PHẨM IV: HOA (tt)
5. Kosiya Keo Kiệt
Như ong đến
với hoa ...
Khi ngụ tại
Xá-vệ, Thế Tôn dạy câu này, liên quan đến chưởng khố Niggardly Kosiya.
Tại thành phố
Jaggery, gần Vương Xá có chưởng khố Niggardly Kosiya tài sản lên đến tám
trăm triệu đồng, nhưng chẳng bao giờ bố thí, dù chỉ một giọt dầu nhỏ xíu
đủ đọng trên đầu ngọn cỏ, thậm chí còn không dám ăn. Của cải nhiều như thế
mà con trai, con gái và cả Tỳ-kheo, Bà-la-môn đều không được hưởng cứ còn
nguyên vẹn, giống như một hồ nước bị ma ám.
Sáng sớm đức
Phật xuất định Ðại bi Tam-muội, dùng Phật nhãn quán sát hàng tín hữu của
Ngài trong khắp vũ trụ, và thấy cách Ngài bốn mươi lăm dặm có vị chưởng
khố và bà vợ đủ duyên lành được hóa độ.
Ngày trước đó,
chưởng khố đến hoàng cung chầu vua. Trên đường về ông thấy một người nhà
quê gần chết đói, đang ăn cái bánh tròn đầy cháo chua. Ông phát đói bụng.
Khi về nhà, ông nghĩ nếu nói ra chuyện mình đói người khác cũng đói ăn
theo, thì sẽ tốn biết bao, nào mè, mật mía, đường thô và nhiều thứ khác,
chi bằng im đi. Ông đi bách bộ, chịu đựng cơn đói. Hàng giờ trôi qua, mặt
ông tái mét, càng lúc càng xanh xao vàng vọt, gân nổi khắp người. Cuối
cùng hết chịu nổi, ông về phòng, nằm vật xuống ôm chặt thanh giường. Tuy
quá đau đớn vì đói, nhưng nghĩ đến của cải bị tốn kém hao phí, ông chẳng
dám hé môi.
Vợ ông đến
thăm ông, xoa lưng hỏi han:
- Phu chủ, có
việc gì vậy?
- Không.
- Nhà vua làm
ông buồn bực?
- Không.
- Nếu thế thì
... hay là ông cần gì, thèm gì?
Ông nhảy nhổm
vì đúng ngay vết thương lòng. Nhưng lòng tiếc của cũng bừng dậy khiến ông
một lần nữa ôm bụng im lặng chịu trận.
Bà vợ, chắc
nghĩ rằng mình đoán gần đúng nên năn nỉ tiếp:
- Phu chủ, nói
cho tôi nghe đi! Ông thèm món gì?
Chưởng khố
chịu hết nổi, thều thào chữ còn chữ mất:
- Ừ, tôi thèm
một thứ.
- Thèm gì nào,
phu chủ?
- Tôi muốn ăn
một cái bánh chiên!
- Ồ! sao không
nói sớm? Ông có nghèo túng gì đâu! Tôi đủ sức bao ăn hết cả thành Jaggery.
- Trời! Ai bảo
bà lo cho thiên hạ vậy? Họ muốn ăn thì ráng làm ra tiền mà mua chứ?
- Thế thì, tôi
chỉ đãi bà con dọc đường này.
- Bà lại phung
phí quá!
- Nếu thế thì
mình mời trong nhà thôi!
- Tốn kém lắm!
- Ðể tôi nướng
đủ cho vợ chồng con cái mính ăn thôi.
- Sao bà tính
chi nhiều dữ vậy?
- Ðược rồi,
chỉ có tôi với ông ăn nhe!
- Bà cũng cần
ăn sao?
- Ðược lắm,
một mình ông thôi.
Ðể tránh cặp
mắt nhiều người, ông dặn vợ để lại hạt gạo nguyên, chỉ dùng hạt bể, lấy lò
than, khuôn nướng bánh, một chút sữa với mật mía, mật ong và đướng thô,
rồi leo lên tầng chót tòa nhà bảy tầng nướng bánh, và ông sẽ ngồi ăn tại
chỗ. Bà vợ chỉ biết vâng theo.
Sáng sớm, Thế
Tôn bảo Trưởng lão Mục-kiều-liên đến thành Jaggery trên tầng thứ bảy nhà
chưởng khố để độ ông ta, dạy cho ông biết xả bỏ, rồi đem cả hai ông bà về
Kỳ Viên cùng với bánh, sữa, mật, đường bằng thần thông. Phật sẽ cùng năm
trăm Tỳ-kheo ngồi trong tinh xá thọ thực bánh chiên.
Chỉ trong
khoảnh khắc, Trưởng lão đã đứng lơ lửng giữa trời, trước cửa sổ lầu bảy,
hào quang rực rỡ. Chưởng khố trông thấy Ngài, run như cầy sấy. Ông đã trốn
lên tận đây cũng vì sợ có người đến khất thực. Vậy mà ông bạn này lại lù
lù hiện ra. Không biết rằng Trưởng lão muốn là được, chưởng khố thở phì
phò giận dữ, nghe như muối và đường ném vào lửa. Ông quát lên:
- Ông Tỳ-kheo!
Ông muốn gì mà đứng lơ lửng trên không vậy? Ông có tới tới lui lui cho đến
khi vạch thành một con đường trên trời cũng chẳng được gì đâu!
Trưởng lão vẫn
thản nhiên đi tới đi lui trước cửa sổ như trước. Chưởng khố quát tiếp:
- Ông chờ đợi
gì mà đi tới đi lui hoài vậy? Ông có ngồi kiết già đi nữa cũng chẳng được
gì.
Trưởng lão bắt
chân ngồi kiết già.
- Dù ông có
đứng trên thành cửa sổ cũng thế thôi.
- Dù ông phun
ra khói cũng thế thôi.
Chưởng khố nói
thế nào là Trưởng lão làm đúng y. Cho nên, cuối cùng toàn bộ ngôi nhà khói
phủ mù mịt. Chưởng khố cảm thấy như mắt bị kim đâm. Sợ cháy nhà, ông ráng
nén không dám nói: "Dù ông có phun ra lửa cũng thế thôi." Ông nghĩ thầm:
"Ông thầy này bám dai như keo. Nếu không cho cái gì, ổng không chịu đi
đâu." Ông đành bảo vợ làm một cái bánh nhỏ để tống khứ trưởng lão. Bà lấy
cục bột nhỏ bỏ vào nồi. Bột phồng lên thành cái bánh to đầy tràn cả chảo.
Ông vò đầu bứt tai:
- Trời! Bà lấy
cục bột lớn quá!
Rồi đích thân
ông dích một cục bột nhỏ xíu trên đầu muỗng bỏ vào nồi. Bột lại phình to
hơn cái trước. Cứ thế, cái bánh nướng sau to hơn cái trước. Cuối cùng rứt
cái bánh ra khỏi rổ, nhưng tất cả dính lại với nhau. Bà cầu cứu ông, nhưng
cố hết sức ông cũng không tách ra được. Mồ hôi tuôn khắp mình, ông hết
thèm, liền bảo bà đưa hết rổ bánh cho Tỳ-kheo. Trưởng lão thuyết pháp cho
hai ông bà, nêu công hạnh của Tam bảo, bắt đầu với câu "Sự bố thí là cách
tế lễ chơn chánh nhất". Ngài giải thích phước báo của hạnh bố thí và các
công đức khác, rõ ràng như mặt trăng trong bầu trời.
Nghe xong ông
phát tín tâm, mời Trưởng lão đến gần, ngồi xuống giướng thọ thực.
Mục-kiền-liên bảo ông bà mang bánh đến chỗ Thế Tôn cúng dường. Ngài sẽ
mang cả hai đi bằng thần thông. Ðầu cầu thang trong lâu đài sẽ vẫn ở chỗ
cũ nhưng chân cầu thang sẽ nằm ngay cổng tinh xá kỳ Viên. Ngài sẽ mang hai
ông bà đến Kỳ viên nhanh hơn là đi từ tầng lầu trên xuống tầng lầu dưới.
Chưởng khố
đồng ý đề nghị ấy. Trưởng lão bèn để đầu cầu thang yên chỗ cũ và ra lệnh:
- Chân thang
hãy nằm tại cổng Kỳ Viên.
Thang hiện ra
y như thế. Hai vợ chồng Chưởng khố đến Kỳ Viên bèn đến trước Thế Tôn thưa
đã đến giờ thọ trai. Thế Tôn vào phòng ăn, ngồi trên Phật tòa soạn sẵn
cùng với Tăng đoàn vây quanh. Chưởng khố dâng nước khai mạc buổi cúng
dường Phật và chư Tăng. Bà vợ đặt bánh vào bình bát Như Lai. Thế Tôn lấy
vừa đủ dùng, các Tỳ-kheo dùng xong, cả hai ông bà cũng ăn no, nhưng bánh
vẫn còn. Sau khi chia bánh cho toàn thể Tỳ-kheo trong tinh xá và cho những
người xin ăn đồ thừa, bánh vẫn không giảm. Phật dạy đem bánh ra đổ ngoài
cổng Kỳ Viên. Ðến ngày nay chỗ đó có tên là Hang Bánh.
Hai ông bà đến
chỗ Thế Tôn, đứng kính cẩn một bên. Thế Tôn hồi hướng công đức, dứt lời cả
hai chứng quả Dự lưu. Rồi họ chào Phật, lên cầu thang ở cổng Kỳ Viên và về
nhà. Từ đó về sau Chưởng khố dùng gia sản tám trăm triệu đồng dành riêng
phục vụ cho Giáo đoàn của Phật.
Chiều hôm sau,
các Tỳ-kheo đến pháp đường bàn tán thần thông cùng oai lực của
Mục-kiền-liên đã chiêu phục chưởng khố. Phật nghe qua dạy:
- Này các
Tỳ-kheo! Một Tỳ-kheo muốn giáo hóa một gia chủ không làm hại đức tin,
không làm hao của cải, không áp chế cũng không làm họ để giảng cho họ hiểu
công hạnh của Phật, như con ong đậu trên hoa hút mật. Con ta,
Mục-kiên-liên, đúng là một Tỳ-kheo như thế.
Ðể tán thán
Trưởng lão Mục-kiền-liên, Phật nói Pháp cú:
(49) Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy,
Bậc thánh đi vào làng.
Ðức Phật nói
tiếp về công hạnh của Ngài, và cho biết đây không phải lần đầu mà trong
kiếp trước Ngài đã từng cải hóa chưởng khố Niggardly khi thuyết giảng mối
tương quan giữa hành nghiệp và quả báo. Và Phật kể lại chuyện Bổn sanh
Illìsa.
Cả
hai đều chân vòng kiềng
Cả
hai cũng lại khập khiềng què luôn
Nốt ruồi, mắt lác đúc khuôn
Ta
không thể nói ai là Illìsa.
6. Ẩn Sĩ Lõa Thể Pàthika.
Không nên
nhìn lỗi người...
Tại Xá-vệ Phật
đã dạy câu trên liên quan đến ẩn sĩ lõa thể Pàthika.
Vợ một gia chủ
tại Xá-vệ lo cung cấp mọi nhu cầu cho ẩn sĩ lõa thể Pàthika, xem ông như
con đẻ của mình. Bà được người láng giềng ca tụng pháp nhũ của Phật nên
muốn đến tinh xá nghe Pháp. Nhưng mấy lần đến xin ẩn sĩ đều bị ông khuyên
không nên đi. Vì vậy bà định sẽ mời Thế Tôn đến tư gia để thuyết pháp.
Chiều hôm đó,
bà cho cậu con trai đến tinh xá để thỉnh Thế Tôn sáng mai. Cậu bé đi ngang
qua thất ẩn sĩ chào, bị ông ta bảo đừng đi. Cậu không dám cãi lệnh mẹ sợ
bị rầy. Ông ta bèn bảo cậu đừng chỉ cho Thế Tôn đúng đường đi đến nhà mà
chỉ giả bộ như nhà cậu ở gần đó. Rồi khi về thì cậu phải chạy thật mau,
làm như định đi đường khác. Sau đó, hãy đến gặp ẩn sĩ. Cậu bé vâng lời làm
theo. Khi cậu thi hành mọi việc xong xuôi và trở lại nhà ẩn sĩ, ông khen
ngợi cậu bé và hứa hẹn sẽ cùng nhau ăn phần dành cúng dường Phật.
Sáng tinh mơ
ngày hôm sau, ẩn sĩ đến nhà bà thí chủ, cùng với cậu bé ngồi phòng bên
trong. Các người láng giềng trét phụ nhà với phân bò, tô điểm bằng năm thứ
hoa, có cả hoa Làja, và soạn sẵn chỗ ngồi thượng hạng cho Thế Tôn. (Những
người chưa thân cận với chư Phật không biết cách sửa soạn Phật tòa. Chư
Phật cũng không bao giờ cần đến một người dẫn đường. Khi chư Phật giác ngộ
dưới cội Bồ-đề, làm rúng động mười ngàn thế giới, mọi con đường đều trở
nên rõ ràng đối với các Ngài: đường xuống địa ngục, đường đến cõïi súc
sanh, cõïi ngạ quỷ; lên cõi người, cõi trời; đến cõi bất tử, Niết-bàn. Chư
Phật không cần phải được chỉ đường đến làng mạc, phố thị hay bất cứ chỗ
nào).
Do đó sáng sớm
đức Phật cầm bát, đắp y đến thẳng nhà bà thí chủ. Bà ra khỏi nhà một đoạn
thật xa để đón Phật, năm vóc gieo xuống kính lẽ và theo Phật về nhà. Bà
xối nước lên tay phải của Phật và cúng dường thức ăn hảo hạng cứng và mềm.
Bà đỡ lấy bát khi Thế Tôn thọ thực xong, và thỉnh Ngài hồi hương công đức.
Bà lắng nghe pháp và tán thán Như lai:
- Hay thay!
Hay thay!
Ẩn sĩ ngồi
phía sau nghe thế nổi cáu, không nhận bà là đệ tử mình nữa, và đứng dậy ra
về, không quên hăm he:
- Ðồ phù thủy!
Mi sẽ thiệt hại vì tán thán ông ta.
Sau đó ông ta
dùng đủ lời lăng mạ vị tín nữ và Thế Tôn, Rồi bỏ đi. Bàng hoàng vì những
lời mắng chửi của ẩn sĩ lõa thể, bà tán tâm, không thể chú ý nghe Thế Tôn
thuyết pháp. Bà thú thật với Thế Tôn và được Ngài khuyên:
- Ðừng bận tâm
đến lời của kẻ ngoại đạo, không cần chú ý đến một người như thế. Chỉ nên
nhìn lỗi mình; đã phạm hay chưa phạm.
Và nói Pháp
cú:
(50) Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm,
Nên nhìn tự chính mình,
Có
làm hay không làm.
7. Vua Và Vua Các Vua
Như bông
hoa đẹp tươi...
Thế Tôn dạy
câu này liên quan đến cư sĩ Chattapàni khi ngài ngụ tại Xá-Vệ.
Cư sĩ
Chattapàni ở Xá-vệ làu thông Tam tạng Kinh điển và đã chứng Nhị quả. Một
sáng sớm, tuân giữ Bát quan trai giới, đến đảnh lễ Thế Tôn. Ðối với những
vị chứng Nhị quả và các Thánh đệ tử của Phật, vì đã thệ nguyện trước,
không cần giữ giới Bát quan trai. Những vị ấy, chỉ do công hạnh của đạo
quả, sống đời thánh thiện, ăn ngày chỉ một bữa. Do đó, đức Thế Tôn nói:
"Ðại Vương! Người thợ gốm Ghatikàra ăn ngày chỉ một bữa, sống đời phạm
hạnh, thì đã là người đạo đức, chính thực." Do đó, những vị đã chứng Nhị
quả đương nhiên ăn ngày một bữa và sống đời thánh thiện).
Nhưng
Chattapàni cũng vẫn giữ giới Bát quan trai. Ông đến đảnh lễ Thế Tôn rồi
cung kính ngồi xuống nghe pháp.
Lúc bấy giờ
vua Ba-tư-nặc ở Kosala cũng đến để đảnh lễ Thế Tôn, Chattapàni trông thấy
thoáng lo nghĩ không biết phải xử sự thế nào. Ông đang ngồi với sự hiện
diện của Phật, tức vua của các vua, thì không thể đứng lên chào vua của
một nước được. Thế rồi ông quyết định ngồi yên không đứng dậy, dù vua
Ba-tư-nặc có bất bình cũng đành chịu. Quả nhiên, vua đảnh lễ Thế Tôn xong
cung kính ngồi một bên, mặt không vui. Thế Tôn thấy vậy bèn bảo:
- Ðại vương,
cư sĩ Chattapàni là bậc Thiện trí, hiểu biết giáo pháp và thông thuộc Tam
tạng kinh điển, bình thản cả lúc thành công hay thất bại.
Vua nghe Ngài
ca tụng đức hạnh của ông, lòng dịu lại hết giận.
Sau đó, một
hôm, điểm tâm xong, vua đứng trên lầu hoàng cung thấy Chattapàni đi qua
sân, tay cầm dù chân mang dép liền ra lệnh gọi ông đến. Ông bỏ dù, cởi dép
đến chào vua và cung kính đứng một bên.
Vua hỏi ông:
- Tại sao ông
bỏ dù và cởi dép?
Ông đáp:
- Khi thần
nghe Ðại Vương cho đòi vào liền để dù và dép qua một bên trước khi đến gặp
ngài.
- Thế thì, rõ
ràng hôm nay ông mới biết ta là vua?
- Thần luôn
luôn biết ngài là vua.
- Sao hôm
trước gặp ta chỗ Thế Tôn, ông không đứng dậy?
- Ðại vương!
Nếu đứng trước vua của các vua mà thần đứng dậy chào vua một nước thì
thiếu cung kính với đấng Thế Tôn. Vì vậy thần đã không đứng dậy.
- Không sao,
cái gì đã qua hãy cho qua. Ta nghe nói ông thông thạo những vấn đề liên
quan đến đời này và đời sau, và thông thuộc Tam tạng kinh điển, vậy hãy
đến cung cấm tụng đọc cho các cung phi.
- Thần không
thể làm, Ðại vương!
- Tại sao vậy?
- Hoàng cung
là nơi nghiêm mật. Ðúng hay sai đều nghiêm trọng, tâu bệ hạ.
- Ðừng nói
thế. Ngày hôm kia, khi gặp ta ông thấy không cần đứng dậy chào mà. Ðừng
làm thương tổn vết thương thêm nữa.
- Ðại vương,
nếu một gia chủ làm nhiệm vụ của một Tỳ-kheo thì là phạm lỗi nặng. Xin
thỉnh một Tỳ-kheo đến giảng kinh.
Vua chấp
thuận, ra lệnh bãi hầu. Sau đó, vua sai sứ giả đến bạch với Phật, xin Thế
Tôn đến hoàng cung thường xuyên với năm trăm Tỳ-kheo để nói pháp cho hai
vương phi là Mallikà và Vàsabhakhattyyà. Vì như Phật không thể đến hoài
một chỗ, nên Thế Tôn cử Trưởng lão A-nan đều đặn đến trùng tuyên giáo pháp
cho hai bà. Mallikà học rất chăm chỉ, ôn luyện nghiêm túc và chú tâm đến
lời giảng, còn Vàsabhakhattyyà thì không được như vậy. Ðược Thế Tôn hỏi
thăm, Trưởng lão trình bày sự học của hai bà. Phật dạy:
- Này A-nan!
Khi Ta thuyết pháp, ai không thành tâm lắng nghe, học tập, ôn luyện và
giảng giải được thì không chút gì lợi lạc, như bông hoa có sắc mà không
hương. Nhưng người nào nghe, học, lặp lại và giảng giải được sẽ hưởng
nhiều lợi lạc.
Rồi Thế Tôn
đọc Pháp cú:
(51) Như bông hoa đẹp tươi,
Có
sắc mà không hương,
Cũng vậy, lòi khéo nói,
Không làm không kết quả.
(52) Như bông hoa đẹp tươi,
Có
sắc lại thêm hương,
Cũng vậy, lòi khéo nói,
Có
làm, có kết quả.
Khi Phật kết
thúc bài giảng, nhiều người chứng sơ quả, Nhị quả và Tam quả. Hội chúng
cũng được nhiều lợi lạc.
8. Ðám Cưới Bà Tỳ Xá Khư.
Như từ một
đống hoa...
Khi ngụ tại
Pubbàràma, gần Xá-vệ, Thế Tôn dạy câu trên liên quan đến bà Tỳ-xá-khư
(Visàkhà).
Tỳ-xá-khư sinh
ra trong thành Bhaddiya, thuộc vương quốc Anga. Cha là chưởng khố
Dhananjaya, con của chưởng khố Ram, và mẹ là Sumanaa Devii chánh thất. Năm
bà lên bảy tuổi, Thế Tôn thấy người Bà-la-môn Sela và tín hữu của ông đủ
duyên lành nhập đạo nên đến thành này cùng với đông đảo Tăng chúng. Lúc
bấy giờ chưởng khố Ram đang giữ chức chưởng khố của thành này, là người
đứng đầu năm nhân vật có phước đức lớn. (Ðó là chưởng khố Ram, bà
Candapadumà chánh thất của ông, trưởng nam Dhananajaya và vợ là Sumanà
Devì, và gia nhân của chưởng khố Ram là Punna. Không riêng gì chưởng khố
Ram có gia sản kết xù mà tại vương quốc của vua Bình-sa vương cũng có năm
người là Jotiya, Hatila, Ram, Punnaka, và Kàkavaliya).
Chưởng khố Ram
nghe tin đấng Thập lực đến liền bảo Tỳ-xá-khư:
- Hôm nay là
ngày hạnh phúc của ông và cũng là hạnh phúc cho con. Hãy dẫn năm trăm
trinh nữ gia nhân của con cưỡi năm trăm xe cùng năm trăm nô lệ nữ đi
khoảng xa đón đấng Thập lực.
Tỳ-xá-khư liền
vâng lời ông nội.
Cô biết rõ
điều gì nên làm, điều gì không nên làm, vì thế cô cho xe đi hết khoảng
đường xe có thể đi được, rồi xuống xe đi bộ đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và
đứng qua một bên. Hoan hỉ vì cung cách tiếp rước của cô bé, Thế Tôn thuyết
pháp cho cô, cuối bài pháp cô với năm trăm gia nhân cùng chứng quả Dự lưu.
Chưởng khố Ram
cũng đến chỗ Thế Tôn nghe pháp và cũng chứng Sơ quả. Sau đó ông thỉnh Thế
Tôn với Tăng đoàn đến nhà thọ thực, và ông dâng cúng thực phẩm chọn lọc,
cứng lẫn mềm, suốt hai tuần thật dồi dào. Sau nửa tháng ở lại trong niềm
hoan hỷ, Thế Tôn rời thành Bhadiya.
Thuở đó vua
Bình-sa vương và vua Ba-tư-nặc nước Kosala là anh em rể, vua này cưới em
của vua kia. Vua Kosala thấy trong nước mình không có người nào giàu có vô
tận như năm nhân vật thế phiệt của Bình Sa Vương, nên đến xin một nhân vật
về xứ mình. Vua Bình-sa vương từ chối, vua Kosala quyết chí xin cho được,
nếu không sẽ không về xứ. Túng thế Bình-sa vương họp bàn với các quan rồi
hứa sẽ cử chưởng khố Dhananjaya.
Ðúng hẹn,
chưởng khố Dhananjaya đi theo vua Ba-tư-nặc rời Xá-vệ về Kosala, chỉ mất
một đêm. Dừng trước một cảnh đẹp, và khi được biết nơi đó chỉ cách Xá-vệ
bảy dặm và là xứ sở của vua Ba-tư-nặc, chưởng khố xin vua ở lại đây. Vua
chuẩn y, dựng thành quách tại đây cho ông, đặt tên thành là Sàketa, có
nghĩa là thành có người đầu tiên ở vào chiều tối.
Lúc đó ở Xá-vệ
Chưởng khố Migàra được một mụn trai tên Punnavaddhana đến tuổi trưởng
thành. Hai ông bà bảo con nên lập gia đình, ban đầu anh thoái thác, sau
đặt điều kiện vị hôn thê phải hội đủ năm vẻ đẹp về tóc, thịt, xương, da,
và tuổi trẻ. (Phụ nữ đẹp con nhà trâm anh tóc phải giống như đuôi công lòa
xòa đến viền váy và cuốn cong. Ðó là vẻ đẹp của tóc. Môi có màu đỏ tươi
như màu bí và phải tròn đầy mềm mại, đó là vẻ đẹp của thịt. Răng phải
trắng, đều không kẽ hở, sáng bóng như kim cương hay vỏ ốc xà cừ, đó là vẻ
đẹp của xương. Làn da không xông ướp với gỗ đàn hương, phấn hồng hay bất
cứ mỹ phẩm nào, vẫn mịn màng như vòng hoa huệ và trắng muốt như hoa
Canikàra, đó là vẻ đẹp của da. Dù có sinh đẻ mười lần đi nữa cô ta trông
như gái một con, đó là vẻ đẹp của tuổi trẻ.)
Hai ông bà mời
tám Bà-la-môn đến nhà dùng bữa, để nhờ họ tìm một nàng dâu như thế. Họ hứa
và đi tìm với tiền trợ cấp đáng kể, và một vòng hoa bằng vàng trị giá một
trăm ngàn đồng tiền để đeo vào cổ cô dâu. Họ sốt sắng tìm kiếm nhưng hoài
công, đành trở về, trúng ngay ngày lễ hội hằng năm. Ngày đó các gia đình
ngày thường ít khi ra ngoài sẽ dẫn gia nhân, người hầu đi bộ đến tận bờ
sông. Những cậu trai gia thế, có địa vị và giàu có thuộc giai cấp chiến
sĩ, sẽ đứng dọc đướng, và khi cô gái đẹp nào lọt và mắt xanh và cùng giai
cấp, họ sẽ ném vòng hoa lên đầu nàng. Các ông Bà-la-môn cũng đến đó chờ
đợi trong một gian nhà. Lúc đó Tỳ-xá-khư độ mười lăm mười sáu tuổi, trang
sức đầy mình với năm trăm tỳ nữ hộ tống, đến bờ sông định xuống tắm. Bất
ngờ cuồng phong nổi lên và trời mưa. Năm trăm tỳ nữ chạy nhanh đến trú
trong gian nhà, còn tỳ-xá-khư vẫn bước đi như bình thường. Vào đến gian
nhà đồ trang sức và quần áo nàng ướt sũng.
Các ông
Bà-la-môn thấy nàng hội đủ bốn vẻ đẹp. Họ tìm cách để xem xét hàm răng của
nàng. Vì thế họ kháo chuyện với nhau:
- Con gái tôi
thật là đoảng! Chồng nó chỉ hưởng được có thứ cháo chua, không biết tôi
nói có ngoa không!
Tỳ-xá-khư lên
tiếng:
- Các ông đang
bàn việc gì thế?
- Nói về cô
đấy.
- Về điểm gì?
- Tỳ nữ của cô
chạy nhanh nên không bị ướt,còn cô vẫn chậm bước nên ướt hết.
- Tôi khỏe hơn
họ, vả lại tôi có lý do để chậm bước.
- Lý do gì?
- Có bốn hạng
người không thể chạy bừa vì bất lợi cho họ.
- Là người
nào?
Một vị vua vừa
được xức dầu, trang sức đầy mình mà chạy trong sân hoàng cung sẽ bất lợi
vì bị thiên hạ chế giễu "Vua chúa gì mà chạy lung tung như thường dân".
Lại nữa con voi nghi lễ của vua sẽ rất khó coi nếu chạy nhảy, nhưng nếu đi
đứng oai vệ một cách tự nhiên thì thấy đàng hoàng. Một Tỳ-kheo sẽ mất oai
nghi nếu chạy hoặc đi nhanh và sẽ bị phê phán. "Tỳ-kheo gì mà chạy đi
chẳng khác gì kẻ phàm tục". Một phụ nữ nếu chạy đi thì cũng sẽ bị chê bai
"Nữ nhi mà chạy băng băng y như đàn ông". Ðó là bốn hạng người không nên
chạy bừa vì sẽ bất lợi cho họ.
- Còn lý do
nào khác không thưa cô?
- Thưa quý
ông, các bậc cha mẹ nuôi nấng con gái đều cố gìn giữ nguyên vẹn tay chân.
Chúng tôi như của quý để gả bán. Nếu chúng tôi chạy nhảy vấp tà áo hay va
đất đá bị té có thể gãy tay chân, lúc đó sẽ là gánh nặng cho gia đình. Còn
bây giờ nếu áo quần ướt thì sẽ khô thôi. Vì nghĩ như thế nên tôi không dám
chạy.
Trong lúc
Tỳ-xá-khư nói chuyện, các ông Bà-la-môn quan sát hàm răng của nàng, quả
nhiên tuyệt đẹp chưa hề có. Họ ca tụng nàng:
- Thưa cô, chỉ
có cô mới xứng đáng nhận lãnh tặng phẩm này.
Rồi họ đeo vào
cổ nàng chiếc vòng vàng. Cô nhận lời xin cưới của họ vì được họ cho biết
con của chưởng khố Migàra là Punnavaddhana Cumàra đồng giai cấp với cô. Dù
đã đi bộ đến đây, nhưng từ khi cô nhận chiếc vòng vàng rồi thì đi bộ không
còn thích hợp nữa. Cô nhắn cha gởi cho cô chiếc xe, nhưng ông cha lại cho
năm trăm xe đến, rồi cô lên xe cùng với đoàn tùy tùng. Các ông Bà-la-môn
đi theo. Về nhà hai bên bàn bạc với nhau. Gia sản bên Migàra khoảng bốn
mươi triệu, không đáng chi so với nhà Tỳ-xá-khư. Nhưng nghĩ đến được một
người bảo hộ con gái mình, cha nàng bằng lòng gả nàng. Và ông tiếp đãi các
ông Bà-la-môn thật chu đáo và thịnh soạn trong hai ngày.
Chưởng khố
Migàra nghe các ông Bà-la-môn trở về thuật lại đầu đuôi câu chuyện, ông
rất hài lòng và cũng muốn rước dâu nhanh chóng. Ông báo tin cho sui gia
biết là sẽ đến với vua Kosala và đông đảo tùy tùng. Chưởng khố Dhananjaya
nhắn người trả lời: "Chúng tôi xin hân hạnh tiếp đón ngay cả mười vị vua
cũng được". Thế là Migàra đem tất cả dân chúng trong thành đi, trừ một số
phải ở lại giữ nhà. Họ dừng lại cách Sàketa nửa dặm, gửi tin đến
Dhananjaya. Ông lập tức gửi quà quí giá đến cho họ. Rồi ông hỏi ý kiến con
gái là Tỳ-xá-khư:
- Cha chồng
con đã đến rước dâu cùng với vua ở Kosala, nhà nào dành để đón ông, nhà
nào cho vua ở, và nhà nào tiếp các vương tôn?
(Tỳ-xá-khư rất
thông minh, tài trí sắc bén như góc cạnh viên kim cương là do cô đã phát
lời thệ nguyện cũng như do bổn nguyện cô hằng ôm ấp trong một trăm ngàn
kiếp).
Cô sắp đặt mọi
việc thật thỏa đáng, từ sửa soạn những căn nhà cho cha chồng, vua, vương
tôn và đoàn tùy tùng trú ngụ, chí đến phân công tác cho đám gia nhân phục
vụ không những quan khách mà cả chuồng ngựa, voi,... Ðể mọi người đều được
hài lòng vui vẻ. Riêng phần mình, cô được cha xuất kho cả ngàn miếng vàng
ròng, rồi bạc, ngọc ru-bi, ngọc trai, san hô và kim cương, để đặt làm cho
cô một món trang sức thật vĩ đại và lộng lẫy.
Vài ngày sau,
vua Kosala hỏi thăm chừng nào rước dâu, cứ thế, ba tháng trôi qua mà món
trang sức cho cô dâu vẫn chưa làm xong, bên đàng gái trả lời là mùa mưa
đến, vua không thể đi đâu được trong vòng bốn tháng và bổn phận của họ là
sẵn sàng phục vụ những gì vua và quân lính dùng. Từ đó, thành Sàketa như
đang trong một kỳ lễ hội dài. Từ vua cho đến người thấp kém nhất, ai cũng
được trang sức hương hoa lộng lẫy. Tuy nhiên bên đàng gái gặp khó khăn vì
thiếu củi đốt. Họ phải hạ chuồng voi và những căn nhà xiêu vẹo trong thành
để lấy gỗ làm củi. Nhưng rồi cũng không đủ, và đang trong mùa mưa nên càng
khó kiếm củi, họ phải mở cửa kho, lấy vải thô làm thành dây bấc nhúng vào
dầu để nấu nướng.
Bốn tháng trôi
qua, món trang sức mới xong. Ðã chi hết bốn bình kim cương (một bình chừng
nửa lít), mười một bình ngọc trai, hai mươi bình san hô, ba mươi ba bình
ru-bi, và nhiều loại đá quý khác. Họ đã dùng bạc làm dây xâu thay cho chỉ.
Món nữ trang được kết từ đầu rủ xuống chân. Những móc vàng, dây bạc được
gắn, thắt vào những chỗ khác nhau để giữ món trang sức dính chắc và thẳng
đứng, một trên chóp mỗi tai, một ngang giữa cổ, một ở một đầu gối, một ở
mỗi khuỷu tay, một ở rốn, và một ở thắt lưng. Trên nền món trang sức này,
thợ chạm một con công. Hai cánh của công mỗi bên gồm năm trăm sợi lông
bằng vàng ròng. Mỏ công bằng san hô, hai mắt bằng ngọc, cổ và lông đuôi
cũng bằng ngọc. Gân nổi trên lông công bằng đá quý và chân cũng vậy. Khi
nó được gắn lên đỉnh đầu của Tỳ-xá-khư, trông như một con chim công đang
đứng trên đỉnh núi xòe cánh múa; và tiếng của những gân của ngàn lông rung
lên nghe như nhạc trời hợp xướng, hoặc như bài hợp tấu của năm loại nhạc
khí. Chỉ khi nào đứng thật gần mới biết đó không phải con công thật. Trị
giá món trang sức này lên đến chín mươi triệu đồng và tiền công hết cả
trăm ngàn đồng.
(Vào thời Phật
Ca-diếp, Tỳ-xá-khư đã cúng dường cho hai mươi ngàn Tỳ-kheo y và bát, cả
kim chỉ và thuốc nhuộm, do phước báo đó, ngày nay cô được món trang sức vĩ
đại này, tức phần thưởng cho tín nữ. Ðối với thiện nam nếu cúng y sẽ được
y bát tạo bằng thần thông).
Ngoài ra
Tỳ-xà-khư còn được của hồi môn gồm năm trăm xe chất đầy tiền, năm trăm xe
đầy hũ vàng, năm trăm xe đầy hũ bạc, năm trăm xe đầy hũ đồng, năm trăm xe
vải vóc tơ lụa, năm trăm xe bơ, năm trăm xe gạo trắng sạch và năm trăm
chiếc xe chở đầy nào cày, cào và các thứ nông cụ khác. Chưa kể một ngàn
năm trăm tỳ nữ trang sức sang trọng để tắm, giặt, nấu ăn và mặc đồ cho cô,
tất cả đều ngồi trên năm trăm chiếc xe. Chưởng khố muốn rằng con mình
không thiếu một thứ gì khi về nhà chồng.
Chưa vừa ý,
ông còn cho thêm gia súc. Ông ra lệnh:
- Các ngươi
hãy đến bãi gia súc nhỏ, mở cổng ra. Xong, hãy đứng hai bên làm thành một
đường dài ba phần tư dặm và rộng tám sào (bốn mươi mét). Cứ cách một phần
tư dặm đường, để một cái trống. Ðừng cho trâu bò đứng ra khỏi giới hạn
này. Khi các ngươi đến đứng đúng vị trí, hãy đánh trống lên.
Họ làm theo
lệnh. Rời khỏi bãi gia súc, họ tiến đến một phần tư dặm liền đánh trống,
rồi nữa dặm lại đánh trống, rồi đến ba phần tư dặm lại đánh trống. Và họ
đứng gác những lối ra hai bên. Khi họ xong thì trâu bò đã đứng chen vai
nhau trên khoảng đất dài ba phần tư dặm và ngang tám sào. Lúc đó, chưởng
khố ra lệnh đóng cửa chuồng trâu bò. Tuy nhiên cô không chỉ hưởng số gia
súc đó mà còn thêm sáu mươi ngàn bò đực mạnh khỏe, sáu mươi ngàn bò sữa
cái với bò con theo sau, đã sổng chuồng chạy theo.
(Kiếp trước,
vào thời Phật Ca-diếp, Tỳ-xá-khư là Sanghadàsì, công chúa út trong bảy
công chúa con vua Kiki, cúng dường năm phẩm vật từ bò cho hai mươi ngàn
Tỳ-kheo và Sa-di. Dù họ đã lấy tay che bát, cô vẫn sớt thêm, bảo rằng thức
ăn này vừa ngon miệng vừa mát lòng. Do quả báo này cô nhận thêm số bò sổng
chuồng.)
Tuy nhiên như
thế bà vợ ông còn nhắc thêm sao ông không cho gia nhân theo để cô sai bảo.
Thật ra ông không quên, chỉ vì ông muốn khi cô lên xe rồi, ông sẽ cho
những người tự nguyện đi theo, chớ không muốn ép buộc họ. Vào ngày trước
khi đưa dâu, ông dạy cô mười điều nên nhớ về nhà chồng:
1) Lửa trong
nhà không nên mang ra ngoài.
2) Lửa bên
ngoài không nên mang vào nhà.
3) Chỉ cho
người nào nên cho.
4) Không cho
người nào không nên cho.
5) Cho cả
người đáng cho và không đáng cho.
6) Ngồi một
cách vui vẻ.
7) Ăn một cách
vui vẻ.
8) Ngủ một
cách vui vẻ.
9) Giữ gìn
lửa.
10) Thờ phụng
thần thánh.
Mười điều này
cũng lọt vào tai cha chồng cô, lúc đó đang ở phòng bên cạnh.
Ðến ngày đưa
dâu, Chưởng khố Dhananjaya tập trung các phường hội thủ công, và giữa đoàn
người của nhà vua ông chỉ định tám gia chủ giám hộ cô dâu, nếu nàng có bị
buộc tội gì xin họ làm sáng tỏ sự việc.
Rồi cô dâu
khoác lên món trang sức trị giá chín mươi triệu đồng, còn nhận thêm năm
trăm bốn mươi triệu để sắm hương phần tắm mình. Rồi chưởng khố đỡ con gái
lên xe hoa. Ông hộ tống cô qua mười bốn làng quanh Sàketa, những làng chư
hầu nộp lễ cống cho ông, cho đến tận Anuràdhapura. Dọc đường, ông cho rao
lớn rằng: "Ai muốn đi theo con ta thì đi." Dân mười bốn ngôi làng đều đi
theo, mang theo hết không còn một thứ gì để lại. Dhananjaya cũng tiễn đưa
một đoạn đường, chào từ giã và phó thác con gái cho Migàra và vua. Migàra
thấy đám người theo hầu quá đông như một đoàn quân, sợ không nuôi nổi liền
ném đất và vung gậy gộc đuổi về bớt, mặc lời phản đối của cô dâu
Tỳ-xá-khư.
Cô vào cổng
thành Xá-vệ, đứng trên xe hoa để dân chúng chiêm ngưỡng món trang sức. Mọi
người tấm tắc khen ngợi vẻ lộng lẫy rực rỡ, nét đài các phong lưu của
nàng. Ngay hôm ấy, dân chúng gởi mừng nhiều quà tặng, nàng tặng lại hết
cho các gia đình trong thành với lời lẽ dịu dàng êm ái, thích hợp với lứa
tuổi và hoàn cảnh từng người,xem họ như là thân quyến của mình. Một lần
giữa đêm, nàng đến thăm con ngựa mới đẻ, có người hầu nam nữ cầm đuốc
theo, để coi sóc cho ngựa mẹ được tắm nước nóng và xức dầu.
Chưởng khố
Migàra, để mừng ngày cưới vợ cho con, đã mời năm trăm ẩn sĩ lõa thể đến
cúng dường, ông hoàn toàn không biết gì về Thế Tôn lúc đó đang ngụ trong
tinh xá gần đây. Cháo ngon hảo hạng được nấu trong những đồ dùng nhà bếp
mới toanh. Ông gọi cô dâu đến chào các ẩn sĩ mà ông gọi là những vị
A-la-hán. Tỳ-xá-khư lúc bấy giờ đã chứng quả Dự lưu và là Thánh đệ tử của
Phật, nghe đến danh hiệu A-la-hán, nàng vô cùng hoan hỷ. Nhưng bước vào
phòng đãi ăn các ẩn sĩ và nhìn họ, nàng bảo họ thiếu tính khiêm cung và
không biết sợ trọng tội, không xứng với danh xưng A-la-hán. Nàng lên tiếng
trách cha chồng và trở về phòng. Trong khi các ẩn sĩ cũng trách Migàra sao
không tìm một nàng dâu khác, mà lại chọn một đệ tử cư sĩ của ông Cồ-đàm.
Nhận cô ta vào nhà chẳng khác nào nhận đồ xúi quảy. Họ còn đòi ông tống
khứ cô ta đi. Ông không bằng lòng, trả lời với họ là "Ðàn bà họ ưng chi
làm nấy, xin các ông bỏ qua cho." Rồi ông tiễn họ ra về, và ngồi xuống
trên một chiếc ghế sang trọng, ăn cháo thượng vị với mật trong dĩa vàng.
Lúc đó có một
Tỳ-kheo vào nhà khất thực. Tỳ-xá-khư đang quạt hầu cha chồng, nghĩ rằng
mình không nên báo cho cha biết có vị Tỳ-kheo khất thực, vội đứng lên một
bên cho ông trông thấy Trưởng lão, nhưng ông quá ngu si có thấy nhưng làm
như không thấy, vẫn cắm cúi ăn. Tỳ-xá-khư bảo Trưởng lão xin cứ đi vì cha
chồng đang ăn cháo thiu. Migaara tuy bất bình các ẩn sĩ, nhưng nghe nàng
dâu nói thế, ông nổi giận bảo dẹp dĩa cháo và ra lệnh đuổi Tỳ-xá-khư ra
khỏi nhà. Vì gia nhân và tỳ nữ đều thuộc về nàng nên không ai dám hé môi.
Riêng cô thì trả lời cha chồng như sau:
- Thưa cha, lý
do đó không đáng để con phải bị đuổi đi. Con không phải là cô gái tầm
thường ngoài đường, ở một chỗ tắm nào đó trên bờ sông, được cha lượm về.
Con gái nhà gia giáo, có cha mẹ đàng hoàng, không thể rời nhà chồng bởi lý
do đó. Ngoài ra cha con có giao con cho tám gia chủ bảo hộ, và khi có lỗi
lầm họ sẽ chịu trách nhiệm làm sáng tỏ vấn đề. Xin cha cho mời tám gia chủ
đến phân xử.
Họ được mời
đến và cuộc đối thoại để xét xử Tỳ-xá-khư bắt đầu giữa họ với cha chồng
của cô.
Migàra bảo:
- Ngày đại lễ
như thế, địa vị của tôi như vầy, mà cô ta lại bảo tôi ăn cháo. Các ông hãy
buộc tội cô ta và đuổi đi khỏi nhà này.
Các gia chủ
hỏi:
- Có phải thế
không, thưa cô?
- Lời tôi nói
không đúng hẳn như thế. Số là có một Tỳ-kheo đi khất thực dừng chân trước
cửa nhà. Cha chồng tôi đang dùng cháo ngon với mật, hoàn toàn không thấy
Trưởng lão. Tôi thiết nghĩ ông không tạo được công đức mới hiện đời mà chỉ
hưởng phước đức cũ của đời trước. Do đó tôi đã nói với Tỳ-kheo là ông đang
ăn đồ cũ. Vậy tôi có lỗi gì?
Tỳ-xá-khư đã
trả lời như trên. Các gia chủ đều đồng ý là nàng nói đúng, rồi họ hỏi lại
Migàra:
- Tại sao ông
lại giận nàng?
Ông đáp:
- Tôi cũng
đồng ý là cô ta không có lỗi trong việc này, nhưng tại sao nửa đêm cô ta
đi ra sau nhà có tớ trai, tớ gái theo sau?
Tỳ-xá-khư giải
thích là vì con ngựa giống đẻ, cô không yên tâm nếu ngồi nhà, nên đã ra
chuồng ngựa xem nó được săn sóc ra sao. Lần này nàng cũng không có lỗi gì.
Cha chồng lại buộc tội là ngày xuất giá cha nàng đã dạy bảo Mười điều có
nhiều ẩn ý, tỷ như điều một là "không cho đem lửa trong nhà ra ngoài", nếu
vậy đối với láng giềng hai bên xin lửa thì sao? Cô cũng giải thích rành rẽ
ý của cha nàng dạy là không nên đem việc trong nhà nói ra bên ngoài. Rồi
cô từ từ giải trình điều hai là "không đem lửa ở ngoài vào trong nhà" có
nghĩa láng giềng nếu nói xấu nhà chồng cũng không nên về nhà học lại. Còn
điều "Chỉ cho người nào nên cho" nghĩa là chỉ cho vay những ai trả lại.
"Không cho người nào không nên cho" nghĩa là không cho vay những ai không
trả. "Cho cả người đáng cho" nghĩa là đối với bà con thân hữu cần giúp đỡ,
dù họ có đền đáp hay không thì vẫn cho. "Ngồi một cách vui vẻ" nghĩa là
khi cha, mẹ chồng hoặc chồng ngồi thì phải đứng dậy, không được ngồi. "Ăn
một cách vui vẻ" tức là người vợ không được ăn khi cha, mẹ chồng hoặc
chồng chưa ăn xong, phải hầu hạ cơm bưng nước rót xong xuôi mới được ăn.
"Ngủ một cách vui vẻ" tức là người vợ không được đi ngủ trước cha, mẹ
chồng hoặc chồng, phải làm hết bổn phận lớn và nhỏ của mình đối với họ rồi
mới được đi ngủ. "Giữ gìn lửa" tức là cung kính đối với lửa sáng hoặc xà
vương. "Thờ phụng thần thánh trong nhà" tức là thờ phụng họ như thần
thánh.
Khi dâu của
mình là Tỳ-xà-khư bộc bạch ý nghĩa Mười điều dạy bảo, Chưởng khố Migàra
chỉ biết ngồi đó cúi đầu, không nói nên lời. Các gia chủ bèn hỏi ông:
- Thưa chưởng
khố, dâu của ông có phạm lỗi gì không?
Ông đáp:
- Thưa các
Ngài, không.
- Tại sao cô
không có lỗi mà ông tìm cách đuổi cô ta ra khỏi nhà?
Tỳ-xá-khư ngắt
lời:
- Thưa các
ông, ban đầu thật không đúng pháp nếu tôi ra khỏi nhà theo lệnh của cha
chồng tôi, bởi vì khi tôi đi xa, cha tôi đã phó thác tôi cho các ông chịu
trách nhiệm xem xét tôi có tội hay vô tội. Nhưng giờ đây các ông đã chứng
minh tôi vô tội, thì thật đúng pháp để tôi ra đi.
Rồi Tỳ-xá-khư
truyền lệnh cho gia nhân, tỳ nữ chuẩn bị xe cộ để lên đường. Chưởng khố
Migàra cầm các gia chủ ở lại và bảo nàng:
- Con dâu yêu
quý, ta đã xử sự một cách ngu si, con hãy tha thứ cho ta.
Nàng đáp:
- Kính thưa
cha, con tha thứ hết sạch cho cha. Nhưng con là con trong một gia đình có
niềm tin kiên cố vào đạo Phật, và chúng con không thể sống mà không có
Tăng đoàn. Nếu con được phép chăm lo cho chúng Tăng theo sở nguyện, con sẽ
ở lại.
- Con yêu quý,
con có thể chăm lo cho chúng Tăng theo ý con muốn.
Tỳ-xá-khư
chuyển lời thỉnh mời đấng Thập lực đến nhà cúng dường vào ngày hôm sau.
Các ẩn sĩ ngoại đạo nghe tin cũng đến và ngồi thành vòng tròn quanh nhà.
Trong lúc nàng dâng nước cho Như Lai, nàng nhắn tin cho cha chồng đến đích
thân phục vụ. Ông cũng muốn đi nhưng bị các ẩn sĩ ngăn cản, nên phải trả
lời rằng cô cứ phục vụ Như Lai. Trong khi nàng dâng thức ăn và đức Phật
cùng Tăng chúng dùng xong, nàng lại nhắn tin lần hai mời cha chồng đến
nghe pháp. Ông thầm nghĩ nếu lần này mà không đi thì thật là không đúng
phép, nhưng các ẩn sĩ vẫn cản trở, và lần này bảo ông nếu muốn đến nghe
Cồ-đàm nói pháp thì phải ngồi ở ngoài màn. Rồi họ đi trước, kéo một tấm
màn chung quanh.
Khi ấy, Thế
Tôn bảo:
- Dù ông có
ngồi bên kia tấm màn, hay bên kia bức tường, hay bên kia quả núi, hay bên
kia cả rặng núi bao quanh hết quả đất, Ta là Phật và Phật âm sẽ đến tai
ông.
Và Thế Tôn
thuyết pháp tuần tự từ thấp lên cao, cất tiếng như mây mưa, như thể rung
chuyển những cây táo hồng cổ thụ, như mưa trời rơi xuống. Dù ai đứng
trước, đứng sau hay ở cách xa tận cả năm Cakkavàlas, ngàn Cakkavàlas, hoặc
tận đỉnh tầng trời cao nhất đều cảm thấy như Ngài chỉ nhìn thấy mình, chỉ
thuyết cho mỗi mình nghe. Chư Phật giống như mặt trăng đối với chúng sanh,
ai cũng thấy ngay trên đầu mình. Ðó là quả báo do sự đại bố thí của Ngài
khi chặt đầu, móc mắt, lóc thịt moi tim. Ngài bố thí cả con trai là Jàli,
con gái là Kanhàjinà, vợ là Maddì làm tôi tớ cho người.
Chưởng khố
Migàra ngồi bên ngoài màn suy tư về lời pháp của Như Lai, và chứng quả Dự
lưu, phát lòng tin kiên cố vào Tam Bảo. Ông nâng màn, tiến tới cô dâu, cúi
đầu trước nàng, nhận nàng làm mẹ, từ đó nàng có tên là Mẹ của Migàra. Sau
này có con nàng đặt tên là Migàra. Khi ấy, trưởng giả phủ phục xuống chân
Thế Tôn, hôn chân Ngài và ba lần đọc lên tên mình, rồi thưa:
- Bạch Thế
Tôn, từ trước đến giờ con chưa hề hiểu phước báo to lớn trong sự cúng
dường Ngài, nhưng giờ đây, nhờ con dâu mới được hiểu và đã thoát hết đau
khổ, phiền não. Khi con dâu con vào nhà con là nó mang hạnh phúc đến, và
đã tế độ con. Rồi ông nói kệ:
Rõ
ràng hôm nay mới thấy
Phước báo vô biên thế ấy
Có
từ nhân biết cúng dường
Quả nàng dâu thảo đã mang
Hạnh phúc cho nhà tôi vậy.
Tỳ-xá-khư lại
thỉnh Thế Tôn đến ngày hôm sau, và mẹ chồng nàng nhờ thế chứng quả Dự lưu.
Từ đó nhà chồng nàng rộng mở theo đạo Phật.
Muốn đền đáp
công lao nàng, cha chồng nàng định tặng nàng một món trang khác nhẹ hơn để
nàng có thể đeo cả ngày cả đêm, trong bốn oai nghi đều thoải mái, vì món
đồ trang sức khổng lồ trước đây quá nặng nề. Hoàn thành xong món nữ trang
trị giá trăm ngàn tiền, ông thỉnh Thế Tôn cùng Tăng chúng đến mở tiệc cúng
dường. Ông bảo nàng phải tắm trong mười sáu chậu nước hoa và khoác món
trang sức mới đến đảnh lễ Thế Tôn. Xong, Phật hồi hướng công đức và trở về
tinh xá.
Từ đó nàng
thường cúng dường, làm nhiều công đức khác và được Tám thánh ân của Phật.
Như mặt trăng lưỡi liềm tròn dần trên trời, nàng cũng lớn dần với mười đứa
con trai, mười đứa con gái, và mỗi đứa lại sanh mười trai mười gái, cứ thế
con, cháu, chắt dòng họ nàng... lên đến tám ngàn bốn trăm hai mươi người.
Nàng thọ được một trăm hai mươi tuổi, không có một sợi tóc bạc trên đầu,
lúc nào cũng trông như mười sáu tuổi. Thấy nàng trên đường đi đến tinh-xá
với bầy con cháu, không thể biết ai là Tỳ-xá-khư. Ai cũng muốn ngắm nhìn
nàng thật lâu khi đi, đứng, nằm, ngồi, vì trong bốn oai nghi dáng dấp nàng
đều trang nghiêm, đẹp đẽ.
Ngoài những
đức tính trên, nàng còn có sức mạnh bằng năm con voi. Vua biết được định
thử nàng. Sau khi nghe pháp xong, trên đường nàng về từ tinh xá vua thả
một con voi rượt bắt nàng. Năm trăm tỳ nữ theo hầu nàng, một số quá khiếp
đảm đã chạy mất, số còn lại ôm quanh nàng. Cô suy nghĩ: Nếu bắt voi lại
một cách mạnh bạo, nó sẽ chết. Do đó nàng dùng hai ngón tay túm lấy vòi
bắt nó trở lui. Voi không thể cự lại sức mạnh của nàng và cũng không thể
đứng vững, té ngã ngửa trên sân hoàng cung. Dân chúng hoan hô nàng, và
nàng về nhà an ổn với đoàn tuỳ tùng.
Tỳ-xá-khư, mẹ
tinh thần của chưởng khố Migàra, cùng đám con cháu chắt chẳng hề đau ốm,
chẳng ai chết yểu. Người ta cho rằng nàng là người mang phúc lành đến. Yến
tiệc lễ lộc gì, dân trong thành Xá-vệ đều vinh hạnh thỉnh mời nàng trước
tiên.
Trong một ngày
lễ, như mọi người, nàng phục sức sang trọng với món đồ trang sức vĩ đại
của cha ruột tặng đến dự tiệc tại một nhà nọ, xong đến tinh-xá nghe pháp.
Dừng lại trước cửa tinh xá, nàng cởi món trang sức khổng lồ đưa nữ tỳ cất
và đeo vào món trang sức nhỏ của cha chồng đến đảnh lễ Thế Tôn nghe pháp.
Cuối bài pháp, nàng đứng dậy chào Phật. Tỳ nữ bỏ quên món trang sức lại,
theo nàng ra ngoài.
Như thường lệ,
Trưởng lão A-nan sau buổi giảng nhìn trước ngó sau xem có vật gì bỏ quên
để cất rồi mới đi khỏi. Thấy món đồ trang sức của Tỳ-xá-khư bỏ quên,
Trưởng lão trình với Phật và nghe theo lời Phật ngài treo nó cạnh cầu
thang. Tỳ-xá-khư với Suppiyà đi vòng tinh xá hỏi thăm xem các Tỳ-kheo có
cần thuốc men hay thứ gì khác. Người cần mật mía, mật ong, kẻ thì cần dầu.
Họ thường cầm bát đến gặp hai tín nữ, và hôm nay cũng thế. Suppiyà thấy
một Tỳ-kheo bị bệnh, đến hỏi thăm và ông cho biết là cần nước xúp thịt.
Ngày hôm sau không tìm ra thịt, Suppiyà cắt thịt đùi của mình dâng cúng.
Do lòng tin Phật, thân nàng liền lành lặn như cũ.
Sau khi chăm
sóc các Tỳ-kheo bệnh, các tân Tỳ-kheo và Sa-di, Tỳ-xá-khư ra về bằng một
cửa khác. Nàng bảo tỳ nữ đưa món trang sức. Tỳ nữ sực nhớ đã để quên bèn
trở lại chỗ cũ tìm. Nàng dặn cô ta nếu Trưởng lão A-nan đã cất thì đừng
lấy lại, cứ xem như đã cúng dường cho Trưởng lão. Nhưng nghĩ rằng ngài
A-nan sẽ không biết làm gì với món đồ ấy, nàng lại bảo tỳ nữ trở lại lấy
mang về để bán lấy tiền cúng dường phải hơn. Món đồ được để lên xe đưa tới
thợ kim hoàn định giá là chín mươi triệu một trăm ngàn tiền, nhưng không
ai mua nổi. (Cả thế giới chỉ có ba người đàn bà mặc món đồ trang sức đắt
giá như thế, là nữ cư sĩ lỗi lạc Tỳ-xá-khư, vợ vua Bandhula xứ Mallas, và
Mallika con gái chưởng khố Ba-la-nại).
Nàng bèn mua
lại món trang sức, chở số tiền to lớn đến tinh xá dâng lên Phật, và thưa
hỏi trong tứ sự cúng dường Phật cần loại gì. Phật bảo cần xây một tăng
đường tại cổng phía đông tinh xá. Nàng mua đất với chín mươi triệu của món
trang sức và bỏ thêm chín mươi triệu để xây nhà.
Một hôm Thế
Tôn quan sát thế gian sáng sớm, thấy chàng Bhaddiya, con của một chưởng
khố ở thành Bhaddiya, đã được tái sinh từ cõi trời, đủ duyên lành nhập
đạo. Ngài dùng điểm tâm tại nhà ông Cấp Cô Ðộc rồi đi về hướng cổng bắc.
Thông thường, sau khi độ ngọ tại nhà Tỳ-xá-khư , Ngài đi về bằng cổng nam
và ngự về Kỳ Viên; khi độ ngọ tại nhà Cấp Cô Ðộc, Ngài đi ra bằng cổng
đông và ngự về Pubbaaraama. Do đó khi dân chúng thấy Thế Tôn đi ra cổng
bắc, biết rằng Ngài sắp du hành.
Nghe tin Thế
Tôn lên đường, Tỳ-xá-khư đến đảnh lễ Ngài và thỉnh cầu ở lại vì nàng cho
xây nhà ở cúng dường Phật và chư Tăng với tổn phí bằng số châu báu kia.
Nhưng Thế Tôn không thể ở lại, và theo lời yêu cầu của nàng, Ngài cho nàng
chọn một Tỳ-kheo ở lại thay mặt theo dõi việc xây cất. Mặc dù nàng rất
kính mến Trưởng lão A-nan, nhưng nàng chọn Tôn già Mục-kiền-liên vì nghĩ
rằng Tôn giả có thần thông sẽ giúp đỡ nhiều trong công việc. Phật truyền
Tôn giả ở lại với năm trăm Tỳ-kheo. Tôn giả có thần thông nên chỉ trong
ngày người ta có thể đem về gỗ và đá cách đó khoảng năm mươi, sáu mươii
dặm, không cần phải nặng hỏng. Chỉ trong thời gian ngắn người ta đã dựng
lên một tăng đường hai tầng, với năm trăm phòng trên lầu. Thế Tôn du
thuyết mất chín tháng, và khi trở về Xá-vệ, công trình của Tỳ-xá-khư đã
hoàn tất kể cả chiếc tháp bằng vàng ròng để chứa sáu mươi chậu nước. Nghe
tin Thế Tôn trên đường về Kỳ Viên, nàng đến gặp Ngài và thỉnh mời đến thăm
tăng đường mới xây. Sau đó, nàng thưa:
- Bạch Thế
Tôn, xin người đưa chư Tăng đến đây an cư trong bốn tháng tới. Con sẽ cho
hoàn tất xong xuôi khu nhà ở của chư Tăng.
Thế Tôn hoàn
hỷ chấp nhận. Từ đó, Ngài cùng Tăng chúng được nàng cúng dường tại đó.
Một người bạn
của Tỳ-xá-khư muốn cúng dường một tấm vải trị giá một trăm ngàn tiền làm
thảm lót cho tăng đường. Nàng chỉ cho cô ta thấy cả hai tầng nhà gồm một
ngàn phòng đều trải thảm hết, không có tấm nào xấu kém hơn tấm của cô ta.
Buồn bã vì thấy mình không được công đức gì trong tăng đường, cô đi ra,
dừng lại một nơi, òa khóc.
Trưởng lão
A-nan thấy thế hỏi thăm, và chỉ cho cô chỗ thích hợp nhất để trải thảm là
chân cầu thang, nơi các Tỳ-kheo rửa chân xong sẽ chùi lên đó trước khi
bước vào tinh xá. Cô sẽ được nhiều phước đức. Hình như Tỳ-xá-khư đã bỏ qua
chỗ này.
Ngày cuối, say
bốn tháng cúng dường Tăng đoàn, Tỳ-xá-khư cúng vải may y đến Tăng đoàn.
Mỗi sa-di nhận vải y trị giá một ngàn tiền mỗi cái. Cuối cùng cô cúng
thuốc men cho chư Tăng, sớt đầy bát cho mỗi vị. Nếu tính thêm chín mươi
triệu mua đất và chín mươi triệu xây cất tăng đường, cộng chung là hai
trăm bảy mươi triệu. Không một phụ nữ nào trên thế gian đã cúng dường
nhiều như thế, nhất là đối với một người đang sống trong một gia đình
ngoại đạo.
Ngày lễ khánh
thành tinh xá, khi bóng chiều ngả dài, Tỳ-xá-khư đi vòng quanh tòa nhà
cùng với con, cháu và chắt. Thấy ước nguyện thời xa xưa nay đã thành tựu,
nàng cất cao tiếng thanh cao ngâm năm câu kệ:
Khi nào ta dâng cúng
Ngôi nhà ở tiện nghi
Trét tô hồ, vữa thì
Ấy
là lúc viên mãn
Lời ta thệ nguyện xưa
Khi nào ta dâng cúng
Mọi thiết bị, tiện nghi
Ghế, giường, thảm và gối
Lúc đó lòng ta mới
Vui vì thỏa nguyện xưa
Khi nào ta dâng cúng
Vật thực theo phiếu phân
Nêm nếm ngon bội phần
Bằng xúp thịt tinh khiết
Ấy
là lúc ta biết
Ðã
toại lời nguyện dâng
Khi nào ta dâng cúng
Vải y Ba-la-nại
Vải mịn, vải sợi bông
Ước nguyện hằng bao kiếp
Khi nào ta dâng cúng
Ðồ
bổ dưỡng, thuốc men
Bơ
lỏng, bơ đặc, mật
Dầu ăn cùng đường thô
Thế là ta hoàn tất
Viên mãn lời nguyện xưa.
Các Tỳ-kheo
nghe được cho rằng hoặc mật nàng rối loạn, hoặc loạn trí, nên thưa với
Phật. Thế Tôn đáp:
- Này các
Tỳ-kheo! Ðệ tử Ta không phải đang hát. Vì ước nguyện được thành tựu, lòng
nàng vui mừng mới cất tiếng như thế để long trọng nói lời thệ nguyện.
Các Tỳ-kheo
hỏi tiếp:
- Nàng đã ước
nguyện lúc nào, thưa Thế Tôn?
Và Thế Tôn kể:
Chuyện quá
khứ
A. Lời
Nguyện Của Tỳ-Xá-Khư
Các Tỳ-kheo,
cách đây một trăm ngàn kiếp quá khứ, Phật Padumuttara xuất hiện ở thế
gian, thọ mạng của Ngài là một trăm ngàn năm, có một trăm ngàn A-la-hán đệ
tử. Thành của Phật là Hamsavatì, cha là Sunanda, mẹ là Sujàtà Devì. Ðệ tử
nữ cư sĩ là đại thí chủ. Nữ cư sĩ đó được Tám thánh ân từ Ngài, và như một
người mẹ, lo cho Phật tứ sự cúng dường, phục vụ từ sáng đến chiều. Nữ cư
sĩ được chuyện trò thân mật với Phật và được Phật quý trọng, một hôm đánh
bạo hỏi Thế Tôn:
- Bạch Thế
Tôn, cô bạn tôi đối với Ngài là gì?
Phật đáp:
- Là đại thí
chủ của Ta.
- Bằng cách
nào cô ta được như vậy?
- Do lời
nguyện trước đây trăm ngàn kiếp.
- Bạch Thế
Tôn, một người có thể được địa vị ấy không, nếu phát nguyện bây giờ?
- Có thể được.
- Vậy thì,
bạch Thế Tôn, xin nhận cho con cúng dường Ngài với trăm ngàn Tỳ-kheo trong
bảy ngày.
Phật chấp
thuận.
Ðến ngày cuối
tuần cúng dường, cô ta đỡ lấy y bát của Thế Tôn, đảnh lễ và quỳ dưới chân
Ngài phát nguyện:
- Bạch Thế
Tôn, con không tìm cầu cho mình một vương quyền nào ở cõi trời, mà chỉ xin
được Tám thánh ân của Phật, xin được như một người mẹ hơn giờ hết lo tứ sự
cúng dường cho Ngài.
Thế Tôn muốn
biết xem hạnh nguyện của cô ta có được viên mãn hay không, nên dùng Thiên
nhãn nhìn về tương lai suốt một trăm ngàn kiếp và bảo:
- Một trăm
ngàn kiếp sau, một đức Phật tên Cồ-đàm sẽ xuất hiện ở thế gian. Lúc đó
ngươi là đệ tử nữ cư sĩ tên Tỳ-xá-khư, sẽ được Tám thánh ân từ Phật, sẽ
được như một người mẹ đối với Phật, và sẽ là cư sĩ nữ xuất sắc nhất trong
việc lo tứ sự cúng dường cho Ngài.
Như thế là
chắc chắn trong tương lai, cô ta sẽ đạt được những điều này. Cô ta đã làm
việc phước thiện trong suốt quãng đời còn lại của kiếp ấy và tái sinh trên
cõi trời. Sau khi qua lại cõi trời và cõi người, nàng tái sanh trong thời
Phật Ca-diếp, là con gái út của vua Kiki xứ Kàsi. Cô lập gia đình, sống
bên nhà chồng, suốt thời gian rất lâu cúng dường và làm nhiều việc công
đức khác cùng với các chị.
Một hôm cô ta
quỳ dưới chân Phật Ca-diếp và phát lời nguyền giống như trước đây. Rồi cô
ta cũng luân hồi từ cõi trời qua cõi người, và trong kiếp này tái sanh làm
con chưởng khố Dhananjaya, cháu nội của chưởng khố Ram. Và trong kiếp này,
cô đã tạo được nhiều đức qua các thiện sự cho giáo đoàn của Ta.
(Hết Chuyện
Quá Khứ)
Và Thế Tôn
giảng pháp cho các Tỳ-kheo:
- Này các
Tỳ-kheo, giống như từ một đống hoa đủ loại, người khéo léo sẽ kết nhiều
kiểu vòng hoa, cũng như thế, tâm Tỳ-xá-khư hướng đến làm các việc công đức
bằng nhiều cách.
Và Ngài nói
Pháp Cú:
(53) Như từ một đống hoa
Nhiều tràng hoa được làm
Cũng vậy, thân sanh tử,
Làm được nhiều thiện sự. |