NGUYỆN XƯA C̉N ĐÓ H.T
THÍCH NHẬT QUANG |
||
|
||
CĂN CỨ TỪ CÔNG PHU TU HÀNH Buổi sinh hoạt hôm nay, chúng
tôi sẽ nói về đề tài căn cứ vào công phu tu
hành mà biết được nguồn an vui giải thoát
hay khổ đau triền phược của mỗi chúng
ta. Việc tu hành nói nghe b́nh thường,
nhưng khi áp dụng vào đời sống, có người
tu tiến bộ, được lợi lạc an vui nên
phát tâm dũng mănh hơn. Tuy nhiên cũng không ít Phật tử
gặp trở ngại khó khăn chưa khắc phục
được, từ đó không tiến nên không có niềm
vui trong đạo. V́ thế quí vị chùng bước, dần
dần thoái tâm. Một khi ḿnh đă thoái tâm rồi, khó gầy
dựng trở lại lắm. Thành ra bước đầu,
chúng ta xét nét thật kỹ, xem vấn đề nào c̣n
vướng mắc ḿnh khắc phục, phải trị
nó th́ việc tu mới tiến. Trên đường tu nhất
định không đầu hàng, không bỏ cuộc. Với
quyết tâm như vậy dù gặp khó khăn ǵ, hoàn cảnh
thế nào ḿnh cũng tiến thôi. Thật ra những trở ngại
trên đường tu hành là phương tiện cần
thiết giúp chúng ta trên bước tiến tu. Nhưng nếu
ḿnh thiếu tỉnh, không khắc phục được
th́ đó là lỗi lầm. Nói về lỗi, trước
nhất người tu phải trị được bệnh
lăng xăng. Người ta hay quở “Sao thầy tu mà
lăng xăng quá!”. Lăng xăng là ǵ? Chẳng là ǵ hết,
v́ nó vốn hư vọng không thật. Nếu tỉnh một
chút th́ hết lăng xăng. Không cần một pháp nào
để trị nó, với điều kiện chúng ta phải
tỉnh. Tỉnh biết thấy rơ nó là lăng xăng th́
yên, hết lăng xăng. Nhưng đa số chúng ta
không tỉnh, thành ra cứ bị lăng xăng cuốn dẫn,
mất ḿnh hồi nào không hay. Khi đă tỉnh chúng ta sắp xếp
mọi việc thật sáng suốt, hợp lư, không mất
th́ giờ vô ích. Những công việc quan trọng cần
thiết, ta giải quyết trước, dứt khoát, rơ
ràng. Ngoài ra tất cả việc khác, thuộc phạm vi
tu hành th́ cứ chiếu theo chủ trương đường
lói có sẵn của thiền viện. Song việc chính vẫn
là tập trung tu hành. Do đó ḿnh đủ sáng suốt
để cắt bớt những việc tạp. Có vậy
mới buông, mới tu được. Ḥa thượng dạy
tổng quát là phải buông. Bây giờ chúng ta buông như thế
nào? Không thể không đi nấu cơm ăn, không thể
không quét dọn vệ sinh, không thể bỏ những việc
liên hệ đến đời sống thường nhật,
mà buông là buông vọng tưởng, buông những niệm tạp.
Làm việc ǵ để tâm nơi việc ấy. Nghĩ đến sự tu tập,
chúng ta không nên để mất th́ giờ bởi những
việc không đâu. Phải tiếc từng chút thời
gian quư báu, đó là biết thương ḿnh, biết nghĩ
đến chuyện của ḿnh. Dù cho người bận
rộn, tiếp cận nhiều công việc, nhưng khéo
léo sắp đặt nhất định sẽ có th́ giờ
tu tập. Thành ra người tu phải chấp nhận
người ta không hoàn toàn đồng ư ḿnh. Quí vị nào
muốn chuyên tu mà thích sung sướng, ham thích được
nhiều người quư trọng th́ phải sửa. Phải
cắt, phải mạnh, phải dứt khoát, nghiêm chỉnh
đối với chính ḿnh. Ví dụ Phật tử gặp bạn
bè rủ nhau đi chơi. Cuộc du ngoạn rất thú vị,
huynh đệ hài ḷng cảm thông với nhau. V́ thế quí
vị lại hẹn tiếp tục có những chuyến
đi như thế nữa. Nhưng với người
tu như vậy là không được. Ta phải nh́n lại.
Nếu bạn có mời việc ǵ hoặc yêu cầu ta
làm việc ǵ, ḿnh xét xem việc ấy cần thiết
không, vắng mặt ta có hại cho bạn không. Nếu thấy
không cần thiết, vắng ḿnh cũng không sao th́ ta từ
chối, không nên lao theo cả ngày cả buổi, mất
th́ giờ, ảnh hưởng đến công phu tu tập
của ḿnh. Gan dạ, dứt khoát và sáng suốt là những
đức tính phải có của người tu Phật. Tôi c̣n nhớ lại lời của
các vị tôn túc dạy, nhất là Ḥa thượng Viện
trưởng dạy: “Dù ông có thông minh, có nhận ra pháp yếu,
có tài ba cỡ nào mà không tránh duyên th́ tu không tiến”. Tránh
duyên là sao? Là khéo biết sắp đặt. Việc ấy
cần bao nhiêu năng lượng ḿnh xài bao nhiêu đó
thôi, đừng có xài hết ga, hết pin đi. Hết
pin cái này th́ mấy cái khác sắp xếp không được.
Do đó tránh duyên là giảm bớt những việc, những
tiếp xúc không cần thiết, có ảnh hưởng bất
lợi cho việc tu hành. Trong kinh A-hàm, đức Phật
trả lời cho các vị Bà-la-môn khi được hỏi
về nội t́nh tu học của các thầy Tỳ-kheo.
Các vị đó hỏi thế này: “Những người học
đạo với Cồ-đàm đều được
Niết-bàn, hay có người được có người
không?”. Phật trả lời: “Có người được,
có người không”. Nếu ai nghe lời Phật dạy
và áp dụng tu tập đúng như thế th́ được
Niết-bàn, c̣n những người không chịu tu tập
đúng lời Phật dạy làm sao thành tựu đạo
quả được. Từ lời dạy đó, ta tự
sắp đặt việc tu học cho ḿnh. Thời nay cách Phật xa xôi, các
vị thiện hữu tri thức cũng hiếm cho nên
chúng ta phải cố gắng nhận được
đạo lư, sắp đặt việc tu tập cho tốt,
mai ra có được kết quả tương xứng
như chỗ mong mỏi của ḿnh. Chứ c̣n nhận ra
yếu chỉ mà không tu tập, không hành pháp th́ làm sao ngộ
đạo. Khi tu quí vị đừng sợ mích ḷng, bởi
một khi bạn hữu hiểu ḿnh ham tu, biết tu, lo
tu th́ sẽ thông cảm, do đó dễ tha thứ những
sơ suất hay sự lănh đạm của ḿnh. Chúng ta
tránh họ, làm mất đi sự sắp đặt của
họ mà lo tập trung vào việc tỉnh tu, học Phật
pháp chân chính th́ họ sẽ không trách. Đó là điểm
thứ nhất. Điểm thứ hai, Ḥa thượng
dạy “Không ai mà không có lỗi lầm.” Cuộc đới
là tương đối, thế nên không có người
nào hoàn bị tuyệt vời cả. Vị thánh nào, vị
Bồ-tát nào cũng phải trải qua một thời
gian dọc dài kiếp số vô lượng để gột
rửa, bỏ đi những cái dỡ khuyết của
ḿnh, chứ có ai sinh ra hoàn bị liền đâu. Chúng ta cũng
vậy. Ngồi nghiệm lại, ḿnh thấy từ những
tâm niệm nhỏ cho tới tâm niệm lớn, nó h́nh
thành những gốc cạnh, rằn ri, lỉnh kỉnh
nhiều hơn những cái b́nh thường, suông sẽ,
an nhiên, nghĩa là cái xấu nhiều hơn cái tốt. Người biết tu hễ thấy
cái ǵ không hay th́ bỏ đi, cái ǵ cần sửa th́ sửa,
đừng đợi ai biểu. Ví dụ như huynh
đệ chúng tôi sống trong một tập thể hàng
trăm thầy, Ḥa thượng lại ở trên núi cách
xa hàng ba bốn trăm cây số. Một tháng Thầy về
một lần năm ba ngày, nhắc nhở chỉ dạy
việc này việc kia, cho nên làm sao Thầy thấy hết
được những nội t́nh, gốc cạnh, anh
này ngó anh kia v.v… đủ thứ chuyện. Không thấy
th́ làm sao Thầy hóa giải hướng dẫn được.
Cho nên chỉ có tự ḿnh thấy ḿnh thôi. Làm sao những
cái dở khuyết, những tỳ vết, ḿnh tự thấy
tự bỏ, tự khắc phục. Huynh đệ chúng
tôi đă tập sống bằng tinh thần tự giác,
tinh thần tu tập như thế. Tu là sửa. Ḥa thượng dạy
chú nào nói năng thô lỗ, cứng cỏi, mỗi khi
được huynh đệ góp ư mà nổi nóng lên th́ phải
sửa. Sửa được cái đó là tu. Chú nào lơ
đễnh không quyết tâm tu hay c̣n mộng mơ việc
này việc nọ, biết đó là dở th́ sửa. Bây giờ
sửa chưa được th́ rán sửa cho được.
Đó là bệnh, là những bức xúc làm cho ḿnh trăn trở.
Nó ở trong chúng ta, không phải của ai. Đă là của
ḿnh th́ ta biết nó hơn ai hết. Người bên ngoài
biết khi nào nó hiện h́nh ra, chứ c̣n giấu kín th́
làm sao biết được. Tu sửa được những
khuyết điểm th́ sẽ có niềm vui, có sự phấn
khởi trong công phu nhiều hơn. Mỗi lần Ḥa
thượng về thăm, nghe thầy nào sửa hay sám hối
được bệnh của ḿnh, Ngài rất hoan hỷ.
Nếu chúng ta không tỉnh th́
không thể nào sáng được. Nhờ tỉnh nên ḿnh
làm chủ được tất cả dấy niệm,
những lăng xăng trong ḷng. Quan trọng là đừng
bao giờ để ḿnh bị lệ thuộc những hiện
tượng, những sự việc bên ngoài. Được
như thế th́ tuệ giác sẽ hiện bày, không cần
phải t́m kiếm ở đâu cả. Cho nên yếu chỉ
của người tu thiền là tỉnh sáng. Chúng ta
chưa thành Phật thành Tổ, chưa thể nói rằng
ḿnh thấu triệt tất cả yếu nghĩa giáo
pháp, nhưng ít ra trong hiện tại ḿnh cũng tỉnh.
Biết rơ từng bước đi của ḿnh là từng
bước đi tỉnh thức, từng bước
đi chủ động, không bị lôi kéo bởi các cảnh
duyên. Người sống không bị
lệ thuộc ngoại cảnh sẽ thấy thích thú, nhẹ
nhàng vô kể. Nó như là gánh nặng ḿnh đă mang gánh từ
lâu, bỗng dưng nay được quăng xuống, khỏe
làm sao! Người xưa nói: “Kẻ đi lên dốc
ngược, muốn cho gánh nhẹ th́ phải thảy hết
đồ trong đó ra”. Thảy hết ra chứ không chỉ
thảy bớt. Gánh nặng muốn cho nhẹ, ḿnh thảy
những món đồ thường ra, c̣n ngọc ngà châu
báu không chịu thảy th́ vẫn nặng thôi. Do đó phải
thảy ra hết. Bởi v́ bây giờ không thảy hết,
mai mốt ḿnh cũng bất lực, không dùng được.
Tôi có một người huynh
đệ, lúc ở đây vị ấy rất gần gũi,
rất cảm thông với tôi. Khi bị bệnh, người
nhà đem về lo liệu thuốc men. Thời gian sau tôi
đến thăm thấy vị đó tỉnh bơ. Tôi
ngạc nhiên không hiểu sao kỳ vậy. Người
nhà lay nói: “Có Thầy trụ tŕ đến thăm nè!”. Ông
ngó tôi tỉnh bơ. Quư vị biết sao không? Quên hết
rồi. Quên đến mức độ người
đó trước kia rất thân, rất gần gũi với
ḿnh, từng ngồi giảng cho ḿnh những câu kinh, những
chữ Hán, từng chia sớt thức ăn để
huynh đệ cùng dùng cho vui, bây giờ quên hết. Người
nhà nhắc bao nhiêu cũng không thể nhớ ra. Huynh đệ chúng ta đă có
người như vậy, tới phiên ḿnh một lúc nào
đó cũng có thể như vậy. Điều đó
không ai đoán trước được. Thân này, tất
cả cảnh duyên, những ǵ ta đang sở hữu
đây, có những thứ nằm trong tầm tay nhưng
có những thứ vuột ra ngoài tầm tay của ḿnh,
lúc nào đó ta hoàn toàn bất lực, không c̣n đủ thẩm
quyền với nó nữa, tất cả sẽ phải buông
xuống thôi. Như ḿnh đang nói như thế này mà gục
xuống một cái là rồi. Quả thật thế gian
vô thường, mạng sống mong manh giả tạm,
không có ǵ trường cửu cả. Nên điều thứ
hai chúng ta cần lưu ư là tinh thần tu sửa những
ǵ không hay của ḿnh. Phải biết buông bỏ đi. Điểm thứ ba, người
đă quyết tâm tu tập th́ phải phát huy nuôi dưỡng
ư chí của ḿnh, đưng bao giờ để lui sụt.
Ư chí phải mănh liệt, không để một phút giây nào
bị lui sụt, hay v́ một lư do ǵ cản trở, không
vươn lên được. Quư vị có ngồi yên lắng
sẽ thấy khi tâm càng lặng lẽ, th́ trí tuệ càng
sáng và ư chí càng mạnh mẽ, càng tinh nhuệ phi thường.
Nếu không tinh nhuệ phi thường th́ không khi nào ta
làm chủ được các dấy niệm. Nếu dễ
duôi, không phấn chấn vươn lên, chúng ta sẽ bị
vọng tưởng kéo lôi. Như huynh đệ có thân
nhân ở xa, mà vọng tưởng nối vào th́ không c̣n
xa nữa. Vừa ngồi yên, hai mắt lim dim, môi khít,
lưỡi để đúng chỗ, thoải mái, thân thể
an nhiên, một niệm không biết lớn nhỏ cỡ
nào, nó xen vô dẫn đi ḿnh liền chấp nhận lao
theo. Thế là suốt thời gian đó, quí vị sống
bằng những niệm tưởng lăng xăng, chung
quanh người thân của ḿnh, nhưng thật ra cách
nhau hằng mấy chục ngàn cây số. Đó là sức
mạnh của vọng tưởng. Một khi ta bị
nó kéo lôi th́ ḿnh đi xa như vậy. Ghê gớm lắm.
V́ thế nếu kém ư chí chúng ta sẽ thua cuộc dài dài. Ta cứ để cho nó dẫn
đi b́nh thường, để nó khống chế, nó
làm chủ ḿnh th́ làm sao phát huy được sự định
tỉnh. Không định tỉnh làm sao tu thiền
được. Bước đầu của pháp tu thiền
là phải định tỉnh, khoan nói kiến tánh, sống
được với ông chủ. Vọng tưởng
đôi khi rất êm dịu, nó đến thầm lặng
không có kêu cửa. Cho tới ḿnh ngủ nó lay dậy hồi
nào không hay, dẫn đi chừng một hai tiếng, chợt
giật ḿnh ủa, năy giờ ḿnh mất ngủ. Chứ
chi nó kêu cửa hầm hét ḿnh c̣n kịp đối phó,
đàng này rất nhẹ nhàng thân thương, yên lắng
làm sao. Cho nên người tu phải có ư chí, tỉnh giác cao
độ mới phát hiện sớm mà điều phục,
chiến thắng vọng tưởng. Người tu giỏi là bén nhạy
phát hiện những dấy niệm. Ví dụ tôi đang
ngồi yên như thế này, một niệm nghĩ về
nhà khách dấy lên, th́ phải bén nhạy phải phát hiện
và cắt liền. Nhạy bén, mạnh mẽ, dứt khoát
như vậy mới có thể cắt đứt
được những thứ đó. Cây kiếm dùng
để cắt vọng tưởng, nhà thiền gọi
là kiếm trí tuệ. Người cắt được
những thứ đó gọi là anh hùng bậc nhất, v́
đă tự chiến thắng ḿnh. Công phu tu hành tạo nên đạo
lực cho chúng ta, đây là cái rất quan trọng. Đạo
lực mạnh th́ mới thắng được nghiệp
lực. Ngược lại công phu tu hành yếu kém, không
có đạo lực th́ sẽ bị nghiệp lực kéo
lôi. Ngay trong thời Phật đă xảy ra sự việc
thế này. Ông Cấp-cô-độc là một cư sĩ
đă chứng quả Dự lưu, tức dự vào ḍng
Thánh. Sau đó cuộc đời, sản nghiệp của
ông đều tập trung vào việc trang nghiêm giáo hội,
cúng dường Tam bảo, ngoài ra không làm việc ǵ khác.
Cho nên mỗi ngày tại tư gia của ông có hàng ngh́n
chư tăng Tỳ-kheo đến thụ trai. Việc sắp
đặt cúng kiến này rất nặng nhọc. Ông bận
nhiều việc nên sắp đặt người trong
gia đ́nh thay ḿnh tiếp đăi chư tăng cho chu toàn. Trong số những người
ông chọn, đầu tiên là cô con gái lớn. Cô này làm việc
thành tâm, quư kính Tam bảo, ông rất hài ḷng. Tuy nhiên sau
đó cô có gia đ́nh, thế là Cấp-cô-độc mất
đi một người đảm đương công
việc này. Người thứ hai ông chọn là cô con gái kế.
Người này cũng rất nhiệt t́nh, làm tṛn tất
cả công việc Phật sự cha giao phó trong niềm
hoan hỷ. Nhưng thời gian sau cô lại cũng có gia
đ́nh. Ông Cấp-cô-độc mất đi hai người
cộng sự đắc lực. Tới người thứ
ba là cô con gái út. Cô này cừ khôi lắm, rất hiền và
có nhận định đối với chánh pháp thật
sâu sắc. Cấp-cô-độc rất ngạc nhiên, không
ngờ con gái út của ḿnh lại như thế, tuy tuổi
c̣n nhỏ. Cô làm việc bằng tâm thành khẩn và từ
chủng tử lành ấy, cô chứng quả Dự
lưu, rồi vượt hơn cả quả Dự
lưu. Phụng sự chư tăng vất vả
nhưng cô rất an lạc. Một hôm gặp Cấp-cô-độc,
cô bỗng kêu là em nhỏ thay v́ kêu bằng ba. Cấp-cô-độc
ngạc nhiên hỏi: - Chuyện ǵ xảy ra cho con gái
cưng? Cô bảo: - Em nhỏ hỏi ǵ? Nghe cô nói thế, ông bảo: - Con nói chuyện thật là lộn
xộn. Cô nói: - Này em nhỏ, tôi không nói lộn
xộn đâu. Thấy con gái bất b́nh thường,
Cấp-cô-độc bức xúc đem sự việc này
tŕnh lên đức Thế Tôn. Phật bảo: “Này Trưởng
giả Cấp-cô-độc! Con gái cưng của ông không
có mất b́nh thường đâu. Cô ấy nói như thế
là đúng đấy. Này Cấp-cô-độc! Quả chứng
của ông mới là Dự lưu, c̣n cô con gái đă chứng
đến quả vị cao hơn ông. Ở đây cô muốn
nói căn cứ từ chỗ tâm chứng mà phân định
địa vị cao thấp trong pháp của Thế Tôn, chứ
không phải y cứ trên h́nh thức bên ngoài thế gian. V́
vậy cô đă nói thế”. Trong đạo không chú trọng
tuổi tác thế gian. Như trước mắt chúng tôi,
các vị người lớn tuổi, người nhỏ
tuổi, người đi chùa lâu, người mới học
pháp v.v… Nhưng ở đây, căn cứ vào pháp vị
pháp lạc, vào công phu tu hành mà chúng ta có sự quư trọng
lẫn nhau. Căn cứ như vậy để làm ǵ?
Để mỗi chúng ta nỗ lực khắc tỉnh,
nuôi dưỡng ư chí mạnh mẽ hơn, vững niềm
tin đối với sự tu tập. Dù quí vị đi
chùa lâu, học pháp nhiều mà cứ buông trôi, không chịu
công phu, không có tỉnh lực th́ quí vị vẫn là “em nhỏ”,
như cô con gái út gọi bố ḿnh vậy. Người
đi chùa lâu mà đối duyên xúc cảnh phiền năo, th́
vẫn thua người mới đi chùa nhưng đối
duyên xúc cảnh họ b́nh thường, không phiền năo.
Thành ra ở đây nhắm vào chỗ an lạc mà đặt
định giá trị của mỗi hành giả. Bây giờ nói đến những
cù cặn nhất trong việc tu hành. Đây là điều
nói ra ai cũng sẵn sàng, nó cả dề chớ không phải
ít. Đó là ǵ? Là năm thứ ác kiến. Tại sao gọi
ác kiến? V́ chúng là những cố chấp thành ra ác tính.
Nếu chúng ta không điểm trán nó được, không
làm chủ, không ổn định nó th́ chúng thao túng, dẫn
ḿnh đi. Đă thế, chẳng những ḿnh tu hành không lợi
lạc, không hưởng chút pháp vị nào mà c̣n thoái tâm, bất
măn, rồi không quư kính đạo pháp nữa. Năm thứ
ác kiến ấy là: 1. Thân kiến: Thân kiến là những kiến
chấp sai lầm về thân. Như Phật nói thân này
không thiệt mà ḿnh chưa tin. Bởi vậy nên gọi là
ác kiến, tức là thấy hiểu không đúng với
chánh pháp, không đúng lời dạy của Phật. Không
đúng mà nuôi giữ hoài, làm sao tu thành Phật, làm sao hết
khổ được vui, nên rất nguy hiểm. 2. Biên kiến: Biên kiến là những kiến
chấp sai lầm nghiêng về một bên. Như nói thân
này chết rồi hết, hoặc chết rồi c̣n linh
hồn sống măi... Những cái chấp như thế làm
ḿnh hiểu lệch lư đạo, không tu được.
Chữ “Biên” là một bên, không phải chính, không ở trục
giữa. Loại ác kiến này cũng làm trở ngại
việc tu hành của chúng ta. 3. Tà kiến: Tà kiến là kiến chấp tà vại.
Tà th́ không phải chánh. Tà kiến ở đây nói thứ
nhất là đối với nhân quả, không tin nhân quả
hoặc phủ nhận nhân quả. Là đệ tử Phật,
tu theo pháp Phật mà phủ nhận nhân quả th́ gia nhập
nhà ma, chẳng bao lâu ḿnh là ma thôi. Như có người rủ
chị lại đây, tôi ban phép tu ba tháng thành Phật. Nghe
thế quí vị khoái nên theo liền. Tu theo thầy mấy
năm mà chưa thấy ǵ hết, bây giờ người
ta nói tu ba tháng thành Phật, ham quá. Hoặc dưới gốc
đá, họ đốt ba bốn lư nhang, quư vị
đi núi Ông Cấm sẽ thấy, đốt muốn cháy
luôn cục đá. Họ kêu lại nói quá khứ chị là
ǵ ǵ đó, rồi tương lai sẽ thế này thế
nọ, ḿnh nghe tin hết trơn. Hồi trên núi xuống
không có mấy thứ đó, đi nghe khỏe re. Bây giờ
gặp bà này bả nói nghe ậm ừ trong bụng, đi
muốn hết nổi. Người như thế là tà kiến,
chưa nắm vững lư nhân quả. Phật nói với chúng ta Ngài phải
tu ba vô số kiếp, mỗi vô số kiếp tính không biết
bao nhiêu thời gian. Như vậy có nghĩa là Phật
đă tu, đă chịu cực chịu khổ một thời
gian dài vô cùng vô tận, chứ đâu phải hai ba tháng ǵ.
Một điều này thôi có khi huynh đệ cũng dễ
duôi lầm nhận theo tà kiến. Bởi v́ tu riết rồi
mệt. Tụng kinh, ăn chay, đi chùa, học pháp, ngồi
thiền, sám hối… đủ thứ mà không thành Phật.
Gặp việc bất như ư cũng nổi nóng. Bây giờ
nghe ai nói dễ dễ là ḿnh chịu, tin theo tức th́, v́
vậy nên lạc vào tà kiến.
4. Kiến thủ: Đây là những chấp chặt
về kiến giải sai lầm của ḿnh. Nghĩa là
chúng ta có những kiến giải sai lầm ǵ đó, rồi
chấp chặt như thế, không chịu bỏ đi,
nên không tu tiến được. Vướng vào những
cố chấp này, không buông nổi cuối cùng bị loay
hoay lẩn quẩn trong đó không ra được.
Người tu kẹt trong kiến thủ rất khó xây dựng,
sửa đổi, chuyển hóa. V́ vậy việc tu của
họ không tiến được. Bệnh này cần phải
dùng ánh sáng trí tuệ phá tan. Nếu giữ măi sẽ không
có cơ hội gặp Phật pháp và giác ngộ đâu. 5. Giới cấm thủ: Đây
là kiến chấp do thọ nhận những giới
điều tà vạy, vô lư của ngoại đạo. Ví
dụ như chấp khổ hạnh, nhận định
sai lầm trong pháp tu, rồi chết cứng trong đó
nên rơi vào đường tà, không trở về với
chánh đạo được. Loại giới cấm thủ
này rất nguy hiểm cho người tu. Như Ḥa thượng
thường dạy “Ăn chay cũng tu mà ăn mặn cũng
tu, không nhất thiết người ăn chay tu
được, người ăn mặn tu không
được”. Rơ ràng đâu có ǵ cố định, chấp
chặt, chết cứng trong pháp tu. Phật tử mới
tập tu chưa ăn chay được th́ cứ ăn
mặn b́nh thường. Mai mốt tập ăn chay
được th́ ăn chay. Đâu có ǵ cố định.
Nhưng nhiều người tự ấn định phải
như thế, đâm ra có thiên lệch ác kiến nên việc
tu không tiến. Đó là năm điều ác kiến.
Những ác kiến này nếu không định tỉnh nhận
ra, ḿnh làm sao ta khắc phục được. Từ
đó ḿnh bị nó khung lại, dẫn dắt, nó chủ
động sinh hoạt tu tập hằng ngày của chúng
ta. V́ vậy công phu càng gắng gỗ bao nhiêu càng phiền
năo bấy nhiêu. Hồi đó tôi có một người
huynh đệ bao tử yếu, ăn cơm chiều xong
tới giờ tụng kinh th́ thầy đi tụng kinh.
Thầy rất siêng tu. Mỗi thời kinh là hai tiếng
đồng hồ. Bắt đầu tụng khoảng
tám giờ, tụng xong là trên mười giờ. Trải
qua một thời gian như thế, bao tử śnh lên, cái
bụng bự ra. Mấy thầy thuốc coi nói thầy bị
bao tử hành, do vừa ăn xong tụng kinh nhiều quá.
Bây giờ đề nghị thầy bớt giờ tụng
kinh sau bữa cơm chiều th́ tôi mới trị bệnh
cho thầy. Thầy nói: “Không! Bệnh th́ cứ bệnh mà
tu th́ cứ tu”. Thầy cương quyết như vậy.
Thời gian sau thầy bệnh nhiều, không ăn
được mà cũng không c̣n tụng kinh nổi nữa.
Cho nên người khéo tu phải
biết sống trung đạo, dung ḥa, những ǵ không
thích hợp th́ giản dị bớt. Chúng ta phải b́nh tĩnh,
sáng suốt, không nên chấp chặt vào các loại ác kiến
như trên. Nói đến tu hành th́ phải có tiến hoặc
không tiến. Ở đây chúng ta phải biết cách khắc
phục để được tiến. Bởi v́ thời
gian, tuổi tác không cho phép chúng ta dây dưa, cố gắng
thực hiện công phu thật tốt. Trước mắt chúng ta có nghịch
cảnh, thuận cảnh, làm sao đối với nghịch
cũng như thuận đều tu được.
Đây là vấn đề thiết yếu. Người
quyết tâm tu phải nhẫn được với những
thuận cảnh. Bởi v́ chính thuận cảnh gây trở
ngại cho người tu lớn hơn nghịch cảnh.
Nghịch cảnh dễ thúc ta tiến, c̣n thuận cảnh
làm tâm trí mê mờ, nên thụt lùi mà ḿnh không hay hoặc hay
chăng nữa cũng không vượt qua nổi. Cho nên
đối với nghịch cảnh ḿnh phải tỉnh
đành rồi, nhưng với thuận cảnh chúng ta
càng quan tâm khắc phục hơn nữa. Thuận cảnh là ǵ? Là sự
thành công hay được nhiều ưu đăi của thầy
bạn, thiện hữu chung quanh. Do thế nên ḿnh tự
kiêu, tự đắc. Như vị nào tu hành tiến bộ,
thấy các vị chưa tiến, trong tâm ngầm tự
đắc ḿnh hơn người thế này thế khác. Một
lúc nào đó không khéo, cái kiêu căng nó ḷi ra. Người
tính ǵ cũng đúng, làm ǵ cũng thành công, giống
như ngoài đời đi thi đỗ đạt, làm
quan lớn, giàu có v.v… dễ sinh kiêu khí, ngạo mạn.
Đối với người tiến đạo nghiêm
thân, học pháp thanh tịnh giải thoát, phải để
ư điểm kiêu căng này. Chúng ta nhớ đường
dài dốc ngược, trời trưa nắng gắt,
gánh nặng cần phải buông nữa, phấn đấu
hơn nữa chứ không phải ngang đó là rồi,
không nên tự măn kiêu khí chứng tỏ ḿnh được
để người ta thán phục. Tất cả những
cái đó buông đi th́ mới làm chủ được. Bây giờ trong đời sống,
hầu hết chúng ta buông trôi theo thuận cảnh, v́ chúng
ta không đủ tỉnh lực làm chủ nó. Bởi vậy
nên ta dễ điên đảo, buông lung trong lúc thuận cảnh
kéo lôi. Thế nên muốn tu hành có kết quả tất cả
huynh đệ chúng ta gắng lên một chút. Khi đối
diện với thuận cảnh, với những dấy
niệm vừa ḷng thích ư, ta gắng làm chủ. Tại sao
phải làm chủ những dấy niệm? V́ chính những
dấy niệm đó kéo lôi, khiến chúng ta bị trôi giạt
ngược xuôi. Làm chủ bằng cách nào? Đừng
để nó dẫn đi, không chấp nhận nó, không lao
theo nó, không lầm đối với nó nữa. Làm chủ
được những dấy niệm th́ chúng ta an toàn,
giải thoát, khỏi cầu giác ngộ cũng giác ngộ.
Chúng ta có cơ hội, có năng lực đứng dậy
cắt đứt mọi sự ràng buộc và quyết
định vận mệnh cho ḿnh trong tương lai. Đó
là làm chủ được đối với thuận cảnh. Bây giờ tới nghịch cảnh.
Nghịch cảnh là sao? Là những bực tức, thù ghét
trước sự chửi mắng mạ lụy của
người v.v... Ḥa thượng dạy người ta
chửi ḿnh, ḿnh đừng chửi lại, người
ta mắng ḿnh, ḿnh đừng mắng lại. Nếu bực
tức hăy nên quán chiếu lời mắng đó không thiệt.
Quán như vậy vẫn chưa bớt giận th́ phân
tích cái miệng không thiệt, lời nói không thiệt, câu
nói không thiệt v.v... Trí quán luôn luôn nhiệm vận,
điều hành cùng một nhịp với đà công phu,
chúng ta sẽ chiến thắng được những
nghịch cảnh. Điều này cũng không phải dễ,
nên cần nỗ lực nhiều mới có thể nhẫn
chịu, vượt qua. Chuyện kể trong thời tu
nhân, đức Phật hành hạnh bố thí. Có lần
Ngài phát tâm bố thí hai mắt. Có người đến
nói cần con mắt, Ngài hoan hỷ móc con mắt
đưa. Người kia cầm một hồi nổi
giận nói: Tôi cần con mắt phải, chứ không cần
con mắt trái, sao ông đưa tôi con mắt trái. Nói xong kẻ
ném con mắt đi. Phật b́nh thản móc con mắt c̣n lại
đưa cho người kia. Đó là hạnh nhẫn nhục
khó khăn nghịch cảnh của đức Phật, mức
độ hành tŕ như thế mới gọi là ba-la-mật.
Người tu c̣n một vấn
đề nữa là chiến thắng phiền năo. Đây
là vấn đề gay gốc, bức xúc bên trong chúng ta. Bởi
ḿnh nhăn nhó, la lối, bực dọc, hầm hét là v́
không làm chủ được những phiền năo bên
trong. Không khi nào đêm hồi hôm ḿnh ngủ ngon, ăn
được, khỏe khoắn mà sáng mai ai nói ǵ ḿnh nổi
giận, la hét. Sở dĩ nổi giận, la hét là tại
chiều qua có vấn đề, hồi hôm có vấn đề,
sáng nay đùng một cái nữa ḿnh chịu hết nổi,
coi như trời sập. Kệ nó, cứ búa đi, tới
đâu hay tới đó. Đây là gốc từ phiền
năo. Cho nên nhẫn chịu thứ ba là nhẫn chịu phiền
năo. Nhẫn được những dấy niệm nhỏ
nhiệm li ti lăn tăn bên trong mới không phiền
năo, giữ quân b́nh trong sinh hoạt tu tập. Thiền sư Bạch Ẩn
đương thời rất nổi tiếng là người
có thể sức giác ngộ mănh liệt. Ngài được
mọi người quư trọng. Bấy giờ có cô gái
trong xóm phải ḷng ai đó không biết, cho tới có mang.
Ông già cô mắng chửi biểu khai ra. Biết khai ai bây
giờ, bỗng cô nhớ ra hằng ngày bố kính trọng
ông thầy Bạch Ẩn, nên nói đại sư là tác giả,
may ra khỏi bị đ̣n. Ông già chưng hửng, quá bất
ngờ. Nhưng rồi tin con gái nên ông lôi cô gái tới
trước mặt thiền sư Bạch Ẩn làm dữ.
Ổng chửi mắng nặng lời v́ lâu nay quư trọng
ngài như Phật sống, bây giờ sự việc tồi
tệ như vậy. Thiền sư nghe xong nói: “Thế
à!”. Chửi mắng đă cha con ra về. Thời gian sau
cô con gái sinh nở xong, ông xách đứa nhỏ tới
nói: “Đây, con của ông nè, tôi giao cho ông!”. Ngài Bạch Ẩn
lại: “Thế à!”. Thiền sư nuôi nấng đứa
bé trong sự nhục mạ của tất cả mọi người.
Cuối cùng cô con gái chịu hết nổi, nên thú thật
với cha: “Cha ơi con hư hỏng với người
khác, chứ không phải thiền sư đâu. V́ hồi
đó sợ cha giết nên con nói đại, mong cho
được yên. Bây giờ thấy thiền sư bị
nhục mạ oan ức quá, lương tâm con không chịu
nổi nữa”. Ông già nghe nói hết hồn hết vía, chạy
lên chùa lạy lục sám hối, xong xin đem đứa
nhỏ về. Thiền sư chỉ tiễn một câu
“Thế à!”. Muốn được như vậy
bên trong phải không có phiền năo. Chúng ta chưa
được thế th́ cố gắng cho được,
chứ biết làm sao bây giờ. Giữa cuộc đời
này bao nhiêu những bất như ư, phiền bực, lúc
nào nó cũng chực hờ, không buông tha ḿnh. Có nhiều
chuyện không đáng chi hết, nhưng ta bất giác là
phiền năo có cơ hội chen vô nhiễu loạn. Hoặc
sợ, hoặc lo, hoặc buồn, hoặc giận, tất
cả những thứ đó đều là phiền năo, rất
tai hại đối với người tu. Phiền năo
có nhiều lắm, trong kinh Phật nói: Phẫn, hận,
phú, năo, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu v.v... hai
mươi thứ. Bây giờ chúng ta phải cố gắng
gột rửa sạch bọn chúng th́ mới yên ổn. Kính chúc quư Phật tử hăy cầm
chắc thanh gươm trí tuệ, mạnh mẽ vun lên
để sẽ chiến thắng, chứ không thể chiến
bại trước đội quân phiền năo ấy. |