NGUYỆN XƯA C̉N ĐÓ H.T
THÍCH NHẬT QUANG |
||
|
||
DIỄN BIẾN NGHIỆP BÁO Hôm nay chúng ta nói về vấn
đề nghiệp báo, nói đủ là “diễn biến
nghiệp báo”. Với người tu Phật, đây là vấn
đề gốc cần phải được hiểu
và ứng dụng tu tập cho đúng. Như có người nói gia đ́nh
con tin Phật, tu theo chánh pháp, luôn được sự
hướng dẫn của chư tăng, nhưng sao trong
nhà thường xuyên xảy ra việc bất như ư, khiến
chúng con cảm thấy nghi ngờ. Như vậy vấn
đề nghiệp báo phải hiểu như thế nào
cho đúng và áp dụng tu ra sao để tiến
được. Trước nhất nói về
nghiệp. Nghiệp nguyên chữ Phạn là Karma, có nghĩa
là nghề nghiệp, thói quen. Nghiệp trong nhà Phật nói
liên thông tới ba thời quá khứ, hiện tại, vị
lai, chứ không phải chỉ nói trong hiện tại. V́
vậy Phật tử nêu lên sự việc trên, chúng tôi
khuyên nên nh́n trở lui về quá khứ. Muốn hiểu
được nghiệp th́ phải nh́n qua ba thời kỳ
như thế. Nghiệp của chính ḿnh chứ không phải
của ai. Chính ḿnh đă gây tạo nghiệp nhân không tốt
trong một khoảng nào đó do không sáng suốt nên bây giờ
hậu quả phải như vậy. Biết thế th́
không nên than trách, phiền năo, bất an, mà phải chấp
nhận và tu tập không gây tạo nghiệp nhân xấu nữa.
Ở đây chúng tôi nêu lên diễn
biến của nghiệp, tức là nói đến quá tŕnh
vận hành của nó. Cái nh́n của người con Phật
không nên chết cứng một chỗ. Trong kinh Phật
nói nghiệp báo thông cả ba đời. Do đời
trước tạo nghiệp lành nên đời này hưởng
quả lành. Dù đời này có làm ác th́ quả ác chịu ở
đời sau, chớ đời này vẫn hưởng
quả lành do đời trước đă tạo. Tuy
nhiên người đang hưởng quả đời
trước sẽ bị ảnh hưởng bởi những
nghiệp đang tạo trong đời này, nên phước
báo có những quảng không hoàn chỉnh. Hoặc người
tạo nghiệp lành phân nửa, phân nửa sau v́ lư do ǵ
đó, hành động không tốt đẹp. Như vậy
nghiệp lành chỉ đầy đặn trong quăng
trước, quăng sau lại xen vô việc không lành. Có khi,
trước chúng ta tạo nghiệp lành th́ quả lành
đến với ḿnh. Nhưng kế đó gây tạo nghiệp
không lành nhiều hơn, th́ quả không lành sẽ mạnh
hơn. Bởi mạnh hơn nên có khi nó phát tiết mạnh
hơn, sớm hơn, tùy theo mức độ và hành động
của mỗi người. V́ vậy Phật dạy người
tu phải thấy rơ từng giai đoạn trong quá tŕnh xử
lư nghiệp của ḿnh. Thời gian tu tập chính là lúc
chúng ta chỉnh đốn, sửa đổi những
nghiệp nhân cũ của ḿnh. Đây là giai đoạn rất
quan trọng. Thường trong cuộc đời chúng ta,
chuyện b́nh ổn không kéo dài, mà hay xảy ra những bất
trắc không lường được. Bởi không
lường được nên gặp sự cố chúng
ta không tỉnh. Do không tỉnh nên lại tiếp tục tạo
nghiệp nhân không tốt. Nghiệm lại cuộc đời
ḿnh, quí vị sẽ thấy có quăng nào đó rất b́nh
yên, lại có quăng nhiều sóng gió. Rồi ngay khi sóng gió lại
b́nh yên. Do ḿnh không tỉnh, đă gây tạo thế nào
đó nên nghiệp quả bây giờ xen vào lúc vầy lúc
khác. Muốn không tạo nhân xấu,
lúc b́nh ổn chúng ta cũng vẫn làm chủ từng niệm,
từng hành động, không để sơ hở khiến
nghiệp nhân không tốt chen vào. Nhưng lạ một
điều, cuộc đời thường là không b́nh ổn
nhiều hơn lúc b́nh ổn. Những khi ấy chúng ta mất
b́nh tỉnh, bị tác động chung quanh, nên thân miệng
ư tạo nghiệp không tốt. Nếu bất b́nh ổn
nhiều th́ nghiệp nhân xấu nhiều. Cho nên con người
sống chẳng được bao nhiêu b́nh yên, hạnh
phúc. Có khi tháng này đâu được chừng đôi ba
ngày b́nh yên, sau đó một loạt chuyện này chuyện
kia xảy ra trong gia đ́nh, đủ thứ hết. Thành ra vấn đề nghiệp,
người con Phật phải nh́n cho thấu đáo mới
b́nh yên, mới tu tiến được. Nếu không chúng
ta dễ nghi, rồi th́ việc tu hành không vuông tṛn. Một
khi đă nghi, ḿnh nghĩ tu cho nhiều cũng vậy thôi,
thôi kệ rề rề tới đâu hay tới đó. Phật
tử có hiểu sâu nhân quả mới vui trả nghiệp
cũ và không tạo nghiệp mới. Người đời
này tuy làm lành mà chưa hưởng quả lành v́ nghiệp
ác đời trước mạnh hơn. Cũng có người
đời này tuy làm ác mà chưa lănh quả ác v́ nghiệp
lành đời trước mạnh hơn. Như có
người đó nói năng khó nghe, sống không tốt
nhưng gia đ́nh b́nh an, tính cái ǵ trúng cái nấy, mua vé số
cũng trúng nữa, làm như có Phật độ vậy.
Không phải thế, mà v́ họ đang hưởng dư
báo đời trước. Thành ra Phật dạy Phật tử
phải cẩn thận, đời này chưa được
quả lành, lại tạo ác th́ đời sau càng sa vào
đường ác. Nghĩa là ḿnh đă tạo nhân lành,
nhưng quả lành chưa tới th́ phải cẩn thận
dè dặt, đừng bán tín bán nghi rồi tạo nghiệp
nhân không tốt. Đă tạo nghiệp nhân không tốt th́
quả xấu sẽ đến khó tránh được.
Người nửa đời trước làm lành, sau lại
làm ác th́ đời này nửa đời trước
hưởng phước, nửa đời sau mắc tai
họa. Tất cả những sinh khởi đó giao xen
tùy theo sự tỉnh hay không tỉnh của mỗi
người. Nhân nói về diễn biến của
nghiệp, chúng tôi nêu lên đức tỉnh. Đối với
nghiệp hễ có gây nhân th́ sẽ chuốt quả. Có nghiệp
nhân mà không có quả báo, việc ấy chưa từng xảy
ra. Có quả báo mà không có nghiệp nhân, việc ấy cũng
chưa từng xảy ra. Phật tử nên hiểu rơ có
nghiệp nhân th́ có nghiệp quả. Tu tạo nhân lành sẽ
có quả báo tốt. Không tu tạo nhân lành mà gây tạo
nghiệp nhân bất hảo th́ bị quả báo không tốt.
Cho nên cần phải tỉnh sáng để tránh nhân xấu,
ngừa tâm tham sân si dấy khởi, nó sai khiến chúng ta
làm bậy, rồi chuốt quả khổ. Chúng ta tu hành tức là chuyển
hóa, sửa đổi chỉnh đốn từ nghiệp
nhân. Dù chỉ một nhân nhỏ thôi, mà biết rằng
nhân đó đưa tới quả báo không tốt th́ cũng
dè dặt không làm. Đó là người biết tu. Thấy
rơ như vậy, hiện tại có những bất ổn
chúng ta liền biết đây là gốc quá khứ c̣n tồn
đọng, nhờ thế ḿnh b́nh yên, tiếp tục tu tập,
không nghi ngờ không chểnh mảng, nhất là rất cẩn
thận với việc gây tạo nghiệp nhân mới. Việc tu trong đạo Phật,
đặc biệt là tu thiền, chư Tổ dạy: “Ta
chẳng cầu đạo, cũng chẳng điên đảo,
ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn, tất
cả chẳng ngồi măi cũng chẳng lười biếng,
ta chẳng biết đủ cũng chẳng tham cầu
v.v...” Tu theo tinh thần thiền là như vậy. Chúng ta
không cầu đạo cũng không điên đảo. B́nh
thản an nhiên, sống được với ông chủ
của ḿnh, không khởi lên một niệm mong cầu ǵ.
Không khởi niệm, không mong cầu tức là b́nh thường,
không có điên đảo ngược xuôi. Đối duyên
xúc cảnh cũng b́nh thường, không khởi niệm
phân biệt. Muốn được thế đ̣i hỏi
người tu phải có một sự thâm nhập. Ở
đây không bắt buộc ḿnh lễ Phật, nhưng cũng
đừng có niệm khinh mạn nổi lên. Nhưng ta th́
ngược lại, vừa lễ Phật vừa khinh mạn.
Chẳng ngồi măi cũng chẳng lười biếng,
nghĩa là không ngồi thiền hoài nhưng cũng không phải
là người lười biếng. Không là người biết
đủ nhưng cũng không là người tham cầu,
b́nh thản an nhiên tự tại. Đó là cách tu của người
hành thiền. Ḥa thượng Viện trưởng dạy,
vừa có niệm dấy khởi liền buông, không để
cho nó kéo lôi. Người được như vậy là
có định. Có định liền có tuệ, định
tuệ tṛn đủ là tự tại giải thoát. Thành ra
nói tu mà không có tu ǵ, nói hành đạo mà rất b́nh thường,
cũng không có đạo để hành. Chỗ siêu thoát
đặc biệt của pháp tu thiền là như thế. Nói học Phật là bỏ ba vật
và được bảy việc. Bỏ ba vật là ǵ? Là
bỏ tham sân si. Bây giờ ta không nói học Phật ǵ hết
mà cứ bỏ tham sân si. Ta không nói tu ǵ hết mà làm chủ
được tham sân si th́ đă có tu. Tóm lại, người
tu theo tinh thần thiền là người làm chủ
được ba nghiệp, làm chủ tham sân si. Làm chủ
như thế nào? Gặp cảnh tham không động, chứ
không phải tụng kinh, lạy Phật, đi chùa thật
nhiều lần. Như có ai đem vé số nói mua vé này
ngày mai trúng bao nhiêu triệu đó, ḿnh nói thôi, tôi không biết
cất tiền ấy ở đâu, mỗi ngày tôi làm sống
được rồi. Đối với sự việc
trái ư ḿnh không nổi giận đùng đùng là làm chủ
được sân. Đối với si, tức là những
vọng tưởng lăng xăng điên đảo,
ḿnh làm chủ được, không chạy theo nó là làm chủ
được si. Đó là ba vật mà người tu thiền
phải thực tập cho được. Trị tham trị
sân trị si là trị nơi ḿnh, nghiệm nơi ḿnh, giải
quyết việc của ḿnh, chứ không phải của
ai. Thế nên chúng ta phải tập trung lo liệu. Khi tham sân si tới, tụng kinh
đâu có cản kịp, mà lúc đó ta cũng chẳng thể
tụng được câu chữ nào. Chỉ có người
hằng ngày từng áp dụng trị liệu, từng nhắc
nhở ḿnh tỉnh giác, mai ra có thể dừng được,
chứ tới lúc đó tụng kinh cũng không giải tỏa
được. Nói đủ bảy việc là bảy
việc ǵ? Là Đại từ, Hoan hỷ, Vô ngă, Dũng
mănh, Nhiêu ích, Hàng ma, Vô chứng. Đó là những công đức
sinh ra từ quá tŕnh tu hành của chúng ta. Vị nào tu lâu,
tiến dần lên thành Bồ-tát thành Phật th́ đầy
đủ đại từ đại bi đại hỷ
đại xả. Dũng mănh là mạnh mẽ tiến tới
trong công phu, không bao giờ thối chuyển. Nhiêu ích là làm
ích lợi cho chúng sanh mà không mong cầu ǵ cho ḿnh. Hàng ma là
đầy đủ trí tuệ và năng lực nhiếp
phục các thứ nội ma ngoại ma. Vô chứng là không
nghĩ ḿnh có chỗ được, có chỗ chứng
đắc, dù công phu đă viên măn, thành tựu giác ngộ
giải thoát như chư Phật. Có người đặt vấn
đề, tu hành là mong cầu chứng quả Phật, tại
sao lại nói vô chứng? Họ đặt câu hỏi
đó đúng không? Đúng chứ. Tại v́ nhiều
người nghĩ rằng Phật ở đâu đó,
ḿnh cầu để được. Nhưng theo quan niệm
của Phật giáo, Phật là tâm của chúng ta. Phật ở
ngay nơi chúng ta, là ta, chứ không phải cầu ở
đâu hết. Cho nên khi nghe hỏi Phật là ǵ, tự
nhiên ta giựt ḿnh. Lâu nay ḿnh nói lơ mơ tu để
thành Phật, như vậy Phật ở đâu mà thành?
Khi biết Phật ở chính nơi ḿnh, chúng ta sẽ xác
định được mục tiêu và đường
hướng tu tập vững vàng, công phu an ổn, không có
ǵ hồ nghi nữa. Trước nhất là “chớ
khởi quán hạnh.” Phật là giác, không cho ḿnh khởi
cái ǵ hết. “Cũng chớ lóng tâm, chớ khởi tham
sân, chớ ôm ḷng lo buồn, rỗng rang không ngại, mặc
t́nh tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làm
các việc ác, đi đứng nằm ngồi, mắt thấy
gặp duyên thảy đều là diệu dụng của
Phật.” Cho nên Phật tức là tâm của ḿnh. Tâm của
ḿnh th́ ai cũng có. Chứ không nói Phật Thích-ca, Phật
A-di-đà, Phật Dược Sư v.v... Chúng ta tu th́ phải
khởi phát, nhận ra và hằng sống với Phật
tâm đó. Đă sống với tâm Phật rồi th́ không
làm ác, không làm lành, không tham sân, không lo buồn, rỗng rang
sáng suốt, mặc t́nh tung hoành. Nghĩa là tâm thể rỗng
rang sáng suốt, tự tại vô ngại, giải thoát,
không vướng mắc. Bài pháp đầu tiên Lục tổ
Huệ Năng nói cho Huệ Minh nghe là “Không nghĩ thiện
không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của
Thượng tọa Minh?”. Ngay câu nói này ngài Huệ Minh bừng
ngộ. Bài pháp nghe ra quá giản dị nhưng thật
độc đáo. Khi nào chúng ta tự đặt câu hỏi
đó cho chính ḿnh, xem không nghĩ thiện không nghĩ ác
cái ǵ là ḿnh? Đây chính là chỗ không có quán hạnh, không
khởi tâm, b́nh thường an nhiên. Bài pháp như thế
người xưa cho là “Một giọt sữa sư tử
làm tan sáu đấu sữa lừa”, tuy b́nh thường
giản dị mà nó đủ sức triệt hóa học
nhân. Trong quá tŕnh tu hành, huynh đệ
phải t́m hiểu chỗ này. Bên trong phải có cái tâm giác
sẵn, khi gặp duyên khai thị ḿnh mới bừng ngộ
được. Thiền sư tuy bên ngoài vẫn đối
duyên xúc cảnh nhưng bên trong cả một công phu. Cho
nên các ngài nghe một tiếng động, thấy một
chiếc lá rơi, bị ăn gậy… đều có thể
ngộ đạo. Như ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn sau
khi nghiên cứu hết kinh điển vẫn không trả
lời được câu hỏi của ngài Quy Sơn,
ngài thôi không theo chữ nghĩa nữa, trở về chỗ
của Quốc sư Huệ Trung lập thảo am tu tập,
làm tăng cơm cháo qua ngày. Cho tới một hôm nhân cuốc
đất, ḥn sỏi văng lên chạm vào cây trúc phát ra
âm thanh, ngài ngộ đạo. Quả thật bên trong có một
quá tŕnh tu tập liên tục, chớ không phải hời hợt,
không phải giản dị b́nh thường đâu. Nuôi
dưỡng công phu liên tục, sống như vậy mới
có ngày xong việc. Có nhiều vị tu nghe tiếng
gió, cành tùng hay vật ǵ chạm nhau liền ngộ đạo.
Thậm chí có những vị ngồi thiền buổi
khuya nghe hương đăng làm rơi bao nhang xuống
đất chợt ngộ đạo. Chúng ta phải có một
công phu tương đối, được nuôi dưỡng
liên tục th́ việc ngộ đạo không quá tầm
tay. Ḥa thượng thường nói sáng được việc
của ḿnh, làm chủ được ḿnh. Sáng được
việc của ḿnh là ǵ? Là việc sinh tử, là việc
mà ḿnh đă mắc mứu từ lâu nay, đó là việc lớn
nhất, không ai có thể thay chúng ta được, chỉ
có ḿnh đảm đang, giải quyết cho ḿnh thôi. Nói vấn
đề sinh tử trọng đại nhưng quư vị
biết, sinh cũng không mà tử cũng không. Bởi v́
như Phật nói sinh cũng giả mà tử cũng giả.
Quả như vậy, sống trong cuộc đời này
không có cái ǵ thật hết, có chăng là những mộng
mơ, một lúc nào đó rồi vỡ mộng. Như vậy
chúng ta ôm giữ để làm ǵ? Đối với tinh thần ngộ
đạo, ở đây nói: Tu là căn cứ từ tâm,
ngộ là nhận và sống được với tâm thể
của ḿnh. Chúng ta có thể thực hiện điều
đó ngay trong cuộc đời này. Người không bị
kéo lôi, không bị động bởi những cảnh
duyên th́ có định tuệ hiện tiền, tức là Phật
tâm sáng ngời hiện trước. Nói đến chữ
tâm, trong kinh có câu: Trăm ngàn pháp môn đồng về một
tấc vuông, diệu đức nơi hà sa thảy ở
nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới định
tuệ, thần thông biến hóa thảy đều đầy
đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền
năo xưa nay đều không lặng, tất cả nhân quả
đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể
ra, không có bồ-đề có thể cầu v.v... Đôi khi nói tâm mà chúng ta không biết,
tâm là ǵ? Như nói tất cả pháp môn đồng về
một tấc vuông, nghĩa là tất cả pháp môn đều
về chỗ đó. Hay là nói ngược lại, tất
cả pháp môn đều phát xuất từ tâm. Khi tâm bất
động, không bị động bởi cảnh duyên
nào hết th́ chúng ta sẽ thấu thoát tất cả, sẽ
nhận ra tâm thể rỗng rang sáng suốt trùm khắp của
ḿnh. Thành ra nói tâm tức là nói đến diệu đức,
thần thông biến hóa, tất cả công đức diệu
dụng của tâm thể thanh tịnh. Tâm chúng ta đầy
đủ tất cả những thứ đó, nhưng v́
mây phiền năo che đậy nên chưa hiển lộ, chứ
không phải không có. Nên chỗ nhắm của người
tu hành là làm sao nhận và hằng sống được với
tâm ấy. Nếu căn cứ trên bản
tâm chân thật mà tu th́ người ngồi thiền giỏi
cũng tâm thể rỗng rang sáng suốt, người
không ngồi thiền được mà nhận ra bản
tâm này rồi th́ cũng rỗng rang sáng suốt sáng suốt.
Đỉnh cao, chỗ nhắm của chúng ta là ở
đó. Thành ra nói tâm là nói đến tâm thể rỗng rang
sáng suốt của chính ḿnh. Tâm này có sẵn, không phải
vay mượn ở đâu, không phải dời đổi
của ai, nhưng v́ chưa nhận ra nên ḿnh không sống
được với nó. Bây giờ nhân học Phật
pháp, chúng ta biết mỗi người có tâm thể rỗng
rang sáng suốt th́ nhận lại, sống lại với
cái tâm chân thật ấy. Mỗi hành giả tùy theo công phu
tu mà có chỗ ngộ khác nhau, không cố định.
Như Thượng toạ Thần Tú tuy đă là giáo thọ
của năm trăm chúng, nhưng chỗ nhận không thẳng
tắt như Lục Tổ Huệ Năng nên ngài làm kệ
tŕnh Ngũ Tổ thật khó khăn. Trong khi đó, Lục
Tổ chỉ trong chớp mắt đă có thể làm một
bài kệ khiến cho Ngũ Tổ cũng như toàn thể
đại chúng ngạc nhiên. Đó chính là chỗ thâm nhận
thâm đạt sâu cạn khác nhau, không có chuẩn mực
dành riêng cho ai cả. Ở đây nói đến phần
hành tức là nói đến công phu. Hằng ngày chúng ta sinh
hoạt, tu tập như thế nào? Ở đây Tổ
nói cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu khởi
nơi tâm. Nếu tâm chẳng theo danh th́ vọng t́nh từ
đâu khởi. Vọng t́nh đă chẳng khởi th́ chân
tâm mặc t́nh biết khắp. Cảnh duyên bên ngoài vốn
không có tốt xấu, tất cả dấy khởi là do
tâm vọng. Bây giờ chúng ta tu trị cái tâm vọng động
th́ cảnh duyên bên ngoài tự yên theo. Nói tới công phu tu
hành tức là nói trị vọng tưởng. Biết nó là
vọng tưởng đừng để nó dẫn
đi th́ trị được nó. Nếu chưa biết
nó là vọng, c̣n lầm nên mới bị nó dẫn đi.
C̣n đă biết nó là vọng tưởng th́ nó sẽ
không làm ǵ được ḿnh. Ḥa thượng Viện trưởng
dạy, biết những dấy niệm là vọng liền
được định tức th́. Khi đă định
th́ trí tuệ Bát-nhă phát sanh. V́ thế nói cảnh duyên sinh
khởi chung quanh không tốt xấu, mà tốt xấu từ
nơi tâm vọng tưởng của ḿnh. Có tốt có xấu
th́ thuận theo tốt xấu mà tiếp tục phát khởi
vọng niệm, càng cách xa với tâm chân thật. Cho nên
người tu thiền tâm thể rỗng rang, hành mà không
hành. Biết cảnh duyên không thật, nên không bị động
bởi bất cứ hiện tượng nào. Người
được như vậy là người tự tại
đối với các pháp. Sở dĩ có như vầy
như khác là do vọng tưởng điên đảo,
ḿnh chưa chủ động được. Một khi
ta chủ động được rồi th́ cảnh
duyên không có tốt xấu nữa. Theo sự hướng dẫn của
Ḥa thượng, vừa có một niệm dấy khởi
liền biết nó là vọng tưởng, không thiệt,
chúng ta không theo. Biết nó không thiệt là trí tuệ Bát-nhă
hiện tiền, đó là tuệ. Người có công phu vững
vàng th́ không sợ vọng tưởng, không sợ cảnh
duyên, không sợ ǵ hết, lúc nào cũng b́nh thường
an nhiên. Bên ngoài tiếp cận thế sự lăng
xăng nhưng bên trong không thể thiếu khuyết
được. Người tu thiền là người nhận
và sống được với tâm thể an nhiên của
ḿnh. Cảnh duyên bên ngoài không tự
nói tốt xấu, tất cả đều do vọng
tưởng mà ra. Có bao giờ chiếc xe hơi tự nó
nói nó đẹp, cái nhà tự nó nói nó chắc đâu, con
người bày ra đặt cho nó là đẹp, là bền
chắc, rồi mắc mứu vào đó. Nghĩa là chúng ta
dùng phương tiện rồi bị phương tiện
kéo lôi, quên mất hẳn ḿnh. Bây giờ ta tỉnh lại,
biết rơ phương tiện là phương tiện,
ḿnh tạm dùng phương tiện để sống và
tu cho tốt thôi, chớ đừng để
phương tiện kéo lôi, làm lầm ḿnh. Cái nhà là cái nhà,
chúng ta không lầm chút nào hết. V́ vậy nên cái nhà hư
ta cũng b́nh thường, thân này bệnh hoạn ta cũng
b́nh thường, cho tới thân này hoại diệt chết
đi ta cũng b́nh thường. Điều này nói nghe dễ,
chứ thực hành khó lắm. Nó bệnh ta lo chạy thuốc
tiên thuốc thánh cho nó mau mạnh, muốn nó sống hai ba
trăm năm, tính chuyện lâu dài bằng trời bằng
đất. Trong khi đó Phật nói thân này là đồ bỏ.
Phật không nói cái nào thật hết. Thân không thật, cảnh
không thật, tâm không thật. Nhưng chúng ta vẫn cứ
lầm. Bởi lầm nên phải tu để đừng
lầm nữa. Hết lầm là giác, giác là Phật. Phần
hành của chúng ta là như vậy. Với người tu thiền,
cố gắng làm sao ở tất cả chỗ mà không trụ
tướng, ở trong tướng ấy không sanh yêu
ghét, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng nghĩ việc
lợi ích, thành hoại, an ổn, thanh tịnh gọi là
người hằng sống được với tâm thể.
Điều này hơi khó. “Ở tất cả chỗ không
trụ tướng”, nghĩa là ở đâu cũng b́nh
thường thôi, không trụ không dính không mắc mứu
vấn đề ǵ cả. “Ở trong tướng ấy
không sanh yêu ghét”, nghĩa là trong cuộc tương giao
đời sống hằng này, không để cho niệm
yêu ghét khởi lên. Ḿnh sống an nhiên trải dài một niệm
thanh tĩnh sáng suốt đối với tất cả,
không ôm giữ tham đắm ǵ hết. Nói tới chỗ
này đ̣i hỏi chúng ta phải có trí tuệ, công phu sâu dày
một chút. “Không yêu ghét, chẳng lấy chẳng bỏ,
chẳng nghĩ việc lợi ích, thành hoại, an ổn
v.v... gọi là hằng sống”. Ḥa thượng thường
dạy là sống được với tánh giác. Hằng
sống với tánh giác là sống như thế nào? Tánh
giác là ǵ? Trong đó nếu chúng ta c̣n trụ chỗ này chỗ
kia, c̣n bị kẹt bị vướng bởi những sự
kiện bên ngoài th́ không sống được với tánh
giác. Chúng ta c̣n muốn được cái này bỏ cái kia
là không sống được với tánh giác. Người
sống được với tánh giác là người an ổn,
người thanh tĩnh. Trở lại vấn đề
công phu, chúng ta phải ngừa trước niệm tắng
ái. Tắng là ghét, ái là thương. Thường người
ta hay nói vị đó hay vật đó cảnh đó dễ
thương quá hoặc dễ ghét quá. Thật ra
thương ghét cũng tự ḿnh thôi. Đối với
người tu làm sao trị được bệnh tắng
ái trước tất cả cảnh duyên. Niệm ái không
xong mà niệm tắng cũng không được, phải
làm sao b́nh thản trước hai thứ ấy, mới
không bị nó dẫn đi, không bị nó trói buộc. Một
khi đă vướng vào tắng ái rồi th́ phiền năo
dấy khởi, rất khó diệt trừ. V́ vậy với
người tu Phật, tắng không nên mà ái cũng không
được. Dẹp niệm tắng ái quí vị sẽ
b́nh ổn. Thế nên chúng ta phải ngừa trước,
đừng để nó sinh khởi, khó trừ khó bỏ
lắm. Chúng ta dùng thân này như một
phương tiện để tu. V́ thiếu nó ḿnh không biết
căn cứ vào đâu để tu. Tuy nhiên khi sử dụng
thân nhớ chỉ xem là phương tiện, không đặt
thêm cái ǵ khác. Bởi là phương tiện nên trong giai
đoạn nào ḿnh dùngtheo giai đoạn đó, tới lúc
dùng không được th́ cũng b́nh thản. Nó muốn
hoại, c̣m xuống, đi không nổi ta vui vẻ cảm
ơn nó, không lo sợ, không buồn khổ, không cầu khẩn
ỉ ôi ǵ. Chúng ta thường khác với đức Phật.
Như Phật nói thân này đồ bỏ, ḿnh cũng nói
đồ bỏ nhưng lượm lại để
xài, không bỏ thiệt. Do vậy tới lúc đáng lẽ
phải bỏ, ḿnh lại cầu cạnh, muốn cho nó
được tồn tại hoài. Đó là cái lầm của
chúng sanh. Ngoài thân ra, Phật nói vọng
tưởng mà ta thường gọi là “tâm tôi” cũng
đồ bỏ, nó không thật. Nhưng ta nói nó là tâm thật
của ḿnh. Phật tử nếu nắm vững và áp dụng
đúng lời Phật dạy th́ sẽ thấy an lạc
tức th́. Chúng ta sử dụng thân này như
phương tiện, tâm cũng phương tiện, nhà cửa
là phương tiện, tất cả mọi thứ ḿnh gầy
dựng từ bao nhiêu lâu đều là phương tiện.
Đă là phương tiện th́ nó có giới hạn, có
giai đoạn. Giai đoạn c̣n th́ ḿnh sử dụng
theo cái giai đoạn c̣n, giai đoạn không c̣n nữa
th́ cũng b́nh thường. Thấy được b́nh
thường như thế là làm chủ được
các pháp, hằng sống với tánh giác. Người thấy
được đến nơi đến chốn thực
tánh của các pháp gọi là người Kiến Đế,
là người thấy được chân lư. Nói thân là
đồ bỏ, ḿnh thấy quả thực nó là dồ bỏ,
đó là thấy được lẽ thực rồi. Nếu
có cái nh́n như vậy, chúng ta sẽ b́nh thường
đối với cuộc sống này. Từ sự mất
mát, sự h́nh thành, sự tan hoại, mọi sự cố
trong cuộc đời giữa ḿnh với người
chung quanh đều b́nh thường. Cái b́nh thường
ấy nhà thiền gọi là đạo. Tóm lại, chúng tôi nói vấn
đề nghiệp báo để Phật tử vững
niềm tin rằng đối với nghiệp phải trải
dài qua những giai đoạn trước, giữa và sau.
Kế đến vấn đề tâm thể, chúng ta phải
tu học làm sao để đối với cảnh duyên
không bị mắc mứu, không kẹt niệm tắng ái,
ḿnh b́nh thản. Có thế mới thể hiện
được phần nào tinh thần giải thoát của
đạo Phật. Ngoài ra đối với thân này và tâm
giả tạm, ta sử dụng trong giới hạn của
phương tiện. Dùng nó để tu, để làm tất
cả những việc công đức trong khoảng nào
đó. Biết như vậy rồi được mất
không làm ta sợ hăi. Đó là chỗ sống đạo của
người tu thiền. Người sống được
với tâm thể là sống được với tâm b́nh
thường, luôn an nhiên tự tại giữa mọi
thăng trầm trong cuộc đời. |