PHẨM II: KHÔNG PHÓNG DẬT (tt)
1. Những Chuyện Luân Hồi Quanh Vua Udena ( hay Udayna) [tt]
Phần 4:
Udena Ðược Vaasuladattà
Vua Udena còn
có một thứ phi khác là Vàsuladattà con gái của vua Canda Pajjota xứ
Ujjeni. Câu chuyện như sau:
Một hôm, từ
hoa viên trở về, vua Canda Pajjota nhìn ngắm vẻ đẹp rực rỡ của mình rồi
hỏi đám cận thần:
- Còn có ai
đẹp đẽ rực rỡ như ta chăng?
Họ đáp:
- Vua Udena xứ
Kosambi rực rỡ hơn bội phần.
- Vậy thì hãy
bắt ông ta làm tù binh.
- Không bắt
hắn được đâu, tâu bệ hạ.
- Sao vậy?
- Vì ông ta
biết cách dẫn dụ loài voi. Có thể đuổi voi đi hay bắt voi lại tuỳ ý bằng
cách đọc chú và chơi đàn. Không ai có nhiều voi cưỡi như Udena.
- Vậy là không
thể bắt được ông ta sao?
- Nếu bệ hạ
nhất quyết muốn bắt, hãy làm một con voi bằng gỗ, đưa đến gần vua Udena,
lại tạo thêm tiếng ngựa hí, vua sẽ đi ra xa để xem là voi hay ngựa, và sẽ
bị bao vây, lúc đó Ngài có thể bắt vua.
- Quả là diệu
kế!
Rồi vua cho
làm một con voi máy bằng gỗ, bọc vải và sơn thật khéo, xong mang đặt trên
bờ hồ gần xứ của kẻ thù mình. Trong bụng voi có sáu mươi người đi tới lui.
Thỉnh thoảng họ xúc những xẻng phân voi đổ ra ngoài. Một tiều phu trông
thấy voi, liền tâu lên vua Udena. Vua và đám tuỳ tùng liền theo tiều phu
đi xem voi. Ðường đi của họ đều bị gián điệp theo dõi và báo tin cho vua
Canda Pajjota, và một toán quân được phái đến sát bên Udena, nhưng không
để cho vua biết. Rồi Udena gảy đàn và đọc thần chú thâu phục voi, nhưng
không kết quả. Voi được những người núp trong bụng điều khiển, chạy như vũ
bão như không hề nghe bùa phép. Vua thúc ngựa phi nước đại để cố theo kịp
voi, nên quân lính bị rớt lại đằng sau xa lắc. Khi chỉ còn một mình, người
của Canda Pajjota, mai phục sẵn hai bên, ùa ra bắt Udena. Quân lính của
Udena thấy vua mình bị sa vào tay kẻ thù, bèn xây một doanh trại ngay bên
ngoài xứ ujjeni và ở lại đó.
Canda Pajjota
bắt sống và bắt giam kẻ thù xong, mở tiệc ăn mừng ba ngày. Udena nằm trong
ngục tối đến ngày thứ ba đánh bạo hỏi người gác ngục.
- Này anh, vua
của anh ở đâu?
- Ðang chè
chén say sưa thì bắt được kẻ thù.
- Vua của anh
hành động chẳng khác gì đàn bà. Hắn đã bắt được ta một là tha hai là giết
đi, lẽ nào đã làm nhục ta mà chè chén say sưa nữa!
Gác ngục đi
báo và nhà vua liền đến hỏi Udena:
- Có phải mi
đã nói...như thế, như thế?
- Vâng, đại
vương.
- Tốt lắm, ta
sẽ tha ngươi nếu như ngươi chịu trao bùa chú cho ta.
- Ðồng ý,
nhưng khi Ngài nhận bùa chú, ngài có chịu lễ kính ta không?
- Lễ kính
ngươi à, không!
- Thế thì ta
sẽ trao cho Ngài.
- Ta sẽ hành
hình ngươi.
- Ta không sợ,
vì Ngài chỉ làm chủ thân xác ta chứ không làm chủ tâm hồn ta.
Nghe Udena trả
lời bướng bỉnh như thế, nhà vua bối rối không biết làm sao để đoạt được
phù phép. Bỗng vua nghĩ ra một kế, liền bảo:
- Người bảo ta
sẽ tiết lộ bài chú cho người nào lễ kính ngươi phải không?
- Vâng đại
vương.
- Tốt lắm.
Trong nhà ta có một mụ lưng gù. Bà ta sẽ ngồi sau bức màn đề nghe ngươi
dạy thần chú.
- Gù hay què
gì cũng được, miễn là lễ kính ta thì ta dạy thần chú.
Rồi nhà vua
đến gặp công chúa Vàsuladattà.
- Con cưng, có
một người cùi biết được câu thần chú linh nghiệm và qúi báu. Con hãy ngồi
bên trong bức màn đề hắn dạy con thần chú. Con nên học với hắn vì cha
không muốn ai khác biết, rồi cha sẽ học lại với con.
Sở dĩ nhà vua
phải bịa ra gù lưng và cùi hủi vì sợ hai người yêu nhau.
Một hôm, đến
một câu chú sao đó mà Vàsuladattà không thể đọc lại cho đúng, dù Udena đã
lặp đi lặp lại nhiều lần. Tức quá Udena la lên:
- Ðồ gù đần
độn! Môi dày mo, má chư bự! Mi đáng nhận mấy cái tát!
Vàsuladattà
cũng giận dữ không kém:
- Ðồ hủi hung
tợn! Mi nói gì? Dám gọi ta là đồ gù hả?
Udena ngạc
nhiên, vén màn lên và hỏi:
- Cô là ai?
- Tôi là công
chúa Vàsuladattà.
- Cha cô bảo
với tôi cô là người gù lưng.
- Còn ông, vua
nói là bị cùi.
Rồi cả hai
đồng nói một lượt:
- Vua nói thế
vì sợ chúng ta yêu nhau.
Và quả như
thế, tình yêu đến, nên từ đó trở đi họ hết học hết dạy.
Nhà vua không
biết, thỉnh thoảng lại hỏi con gái:
- Này con, con
đang học bài hả?
Công chúa tỉnh
bơ đáp:
- Vâng thưa
cha.
Ngày kia,
Udena bảo với người yêu rằng một người chồng có thể làm được những việc mà
cha, mẹ, anh, chị không làm được, và nếu nàng cứu được Udena thì sẽ được
ban năm trăm người tùy tùng và phong làm hoàng hậu. Công chúa bằng lòng và
đến gặp cha xin mở cửa và một con voi để cưỡi vì cần đi ra ngoài ban đêm,
theo sự chỉ dẫn của các tinh tú, tìm một loài dược thảo dùng trong chú
thuật. Vua thuận cho, và họ được phép đi lúc nào tùy ý. Lúc bấy giờ vua có
năm vật chuyên chở: một voi cái tên Bhaddavatì có thể đi năm mươi dặm một
ngày, một nô lệ tên Kàka có thể đi sáu mươi dặm một ngày, hai ngựa cái
Celakanthì và Munjakesì có thể đi một trăm dặm một ngày và một voi tên
Nàlàgiri có thể đi một trăm hai mươi dặm một ngày.
Chuyện quá
khứ - Canda Pajjota Ðược Năm Vật Chuyên chở
Hình như trước
khi Phật hiện tại ra đời nhà vua đã là nô lệ cho một Trưởng giả. Có lần
trưởng giả đi ra ngoài thành tắm, trở về gặp một vị Phật Ðộc Giác khất
thực trong thành trở ra, với bình bát sạch như lau, bèn hỏi:
- Bạch Tôn
giả! Ngài có nhận được gì không?
- Tôi đã đi
một vòng và giờ ra khỏi thành, đạo hữu ạ.
Ngài không trả
lời ngay câu hỏi mà nói ra điều không hỏi, nhưng vẫn có nghĩa là không
nhận được thức ăn. Nhìn vào bình bát, thấy trống không, Trưởng giả thỉnh
Ngài đợi một lát rồi vội vã về nhà. Lúc bấy giờ áp lực xấu ác của Marà
trùm khắp thành, nó còn giả dạng đến hỏi Ngài sao không nhận được thức ăn
và khuyên Ngài trở lui. Nhưng Ngài đã quyết chí không trở lui, vì biết
rằng một lần nữa Marà sẽ dùng quyền lực sai khiến dân cư reo hò và chọc
phá Ngài.
Thấy nhà có
thức ăn sẵn, Trưởng giả vội bảo tên hầu chạy hết sức mình đến gặp Phật và
lấy bình bát mang về gấp. Trưởng giả để thực phẩm đầy bát xong, lại bảo
tên hầu tức tốc mang bát giao lại cho Phật, với lời hứa rằng sẽ nhường cho
anh ta công đức này.
Tên hầu đi và
về mau như tên bắn, và khi đưa bát cho Phật đã bạch rằng:
- Bạch Tôn
giả, trong thời gian ngắn con đã đi và về nhanh hết sức mình. Do phước báo
của sự nhanh nhẹn này, con mong rằng sẽ được năm vật chuyên chở có thể đi
năm mươi, sáu mươi, một trăm và một trăm hai mươi dặm một ngày. Thời gian
đi và về đó thân con hun nóng dưới tia nắng mặt trời. Do phước báo việc
làm này con mong rằng dù tái sanh ở nơi nào, con cũng sẽ được quyền lực
bằng sức mạnh những tia nắng mặt trời. Chủ con đã nhường công đức của sự
cúng dường này, do phước báo đó con mong được dự phần vào giáo pháp Ngài
đã ngộ.
Phật hứa khả:
- Sẽ được vậy.
Và Ngài nói
kệ:
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Ðược thành tựu tốt đẹp
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Viên mãn như trăng rằm
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Ðược thành tựu tốt đẹp
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Viên mãn như ngọc lộ quang
Ðó là việc làm
của vua Canda Pajjota trong kiếp trước, và do phước báo này vua có năm vật
chuyên chở
(Hết Chuyện
Quá Khứ)
Một hôm nhơn
kúc vua Canda Pajjota dạo chơi vườn thượng uyển, Udena bỏ trốn. Ông nhét
đầy tiền vàng và bạc vào nhiếu túi da lớn, xong đặt lên lưng voi cái, rồi
đỡ vàsuladattà lên yên và họ ra đi. Quân thị vệ trông thấy liền phi báo
cho vua. Vua sai lính tức tốc đuổi theo. Udena bèn mở túi vàng rải tiền
vàng xuống đường. Quân truy nã dừng lại nhặt vàng rồi mới đuổi tiếp. Ông
lại mở túi bạc rải xuống đất. Quân truy nã vì cứ mãi ngừng lại để nhặt bạc
nên chậm trễ, để Udena chạy thoát về doanh trại dựng ngoài thành. Quân
lính của Udena trông thấy ông nhiệt liệt đón mừng và hộ tống ông về
Kosambi. Sau đó ông tổ chức lễ cưới và tấn phong Vàsuladattà lên ngôi thứ
phi.
Phần 5: Ðức
Phật Từ Chối Màgandiyà
Một thứ phi
khác của vua Udena là Migandiyà nguyên là con gái của Bà-la-môn tên là
Màgandiyà, sống ở xứ Kuru. Mẹ cô và cả chú út, em của cha cô, cũng tên là
Màgandiyà. Cô ta đẹp như thiên nữ nên ông Bà-la-môn khó tính không thấy
ai, kể cả những chàng trai vọng tộc nhất trong xứ đã đến cầu hôn, xứng
đáng làm rễ đông sàng.
Ngày kia, sáng
sớm đức Ðạo sư quan sát thế gian, nhận thấy Bà-la-môn Maagandiyaa và vợ
ông có đủ duyên lành chứng quả A-na-hàm. Ngài đắp y ôm bát đến vùng ven
phố thị nơi Bà-la-môn đang tế thần lửa. Ông ta ngắm nhìn thân Như Lai thấy
toàn hảo, thầm nghĩ không ai trên thế gian có thể so bì với người này, ta
sẽ gả con gái cho ông để nâng khăn sửa túi. Ông ta nói với đức Ðạo sư:
- Này,
Tỳ-kheo! Tôi có cô con gái độc nhất và chưa thấy ai xứng với nó trừ ông.
Ông phải có một người vợ và nó phải có một người chồng. Tôi sẽ gả nó cho
ông. Hãy đứng đợi tại đây cho đến khi tôi trở lại.
Ðức Ðạo sư
đứng yên, không nói một lời. Người Bà-la-môn vội vã về nhà, hớn hở bảo với
bà vợ:- Bà ơi! tôi đã gặp một người xứng với con gái ta. Mau lên! Mặc cho
nó bộ đẹp đẽ vào!
Rồi ông dẫn vợ
con vào gặp đức Ðạo sư. Cả thành xôn xao:
- Một khi lão
này chê bai đủ kiểu người nào đến cầu hôn con gái lão. Nhưng nghe đồn rằng
hôm nay lão ta gặp một người môn đăng hậu đối rồi. Không biết mặt mũi anh
chàng này ra sao mà lão chấm đậu vậy?
Rồi họ theo
ông đi xem anh chàng tốt số. Trong thời gian đó, đức Ðạo sư thay vì đứng
yên chờ đợi, Ngài bỏ đi, để lại một dầu chân. (Dầu chân Phật chỉ xuất hiện
trên chỗ đã bước, không có chỗ nào khác, và chỉ người nào đủ phước duyên
mới thấy được. Dù voi rừng hay thú hoang có giẫm lên hay mưa bão dữ dội,
gió giông gào thét thổi đến, cũng không xóa được dấu chân của Phật). Ðến
nơi cũ, người Bà-la-môn ngạc nhiên không thấy Phật. Nhìn quanh quất một
hồi ông phát hiện dấu chân. Vợ người Bà-la-môn thuộc lòng ba bộ Vệ-đà,
luôn cả những bài thơ liên quan đến tướng số. Bà lẩm bẩm đọc lại và xem
xét tỉ mỉ hình nét dấu chân trước mặt. Cuối cùng bà kết luận:
- Ông ơi! Ðây
không phải dầu chân của người chạy theo ngũ dục.
Rồi bà đọc kệ:
Dấu chân người tham dục cạn cợt,
Của ác nhơn, lún mạnh xuống đường.
Người ngu si, dấu thường lết bết.
Ðây, dấu chân người hết dục tham.
Người
Bà-la-môn không tin lời vợ nên nạt đùa:
- Khéo tưởng
tượng! Bà lúc nào cũng thấy cá sấu trong chậu nước, ăn trộm núp trong nhà!
Hãy im đi!
Bà vợ vẫn một
mực đoan chắc:
- Ông ưa nói
gì thì nói. Nhưng đây không phải dấu chân người chạy theo ngũ dục.
Người
Bà-la-môn vẫn đi lòng vòng tìm kiếm, chợt thấy đức Ðạo sư liền mừng rỡ reo
lên:
- Ông ta đây
rồi!
Và ông thưa
với Phật:
- Tỳ-kheo! Tôi
gả con gái cho ông để nâng khăn sửa túi.
Ðức Ðạo sư
thay vì trả lời ưng thuận hay không, lại bảo:
- Bà-la-môn!
Ta có vài việc để nói với ông.
Và ông ta lắng
nghe đức Ðạo sư kể chuyện Ma vương đã theo đuổi Ngài như thế nào, từ lúc
xuất gia tới khi ngồi dưới cội Bồ đề, cuối cùng chính Ma vương ngồi dưới
cây Bồ đề, thiểu não buồn rầu vì thấy quyền lực của mình không làm gì Phật
được. Con gái Ma vương bèn đến an ủi cha, rồi biến thành thiếu nữ trẻ và
đàn bà đứng tuổi để cố quyến rũ Phật. Ðức Ðạo sư lúc đó nói rằng:
Ðã
thấy rõ Khát ái, Sầu buồn, Dục lạc
Ta
đâu còn ưa hạnh phúc tình yêu
Tấm thân kia, chứa các thứ tiểu, tiêu.
Ta
không muốn, dù dùng chân chạm đến.
Ngay khi Phật
kết thúc bài kệ, người Bà-la-môn và vợ chứng A-na-hàm. Còn Màgandiyà tự
nhủ: "Nếu ông này không cần ta, kể cũng đúng, nhưng nói người ta chứa đầy
phần tiểu thì thật quá lắm. Ðược rồi! Với dòng dõi, địa vị xã hội, tài sản
và sức quyến rũ của tuổi thanh xuân sẵn có, ta sẽ được một tấm chồng xứng
đáng, và rồi ta sẽ biết làm gì đối với Sa-môn Cồ-đàm". Từ đó cô nuôi lòng
căm ghét đức Phật (Ðức Phật biết cô căm ghét Ngài, nhưng Ngài vẫn đọc kệ
vì lợi ích cho hai người kia, để họ chứng thánh quả, chớ không quan tâm
đến lòng thù hận trực tiếp chống lại mình)
Cha mẹ cô gởi
cô cho chú Culla Màgandiyà biết cháu mình chỉ xứng đáng làm vợ vua, nên
trang điểm cho nàng đủ món trang sức rồi đưa đến Kosambi dâng cho vua
Udena. Vua hài lòng, làm lễ đăng quang cho nàng lên ngôi thứ phi với năm
trăm thị nữ.
Vậy là vua
Udena có ba bà vợ với một ngàn năm trăm thị nữ.
Phần 6: Cái
Chết Của Sàmàvati và Màgandiyà, Các Chưởng Khố, Các Tỳ Kheo Và Vị Thần
Cây.
Có ba vị
chưởng khố cùng ở Kosambi là Ghosaka, Kukkuta và pàvàriya. Mùa mưa gần
đến, năm trăm ẩn sĩ từ Hy-mã-lạp sơn về thành khất thực. Cả ba vị chuởng
khố hoan hỷ cung cấp tọa cụ và cúng dường thức ăn, và còn dâng cúng phòng
ốc trong nhà mình suốt bốn tháng mưa khi các vị ẩn sĩ chịu ở lại. Từ đó,
thường thường sau tám tháng trong Hy-mã-lạp-sơn, các ẩn sĩ về ngụ bốn
tháng mưa nơi ba chưởng khố.
Một lần từ
Hy-mã-lạp-sơn trở về thành, các ẩn sĩ ngồi nghỉ dưới gốc một cây đa to
trong rừng vắng. Vị già nhất vừa nghĩ đến xin nước uống nơi vị thần cây -
chắc là một vị đại lực thần vương - thì lập tức họ được nước uống. Nghĩ
đến thức ăn thì cũng được thức ăn, rồi muốn nhìn thấy cây thần cây cũng
được nhìn thấy. Thần cây tách khỏi thân cây chui ra. Các vị ẩn sĩ đến gần
ông và hỏi làm thế nào ông được đại thần lực như vậy. Vị thần khiêm tốn,
thấy công đức mình nhỏ nhoi không muốn nói, nhưng vì bị nài nỉ mãi đành
phải kể lại chuyện Quá khứ.
Việc Làm Của
Thần Cây
Thần cây xưa
là người nghèo, sinh sống nhờ tìm được việc làm với ông Cấp Cô Ðộc. Vào
ngày Bát quan trai, từ tinh xá trở về nhà, Cấp Cô Ðộc hỏi gia nhân có cho
người làm này biết hôm nay là ngày trai giới không. Họ chưa cho biết. Ông
liền bảo nấu cho anh ta phần ăn tối. Nhưng khi dọn cơm lên, anh ta đã từ
chối không ăn, dù đã làm việc cực nhọc suốt ngày trong rừng. Sở dĩ ông ta
nhịn ăn vì được hôm nay là ngày trai giới. Chiều nay thật là im lìm, khác
với mọi chiều tiếng ồn vang dội, nào là cho tôi cơm, cho tôi nước xúp,
càri... Mọi người đều giữ giới không ăn chiều, ngay cả đứa bé còn ẵm ngữa;
sau khi súc miệng họ chỉ ngậm bốn viên kẹo. Một đèn dầu thơm thắp sáng cả
phòng, và già trẻ đều đọc lên ba mươi hai yếu tố của thân. Riêng anh vì
hay tin trễ, mới bắt đầu ngày trai chiều nay nên được hưởng nửa công đức.
Ðến tối anh bắt đầu thấy khó chịu vì quá đói. Anh nịt một sợi dây quanh
mình, và nắm đuôi dây nịt trong tay anh cứ siết thêm mãi. Trưởng giả hay
được, cầm đuốc đến chỗ anh và lấy bốn viên kẹo cho anh, nhưng anh vẫn
không ăn vì không muốn mất luôn nửa công đức ngày trai. Anh kiên trì giữ
giới như thế cho đến khi mặt trời mọc thì lìa đời như một vòng hoa héo, và
tái sanh vào cây đa này.
Phần kết:
Chuyện chưởng khố, Tỳ kheo và thần cây.
Rồi thần cây
kết luận: "Trưởng giả đã cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường
Tăng. Và nhờ ông ta, tôi hưởng được phước báo nửa ngày trai giới nên mới
có đại thần lực này".
Năm trăm ẩn sĩ
nghe đến danh hiệu Phật liền chỗi dậy, dang tay ra trong thái độ tôn kính
và khẩn cầu vị thần cây hãy nói "Phật đà". Họ yêu cầu thần cây nói lên
niềm tin của mình bằng cách lặp lại ba lần "Phật đà" rồi họ trịnh trọng
tuyên bố:
- Rất khó mà
nghe được danh hiệu này trên thế gian!
Và kết luận:
- Thần nhân!
Ông đã cho chúng tôi nghe được một âm thanh mà biết bao trăm ngàn kiếp
chúng tôi không hề nghe.
Rồi các môn đệ
ngỏ ý với thầy họ muốn đi đến Ðức đạo sư. Và tất cả đều đồng ý là ngày
mai, sau khi nhận thức ăn nơi ba vị chưởng khố, nói cho ba vị ấy biết ý
định rồi sẽ lên đường. Cả ba, sau khi dâng tọa cụ và cúng dường cháo đặc
tại nhà mình, được biết đoàn ẩn sĩ sẽ đi ngay thì không tránh khỏi ngạc
nhiên nên hỏi:
- Chư Tôn giả!
Không phải các ngài đã hứa ở lại với chúng tôi bốn tháng mưa sao? Bây giờ
các Ngài đi đâu?
- Ðức Phật đã
xuất hiện trên thế gian, Pháp đã ra đời, Tăng đã ra đời. Do đó chúng tôi
đi gặp Ðạo sư.
- Nhưng chỉ có
các Ngài mới xứng đáng đi đến đức Ðạo sư sao?
- Không ngăn
cấm ai hết, đạo hữu ạ.
- Vậy thì
chúng tôi cùng đi.
Vì phải chuẩn
bị nên ba vị chưởng khố để đoàn ẩn sĩ đi trước. Họ đến Thế Tôn, xưng tán,
đảnh lễ Ngài và cung kính ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp tuần tự
cho họ, và ngay khi kết thúc bài pháp, tất cả đều chứng A-la-hán cùng các
thứ thần thông. Rồi họ xin gia nhập Tăng đoàn, Phật bảo: "Hãy đến, các
Tỳ-kheo!" Họ liền trở thành Tỳ-kheo có đầy đủ y bát do thần lực tạo ra.
Phần ba chưởng
khố thì sắm những thứ cúng dường cần thiết gồm y phục, ngọa cụ, bơ, mật,
... chở mỗi thứ năm trăm xe đi đến Xá vệ. Gặp Phật, họ đảnh lễ, nghe pháp
và cuối bài pháp chứng quả Dự lưu. Họ ở lại với Thế Tôn hai tuần, cúng
dường và thỉnh Phật đến Kosambi.
Trở về xứ,
chưởng khố Ghosaka xây tinh xá Ghosita, Kukkuta xây tinh xá Kukkuta,
Pàvàriya cất tinh xá Pàvàriya. Xong họ thỉnh Phật đến và lần lượt hầu hạ
Ðức Phật ở mỗi tinh xá một ngày và thọ thực tại đó. Cả ba chưởng khố có
người hầu là Sumana làm vườn, phục vụ họ đã lâu. Anh ta xin cúng dường
Phật và được dành cho ngày mai.
Khujjuttarà
Chuyển Hóa Sàmàvatì
Anh làm vườn
Sumana vẫn thường bán hoa cho Khujjuttarà, nữ tỳ hoàng hậu Sàmàvatì. Nhưng
hôm đó anh không cắt hoa giao cho hoàng cung mà dành để dâng Phật vì anh
đã thỉnh Phật về nhà cúng dường. Ngoài những lời xin lỗi Khujjuttarà, anh
còn mời nàng ở lại.
- Xin cô đợi
tôi hầu Phật và nghe pháp. Sau đó cô có thể lấy hết số hoa còn lại.
Cô đồng ý.
Khi Phật dẫn
đầu Tăng đoàn đến nhà, Sumana đỡ lấy bình bát và được Phật hồi hướng công
đức. Những lời này đã khiến Khujjuttarà chứng quả Dự lưu.
Từ trước đến
giờ, trong số tiền tám đồng của vua Udena dành cho hoàng hậu Saamaavaatii
mua hoa, cô thường cất riêng bốn đồng cho mình và chỉ mua bốn đồng hoa.
Hoàng hậu ngạc nhiên thấy số hoa gấp đôi mọi ngày, hỏi ra mới biết tự sự,
và lý do nhờ nghe bài thuyết pháp của đấng Giác Ngộ Tối Thượng. Thay vì
nổi giận nhiếc mắng cô tỳ nữ và đòi lại số tiền cô đã bớt xén bà lại sanh
tâm hoan hỷ muốn được uống dòng pháp bất tử đó. Và trước khi trùng tuyên
bài pháp của Như Lai, Khujjuttarà được hoàng hậu tắm cho với mười sáu bát
nước thơm, được mặc vào y phục đẹp bằng vải mịn, từ đồ lót đến áo khoác
vai, và cũng được dọn sẵn một chỗ ngồi. Cô đã thuyết pháp cho năm trăm
cung nữ nghe y như Thế Tôn đã thuyết, ngồi pháp tòa tay cầm chiếc quạt có
hình vẽ. Mọi người nghe xong đều vui mừng bảo cô:
- Này bạn, từ
nay trở đi đừng làm việc tội lỗi. Hãy làm một bà mẹ và một đạo sư của
chúng tôi. Hãy đến Thế Tôn nghe đủ hết pháp đã giảng và về đây trùng tuyên
lại cho chúng tôi.
Cô đã thi hành
thật trung thực lời dặn dò đến nỗi sau đó cô thuộc lòng hết Tam tạng, và
đức Phật cũng đã xác nhận là trong hàng cư sĩ nữ, người đã học thuộc thánh
điển và có thể giảng giải pháp đệ nhất là Khujjuttarà.
Năm trăm cung
nữ, sau những thời pháp của Khujjuttarà đều phấn khởi và mong muốn gặp Thế
Tôn. Nhưng với luật lệ cung cấm, cung nữ không thể tự do đi ra ngoài, vì
vậy Khujjuttarà bảo họ hãy đục lỗ trên tường, mang sẵn hương hoa để đó,
khi Thế Tôn đến cửa nhà ba chưởng khố, từ trong phòng mỗi người nhìn qua
lỗ tường sẽ thấy được Ngài để đảnh lễ và xưng tán.
Màgandiyà Âm
Mưu Chống Lại Sàmàvatì và Ðức Phật
Một hôm,
Màgandiyà rời cung điện đi bộ đến dãy phòng cung nữ, và ngạc nhiên khi
thấy những lỗ hổng trên tường, hỏi ra mới biết là vì các cung nữ muốn
chiêm ngưỡng và cung tán Phật. Bà muốn mưu hại Sàmàvatì và Phật nên tâu
với vua Udena là Sàmàvatì và đám cung nữ tùy tùng sẽ phản bội vua, và
trong vài hôm nữa sẽ hại mạng vua. Nhưng vua không tin. Bà cứ tâu tới tâu
lui bên tai nhưng vua vẫn không tin. Bà bèn thỉnh vua đến khu vực của
Sàmàvatì chỉ những lỗ hỏng trên tường. Vua hỏi tại sao và khi hiểu được lý
do vua không nói lời nào, chỉ truyền lấp hết lỗ hổng và cho làm cửa sổ có
một khoảng hở ở trên, tại tất cả các phòng. Người ta nói loại cửa sổ hở
bên trên ra đời từ đó. Không bôi nhọ được Sàmàvatì cùng các cung nữ,
Màgandiyà quay sang tìm cách lăng nhục đức Phật. bà xúi giục những tên côn
đồ đi sau Phật mắng nhiếc và nhục mạ Ngài với đủ lời lẽ nặng nề:
- Mi là một
tên trộm, đồ ngu ngốc, đồ điên, đồ lạc đà, bò tót, đồ lừa, đồ ở địa ngục,
đồ thú vật, mi không có hy vọng được giải thoát. Những trừng phạt sẽ đến
với mi.
Tôn giả A-nan
nghe những lời chửi bới quá thậm tệ, không chịu nổi, bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Dân ở đây mắng nhiếc và nhục mạ chúng ta. Chúng ta hãy đi nơi khác!
- Ta sẽ đi đâu
A-nan?
- Ðến thành
phố khác, thưa Thế Tôn.
- Nêú ở đó
người ta cũng chửi mình thì sẽ đi đâu, A-nan?
- Sẽ đi chỗ
khác nữa, thưa Thế Tôn.
- Nêú ở đó
người ta cũng chủi mình nữa thì sao?
- Chúng ta lại
đi đến chỗ khác, thưa Thế Tôn.
- A-nan đừng
nói thế. Ở đâu có khó khăn thì giải quyết ở đó. Ổn thỏa rồi mới được phép
đi nơi khác. Nhưng ai chửi ông, A-nan?
- Bạch Thế
Tôn! Mọi người đều mắng nhiếc chúng ta, bọn côn đồ và cả đám dân kia.
- A-nan, Ta
như con voi xông ra trận. Bổn phận của voi xông trận là hứng chịu những
mũi tên từ bốn phía. Ðúng thế, bổn phận của ta là kham nhẫn những lời nói
độc ác.
Rồi Phật
thuyết pháp về chính Ngài với ba pháp cú như sau trong phẩm Voi:
(320) Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng,
Ác
giới rất nhiều người.
(321) Voi luyện đưa dự bội,
Ngựa luyện được vua cưỡi.
Người luyện, bậc tối thượng,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
(322) Tốt thay con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Sindh [*].
Ðại tượng, voi có ngà,
Tự
điều mới tối thượng.
[*] loài ngựa đẹp ở vùng sông Sindha, Ấn Ðộ
Bài pháp đã
đem lại lợi ích cho những người lúc ấy đang tụ tập chung quanh. Rồi đức
Phật khuyên A-nan.
- A-nan, đừng
phiền muộn. Những người này chỉ mắng nhiếc ông trong bảy ngày, đến ngày
thứ tám họ sẽ yên lặng. Khó khăn đến với Phật không kéo dài quá bảy ngày.
Màgandiyà tuy
thất bại trong âm mưu đẩy Phật rời khỏi thành, vẫn không lùi bước. Bà lập
kế hại bọn cung nữ kính tín Phật. Bà dặn chú của bà là thầy Tư tế trong
cung mang theo tám con gà sống và tám con gà chết vào hầu vua, lúc đó đang
uống rượu với bà. Người chú vào cung, đến bậc thềm cao nhất thì đứng ở đó,
không muốn vào chốn ngự ẩm. Bà liền bảo tiểu đồng đến đó lấy tám con gà
sống dâng vua và xúi vua ra lệnh cho cung nữ của Sàmàvatì nấu nướng dâng
lên vua. Vua chuẩn tấu. Tiểu đồng y lệnh ra đi rồi trở về tâu lời của các
cung nữ.
- Chúng ta
không giết hại sinh vật.
Màgandiyà lại
tiếp tục ton hót:
- Ðại vương!
Muốn biết họ có thật sự giết hại sinh vật hay không, xin bệ hạ cứ bảo nấu
nướng gửi đến Sa-môn Cồ-đàm.
Vua nghe theo,
lại sai tiểu đồng đi đến các cung nữ lần nữa. Nhưng lần này chú mang tám
con gà sống đến thầy Tư tế trước để đổi lấy tám con gà chết rồi mới giao
lệnh vua đến các cung nữ.
- Vua ra lệnh
nấu những con gà này dâng đức Phật.
Lần này họ
nhận lời.
- Dĩ nhiên,
đây là bổn phận của chúng tôi.
Tiểu đồng trở
về tâu lại đúng như vậy. Màgandiyà không bỏ lỡ dịp gièm pha với vua.
- Ðại vương
thấy chưa! Họ không làm theo ý Ngài, mà chỉ hướng về người khác.
Nhưng vua vẫn
giữ yên lặng, tha thứ cho họ. Màgandiyà tức tối nhưng không biết làm gì
hơn đành cố nuốt hận chờ dịp khác.
Nhà vua có
thói quen đến với mỗi hoàng hậu bảy ngày. Biết rằng ngày hôm sau vua sẽ
đến cung của Sàmàvatì, Màgandiyà nhắn người chú gởi cho bà một con rắn đã
tẩm thuốc độc vào răng. Ði đâu vua Udena vẫn mang theo cây đàn dùng chú
thuật lũ voi, trong bao đàn có thủng một lỗ, và bà đã bỏ con rắn vào đó
song bít lại với một bó hoa.
Khi vua sắp đi
đến cung Sàmàvatìi, bà bèn kể cơn mộng dữ và xin can vua đừng đến đó. Vua
không nghe. Bà lại đòi đi theo, dù nhà vua không đồng ý lắm. Ðược Sàmàvatì
và cung nữ hầu cận mặc y phục, xông ướp hương hoa và trang sức xong, vua
ăn uống thân mật và lên giường, để đàn bên gối. Màgandiyà giả vờ đi tới
lui, thừa lúc không ai để y rút bó hoa trong cây đàn ra. Con rắn đã bị bỏ
đói trước đó mấy ngày, trườn ngay khỏi lỗ thủng, ngóc đầu và rít lên, cuốn
mình trên đầu giường. Màgandiyà làm như bất ngờ thấy con rắn hoảng hốt la
lên:
- Ồ! Ðại
vương, con rắn kìa!
Và bà càm ràm,
trách móc:
- Ông vua dại
dột, xui xẻo này chẳng chịu nghe ta nói gì cả. Những tên vô lại này thật
không biết hổ thẹn, chúng làm như không nhận được ân huệ gì của vua mà còn
muốn vua chết để sống sung sướng. Nhưng khi nào vua còn sống thì chúng sẽ
còn chật vật. Ðại vương, thiếp đã báo động về cơn ác mộng và đã can Ngài
đừng đến cung Sàmàvatì, mà Ngài nào có nghe đâu!
Nhà vua thấy
rắn sợ chết khiếp, lửa giận phừng phừng, ông gầm lên:
- Chúng đã cả
gan làm việc tày trời như vậy! Thật là tội lỗi! Ta đã không nghe Màgandiyà
khi nàng kể ra nết xấu tật hư của chúng, nào là đục lỗ trên tường nhà để
ngồi nhìn ở đó, bảo nấu gà cho ta thì chúng trả lại và hôm nay bỏ rắn lên
giường ta.
Trong khi đó
Sàmàvatì hết lời khuyên giải năm trăm cung nữ của nàng.
- Các bạn,
chúng ta không còn nơi nương tựa nào khác. Hãy thật tình yêu mến vua và
hoàng hậu như thương chính mình. Ðừng giận dữ bất cứ ai.
Rồi nhà vua ra
lệnh mang chiếc cung của mình, một cây cung khổng lồ phải một ngàn người
mới khiêng nổi. Ðể Sàmàvatì đứng trước còn tất cả cung nữ đứng nhắm ngay
ngực Saamaavatii, nhưng nhờ thần lực xuất phát từ lòng từ bi của bà, mũi
tên quay ngược lại theo con đường đã đến, nhắm ngay tim nhà vua.
Vua thầm nghĩ:
"Mũi tên này có thể xuyên qua cả tảng đá và không có vật gì trong trời đất
này khiến nó quay mũi lại. Giờ đây nó đã quay trở lại khi gặp Sàmàvatì.
Tuy vô tri giác và không có sự sống, nó vẫn biết Săamàvatì là con người
hiền thiện, thế mà một vị vua, một con người như ta, lại không biết được".
Vua ném cung đi, quỳ xuống trước Sàmàvatì, hai tay dang ra, cung kính nói
kệ:
Ta
quá sức hoang mang bối rối
Bốn phương trời đảo lộn trong tâm
Sàmàvatì hỡi, xin nàng che chở
Hãy làm nơi nương tựa cho ta.
Sàmàvatì, đệ
tử của đấng Ðại Giác cũng đáp lại bằng bài kệ:
Ðừng tìm nương tựa nơi tôi,
Hãy tìm nương tựa ở nơi Phật-đà
Ðấng Vô Thượng; Ngài chính là
Người tâm tôi hướng tới mà náu nương.
Ðại vương nương đấng pháp vương
Tôi xin nương tựa đại vương một lòng.
Nhưng nỗi sợ
hãi của vua cứ gia tăng khiến vua phải lặp lại kệ xin nương tựa nơi
Sàmàvatì. Bà cương quyết từ chối. Cuối cùng vua bằng lòng.
- Vậy thì, ta
xin nương tựa nơi nàng và nơi đức Ðạo sư, ta sẽ ban ơn cho nàng.
Bà hoan hỷ;
- Tôi xin
nhận.
Nhà vua đến
chỗ Phật xin quy y và thỉnh Phật nhận cúng dường rộng rãi trong bảy ngày.
Rồi quay sang Sàmàvatì, vua bảo;
- Hãy đứng lên
và chọn gì tuỳ ý.
- Ðại vương,
tôi không cần vàng bạc, nhưng chúng tôi xin đặc ân này. Xin Ngài sắp xếp
sao cho Thế Tôn có thể đến đây mỗi ngày cùng với năm trăm Tỳ-kheo để tôi
được nghe pháp.
Nhà vua quay
lại đảnh lễ Phật và cung thỉnh Phật cùng với năm trăm Tỳ-kheo. Vì Phật
không thể đến hoài một chỗ trong khi nhiều nơi cần, nên Ngài gởi Trưởng
lão A-nan đến hoàng cung mỗi ngày.
Hôm đó, như
thường lệ, họ dâng thức ăn và lắng nghe Trưởng lão thuyết pháp. Lòng tràn
đầy an lạc, họ dâng lên Trưởng lão năm trăm bộ y vàng đang khoác trên vai,
mỗi bộ trị giá năm trăm đồng tiền. Khi nhà vua không thấy họ khoác y vàng,
hỏi ra biết đã dâng cúng, liền đến Trưởng lão hỏi tiếp;
- Bạch Tôn
giả! Ngài làm gì với số y nhiều thế?
- Tôi sẽ giữ
đủ số y cần thiết, số còn lại sẽ trao cho những vị đã rách y.
- Những vị đó
làm gì với y rách?
- Với những y
rách nát đó họ sẽ làm gì?
- Làm khăn
trải giường.
- Còn khăn
trải giường cũ?
- Làm thảm
chùi chân.
- Còn tấm thảm
cũ?
- Sẽ làm khăn
lau chân.
- Rồi khăn lau
chân cũ?
- Sẽ được cắt
ra từng mảnh nhỏ trộn với hồ để trét vách.
- Như vậy,
bạch Tôn gỉả, dù tất cả y đều dâng lên Tôn giả, nhưng không phung phí.
- Hoàn toàn
đúng vậy, thưa đại vương.
Nhà vua hài
lòng đến nỗi truyền đem thêm năm trăm y đặt dưới chân Trưởng lão. (Tục
truyền rằng Trưởng lão đã từng nhận một ngàn chiếc y trị giá năm trăm đồng
tiền đến một trăm ngàn lần, một ngàn chiếc y trị giá một ngàn đồng tiền
đến một ngàn lần, một ngàn chiếc y trị giá một ngàn đồng tiền đến một trăm
lần. Với số y lẻ tẻ, từ một, hai...đến mười thì Ngài nhận không kể nổi.
Ðến khi đức Phật nhập diệt, trưởng lão A-nan du hành khắp xứ Diêm-phù-đề,
và Ngài đã tặng Tỳ-kheo trong các tinh xá y bát của chính Ngài)
Sàmàvatì Bị
Thiêu Và Màgandiyà Bị Trừng Phạt
Màgandiyà thấy
rằng bất cứ mưu tính nào đưa ra hậu quả đều ngược với sự mong đợi của bà.
Lần này bà cho tiến hành một kế hoạch khác. Bà ra lệnh cho người chú đến
cung điện của sàmàvatì, mở cửa kho lấy vải nhúng dầu rồi nhúng vào cột
nhà. Tập hợp tất cả các cung nữ vào trong nhà, đóng cửa lại không chờ một
ai, rồi lấy đuốt châm lửa đốt, xong tụt xuống đi về.
Sàmàvatì thấy
người chú bao quanh cột với vải nhúng dầu ngạc nhiên hỏi và được biết là
để cho chắc cột. Và ông ta bắt họ vào phòng, châm lửa đốt. Trong đám lửa
đang cháy lan thật nhanh, Sàmàvatì khuyên nhắc các tỳ nữ.
- Dù với trí
tuệ của Phật cũng khó xác định được trong vòng luân hồi từ vô thủy, thân
xác chúng ta đã bị thiêu đốt bao nhiêu lần. vậy, các ngươi hãy chánh niệm.
Trong khi lửa
đang cháy thật nhanh, Sàmàvatì và các cung nữ chuyên tâm thiền định về đề
mục "sự đau đớn" và họ đã chứng các quả Thánh.
Thế Tôn, khi
nghe các Tỳ kheo kể chuyện Sàmàvatì và năm trăm cung nữ bị mất mạng, để
giải đáp câu hỏi về số phận của họ trong kiếp sau, đã cho biết là có người
chứng Sơ quả, có người chứng Nhị quả, có người chứng Tam quả do phước báo
của việc làm quá khứ và Ngài nói kệ:
Với xiềng xích vô minh vọng tưởng
Thấy thế gian như đẹp như bền
Do
vô minh, nhân duyên ràng buộc
Kẻ
ngu cho thế giới trường tồn
Người khôn nghe thấy như thật biết
Chẳng có gì ra thoát diệt sanh
Rồi Phật thuyết pháp:
- Này các
Tỳ-kheo! Trong vòng luân hồi, chúng sanh không phải lúc nào cũng chuyên
niệm nhất tâm, đôi khi họ đã phạm ác hạnh, do đó họ kinh qua cả hai lạc và
khổ
Lúc bấy giờ
nhà vua đang ở vườn giải trí. Nghe tiếng la cung của Sàmàvatì bị cháy, ông
vội đến đó, nhưng tất cả đã bị cháy rụi. Ông ngồi xuống bậc thềm triều
thần vây quanh, vô cùng thương tiếc Saamaavatii khi nhớ lại đức hạnh của
nàng. Ông thắc mắc không biết ai có thể gây ra việc đau thương này và nghĩ
ngay đến Màgandiyà. Ông muốn dùng mẹo dò hỏi bà ta nên nói với những người
tùy tùng:
- Thế cũng
xong! Bây giờ ta hết bị lôi kéo hay bận rộn nữa. Sàmàvatì luôn luôn tìm cớ
giết ta khiến ta sợ hãi và ngờ vực. Nhưng giờ đây tâm ta sẽ yên ổn và ta
có thể nằm ngủ yên lành.
- Ai đã làm
việc này, đại vương?
- Người mà
thật sự yêu ta nhất đã làm.
Màgandiyà tình
cờ đứng gần đó nghe thế liền hãnh diện nhận ngay mình là thủ phạm cùng với
người chú. Vua vẫn bình tĩnh khen rằng không ai thật sự yêu vua bằng bà và
sẽ ban cho bà cùng với quyến thuộc một ân huệ. Bà nhắn tin thân quyến gần
xa đến hoàng cung, ngay cả những kẻ không họ hàng nghe chuyện cũng đút lót
để được làm bà con. Khi đã tập trung họ, vua ra lệnh đào hố sâu đến thắt
lưng, bỏ họ xuống trải rơm lên trên rồi đốt rơm. Khi lửa đốt da thịt họ
đến giòn rụm, vua cho cày sắt cày lấp thân thể họ đập vụn ra. Ðối với
Màgandiyà, vua cho dùng dao nhọn xẻ những chỗ thịt rắn chắc trên người bà
ra từng mảnh, bỏ vào thùng dầu đặt trên lò than, chiên như bánh và bắt bà
ăn.
Trong Pháp
đường, đức Phật nghe các Tỳ-kheo thắc mắc bàn tán về cái chết của Sàmàvatì
với năm trăm cung nữ, nên kể:
Chuyện quá
khứ - Sàmàvati Âm Mưu Ðốt Một Vị Bích Chi Phật
Ngày xưa, khi
vua Phạm-ma-đạt cai trị Ba-la-nại, có tám vị Bích Chi Phật thường được
cúng dường thức ăn trong hoàng cung với trăm cung nữ hầu hạ. Bảy vị trở về
Hy-mã-lạp-sơn, còn lại một vị ngồi nhập định trên bờ sông nơi đám cỏ rối.
Một dịp theo
vua đi tắm chơi, các cung nữ đã nô đùa suốt ngày trong nước, bây giờ lên
bờ và run lên vì lạnh. Họ tìm chỗ đốt lửa để sưởi ấm. Thấy đám cỏ họ chẳng
buồn ngó trước xem sau vội châm lửa và xúm xít quanh. Khi cỏ cháy xẹp
xuống, họ phát giác vị Bích Chi Phật, hoảng hốt không biết tính sao. Cuối
cùng vì sợ nhà vua truy ra bắt tội, họ muốn phi tang hẳn xác của Phật nên
đem củi đến từ mọi ngả, chất đóng thành một giàn thiêu lớn, đổ dầu và châm
lửa. Xong họ bỏ đi.
Hành động đầu
tiên của các cung nữ thì vô tâm. Nhưng sau đó họ phạm lỗi nặng vì có tính
toán kỹ, do đó bị quả báo đau khổ. Riêng vị Bích Chi Phật đang đắm mình
trong thiền định thì dù có một trăm ngàn xe củi với dầu đốt lên, Ngài cũng
không thấy nóng. Vì vậy, vào ngày thứ bảy Phật xuất định và đi đến nơi
Ngài thích.
Những cung nữ
này, không những bị nung nấu nhiều trăm ngàn năm trong địa ngục, mà nhà họ
còn bị đốt và họ chết cháy trong nhà mình suốt một trăm kiếp liên tiếp.
Ðức Phật kể
xong chuyện thì các Tỳ-kheo hỏi tiếp:
- Nhưng bạch
Thế Tôn! Tại sao Khujjuttà trở thành một người gù? Sao cô ta lại thông
minh thế? Sao cô ta chứng quả Dự lưu và sao lại thành một tỳ nữ?
Ðức Phật kể
tiếp:
Chuyện quá
khứ: Những Việc Làm Kiếp Trước Của Khujjuttarà
Này các
Tỳ-kheo, cũng trong triều đại của vị vua Phạm-ma-đạt trị vì Ba-la-nại, có
một Phật Ðộc Giác hơi gù. Một tỳ nữ trông thấy Ngài bèn quấn một cái mền
trên vai và tay ôm một bình bằng vàng, lưng còng xuống y như một người gù,
rồi chậm rãi vừa bước đi vừa nói:
- Ông Phật Ðộc
Giác đi như thế này đây!
Vì cô nhại
tướng đi của Ngài nên cô ta thành gù lưng.
Tuy nhiên,
ngày đầu tiên cô đã dâng lên các vị Phật Ðộc Giác chỗ ngồi trong hoàng
cung, lấy bình bát múc đầy cháo đặc cúng dường. Phật nhận lãnh, nhưng vì
cháo quá nóng nên phải chuyền bình bát từ tay này sang tay khác. Cô thấy
vậy bèn dâng tám vòng tay bằng ngà lót dưới bình bát. Xong Phật nhìn cô,
lập tức cô thưa:
- Chư Tôn giả!
Chúng tôi không dùng những vòng này nữa, xin các Ngài nhận cho, xem như
một món quà của chúng tôi dâng cúng trước khi lên đường.
Các vị Phật
Ðộc Giác mang những chiếc vòng này về hang núi Nandamùla, và đến ngày nay
vẫn còn nguyên vẹn. Nhờ phước báo của việc làm này, cô thuộc lòng Tam tạng
kinh điển và trí huệ uyên bác, và cũng do đó cô chứng quả Dự lưu. Ðó là
việc làm của cô trong thời kỳ giữa hai vị Phật.
Thời Phật
Ca-diếp, có cô con gái viên chưởng khố ở Ba-la-nại, một hôm khi bóng chiều
đổ xuống, lấy gương ra soi và trang điểm. Một ni cô bạn thân của cô, người
đã dứt hết dục lạc, đến thăm. (Thường những ni cô đã dứt hết dục lạc, hay
đến thăm gia chủ ủng hộ mình vào xế chiều). Lúc đó các nàng hầu của cô
vắng mặt nên cô bảo vị ni lấy giùm giỏ trang điểm. Nếu không làm theo ý
cô, có thể cô nổi sân và như thế sẽ tái sanh vào địa ngục, nhưng nếu nghe
lời cô sai bảo thì cô sẽ làm người hầu ở kiếp sau. Làm người hầu dù sao
cũng không khổ bằng ở địa ngục, nên vị ni lấy giỏ trang điểm đưa cho cô.
Do đó cô trở thành nàng hầu.
Lại một hôm
các Tỳ-kheo bàn cãi trong Pháp đường:
- Sàmàvatì và
năm trăm cung nữ bị thiêu ngay trong nhà mình. Còn Màgandiyà và quyến
thuộc thân bị lửa rơm đốt, bị cày sắt cày nát nhừ, riêng Màgandiyà bị nấu
trong dầu sôi. Như vậy ai sống và ai chết?
Ðức Phật nghe
qua, đáp rằng:
- Này các
Tỳ-kheo, những người phóng dật buông lung dù sống một trăm năm cũng như
chết. Những người sống chú tâm chuyên niệm, dù chết hay sống vẫn là đang
sống. Này các Tỳ-khep, có chú tâm chánh niệm thì không bao giờ chết cả.
Rồi đức Phật
đọc Pháp Cú sau:
(21) Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.
(22) Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An
vui hạnh bậc Thánh.
(23) Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn,
Bậc trí hưởng Niết-bàn,
Ắt
thanh tịnh vô thượng. |