ sầu
khổ cùng cực cô ngã lên người ông, đập đầu vào ngực ông, lại lăn đầu ngay
giữa ngực ông khiến ông không thể nói thêm được nữa. Viên chưởng khố chết
trong lúc ấy.
Người ta đi
báo tin cho vua Udena biết. Vua tổ chức tang lễ xong liền hỏi về con cái
của viên chưởng khố. Biết ông ta có một người con trai là Ghosaka và đã
giao hết tài sản, vua triệu anh ta đến. Ghosaka vào cung. Vua nhìn anh qua
cửa sổ, thấy anh nhảy qua các vũng nước. Rồi vua an ủi anh và ban chức
chưởng khố thành phố cho anh. Anh cảm tạ vua rồi ra về. Vua lại đứng nhìn
anh rời cung điện. Lần này, anh không nhảy qua vũng nước mà lội qua một
cách tề chỉnh. Vua ngạc nhiên, truyền gọi anh ta lại hỏi;
- Này Ghosaka!
Có đúng là khi đến đây ngươi nhảy qua vũng nước, còn lúc trở về thì nghiêm
chỉnh bước qua?
- Tâu bệ hạ,
quả như vậy.
- Tại sao vậy?
- Tâu bệ hạ,
khi bước vào hạ thần vẫn còn là một chú thanh niên ham chơi, nhưng bây giờ
đã được bệ hạ ban cho chức tước, thần phải dẹp bỏ những ưa thích cũ và
phải cư xử nhã nhặn, đàng hoàng.
Vua nghe nói,
đẹp dạ, liền phong chức cho anh ta ngay. Anh được thừa hưởng gia sản trước
đây của cha nuôi với địa vị chưởng khố và trăm ngôi làng.
Sau này, một
dịp nọ, cô vợ Ghosaka mới tiết lộ cho bà vú Kaalii về việc tráo lá thư để
cứu mạng Ghosaka, và từ đó mới có được vinh quang như hôm nay. Sẵn dịp đó,
vú Kaalii mới khai ra Ghosaka đã bị cha nuôi mưu hại bảy lần như thế nào.
Khi chồng về, cô vợ thuật lại hết câu chuyện, nhưng anh ta không tin bèn
đi hỏi bà vú. Nghe kể lại tự sự, Ghosaka bàng hoàng cả người và thấy mình
quả có phước đức mới thoát khỏi bảy lần chết khủng khiếp. Do đó anh ta tự
hứa với lòng là sẽ không sống đời phóng dật nữa, mà cố gắng chuyên tâm
chánh niệm. Anh không quên bố thí cho người nghèo khó mù loà một ngàn đồng
mỗi ngày, và giao cho người quản lý thuở trước việc đó.
Phần 3:
Thời Niên Thiếu Của Saamaavatì
Tại thành phố
Bhaddavatì có viên chưởng khố tên là Bhaddavatiya, vốn là bạn chưởng khố
Ghosaka. Họ chưa hề gặp mặt, chỉ kết bạn vì nghe thương buôn qua lại giữa
hai thành phố ca tụng tuổi tác và tài sản hai bên, và từ đó họ trao tặng
phẩm vật cho nhau.
Về sau, bệnh
dịch tả hoành hành trong nhà Bhaddavatiya. Trước hết là ruồi, côn trùng
chết, rồi lần lượt chuột, gà vịt, heo bò, nô lệ trai và gái, cuối cùng là
người trong gia đình. Bhaddavatiya cùng vợ và con gái, nhờ phá tường chạy
trốn nên thoát chết. Họ nhắm hướng Kosambi định tìm đến Ghosaka. Dọc đường
lương thực khô cạn, họ kiệt sức vì đói khát và phải phơi mình dưới nắng
gió. Vất vả lắm họ mới đến được Kosambi. Sau khi tắm xong trong một hồ
nước họ thấy dễ chịu, rồi vào nghỉ trong nhà trạm ở cổng thành. Viên
chưởng khố kể cho vợ con biết là bạn của ông, viên chưởng khố tại đây, mỗi
ngày đều phân phát một ngàn đồng tiền cho kẻ nghèo khó mù loà, và ông
quyết định ở lại đây vài ngày, cho con gái đến chỗ bố thí xin thức ăn về,
lấy lại sức rồi mới đi gặp bạn.
Thế là cô gái
nhà giàu, hết cả kiêu hãnh trong cơn hoạn nạn, cố giấu xấu hổ, cầm bát đi
với đám dân nghèo xin ăn. Người ta hỏi cô xin mấy phần. Lúc đầu cô xin ba
phần, ngày hôm sau cô xin hai phần, và hôm sau nữa chỉ còn có một phần.
Ngày đầu tiên cha cô được mẹ cô an ủi và nài nỉ mãi mới chịu ăn của bố thí
đó, nhưng vẫn không tiêu nổi, do đó sáng sớm hôm sau ông qua đời. Rồi hôm
sau đến lượt mẹ cô cũng bỏ cô mà đi theo cha. Còn lại một mình, cô gái nằm
lăn khóc lóc than van cho số phận bất hạnh và cảnh đời bất trắc của mình.
Nhưng cơn đói cào cấu ruột gan đã khiến cô ngồi dậy, vừa khóc vừa đi theo
đoàn ăn mày xin cơm.
Người quản lý
Mitta nhớ rằng cô gái đã nhận thức ăn ba ngày liên tiếp, nên nạt đùa:
- Hỏng! Thứ
đàn bà tồi! Rốt cuộc hôm nay mày đã biết cái bụng mày chứa được bao nhiêu
chưa?
Vốn con nhà
thế phiệt, lại hiền lành nhút nhát, cô nghe như bị kim châm muối xát. Cô
chỉ biết nghẹn ngào hỏi:
- Thưa Ngài,
vậy nghĩa là sao?
- Hôm kia mày
lấy ba phần, hôm qua lấy hai, còn hôm nay chỉ lấy một. Vậy là đến hôm nay
mày mới biết bụng mày chứa được bao nhiêu cơm.
- Thưa Ngài,
không phải tôi lấy những phần ấy cho tôi.
- Vậy tại sao
mày lấy?
- Hôm kia tôi
có ba người, hôm qua có hai, bây giờ chỉ còn một mình tôi.
- Cô gái kể
lại câu chuyện từ đầu đến cuối. Mitta nghe xong không cầm được nước mắt.
Ông bảo cô gái, lòng đầy trắc ẩn:
- Con thân
yêu, trước đây con là con gái của Bhaddavatiya, nhưng từ nay trở đi con là
con gái của ta.
Một hôm cô
nhận thấy chỗ phân phát thức ăn luôn ồn náo, bèn góp ý với cha nuôi làm
lối đi từ hai cổng ra vào đến chỗ phát thức ăn, có hàng rào bao quanh.
Người ta sẽ vào bằng cửa này, lãnh thức ăn xong ra bằng cửa kia lần lượt
theo lối đi, như vậy sẽ trật tự và êm thắm. Cha cô bằng lòng và cho thi
hành. Từ đấy cô gái vốn tên là Sàmà, nay thêm Vatì nghĩa là hàng rào.
Chưởng khố
Ghosaka lâu nay đã nghe quen tiếng ồn náo nơi phân phát thức ăn, và cũng
thích thú xem đó là sinh hoạt trong nhà ăn của mình. Hôm nay lại im lặng,
ông ngạc nhiên hỏi quản lý Mitta, và nhờ đó được biết con gái mồ côi của
Bhaddavatiya bạn mình. Ghosaka liền nhận cô gái làm con nuôi.
Vào ngày lễ
hội trong thành, các tiểu thư con nhà vọng tộc được phép ra ngoài tắm
sông. Và khi Saamaavatii, con gái nuôi của Ghosaka cùng năm trăm tỳ nữ đi
tắm, ngang qua cung điện, lọt vào mắt vua Udena, nên được lệnh tiến cung.
Ban đầu Ghosaka không tuân lệnh vì sợ mang tiếng là bạc đãi con gái nuôi,
nhưng sau bị vua niêm phong hết nhà cửa và chính Sàmàvatì bằng lòng, ông
mới vâng lệnh thánh chỉ. Từ đó nàng trở thành hoàng hậu. |