NGUYỆN XƯA C̉N ĐÓ H.T
THÍCH NHẬT QUANG |
||
|
||
MỞ CỬA TU HÀNH Thời Phật c̣n tại thế,
chư Tăng Ni cũng như Phật tử được
Phật giáo hóa chỉ trong một thời gian ngắn là
ngộ đạo, chứng Thánh. Có vị tu tập hai
tháng, sáu tháng, tám tháng nhưng cũng có vị ngay khi vừa
được Phật khai thị liền xong việc. Vậy
pháp của Phật ngày xưa với pháp của Phật
bây giờ, chất vị có khác nhau không? Nếu không khác tại
sao người xưa thành tựu dễ dàng, c̣n chúng ta
ngày nay tu măi vẫn không đi tới đâu. Trong chúng hội này, có những vị
Phật tử đă học pháp với sư ông của
tôi hồi xưa, qua tới đời các bậc thầy,
rồi tới đời chúng tôi, quư vị ấy đă
phải chống gậy, đi có người d́u nhưng
rồi cũng y nguyên. Như vậy pháp của Phật nó
có hiệu dụng, có năng lực không? Thật ra học
Phật mà không áp dụng th́ không thấy hiệu lực,
không có lợi ích ǵ cả. Thế nên huynh đệ học
Phật, tu Phật nên cố gắng ứng dụng để
phát huy diệu dụng của Phật pháp. Hiểu
được như thế nào, chúng ta phải hành.
Như vậy rất vui. Hồi xưa đức Thế
Tôn kêu một chú bé đến phủi tóc cho Ngài. Chú rất
sợ nhưng không dám căi nên đành phải cạo tóc cho
Phật. V́ sợ quá nên trong lúc cạo chú thở hổn hển,
đức Thế Tôn hỏi: “Tại sao hơi thở của
con mạnh quá vậy?” Nghe đức Phật hỏi thế,
chú ngầm hiểu đă bị Phật quở nên kiềm
giữ hơi thở điều ḥa trở lại. Đức
Phật không nói ǵ hết, nhưng rất hài ḷng công phu
điều ḥa hơi thở của tiểu tăng. Cuối
cùng sau khi phủi tóc xong, chú ngộ đạo. Khỏi tụng
kinh, khỏi ngồi thiền thời nào hết, mà cũng
chưa từng đi chùa cúng Phật chi cả, chỉ
trong quăng thời gian phủi tóc thôi, điều ḥa hơi
thở, chánh niệm phủi tóc cho Phật xong là ngộ
đạo. Nhanh như vậy. Thời đó rất nhiều vị
Tỳ-kheo trẻ tuổi, đến tŕnh với đức
Thế Tôn: “Mùa an cư năm nay, xin Thế Tôn cho con một
pháp tu, con sẽ t́m nơi thích hợp để hành tŕ”.
Đức Thế Tôn rất hoan hỷ, biết được
căn khí của từng vị, nên Ngài cho pháp tu thích hợp.
Thầy nào tu chừng ba tuần lễ thấy có kết
quả đặc biệt, xin được về đảnh
lễ đức Thế Tôn, tŕnh lại quá tŕnh thực
hiện công phu, đức Thế Tôn nghe tŕnh bày xong, bảo
“Ừ được, cứ thế mà tu”, th́ chỉ thêm
hơn một tuần hay hai tuần nữa, các vị
đó xong việc, chứng A-la-hán. Các vị tăng xuất
gia thường thường chứng đệ tứ quả
A-la-hán, c̣n hàng tại gia cư sĩ chứng từ sơ
quả lên đến Tam quả A-na-hàm. Mùa an cư ngày xưa là một
trăm ngày, Trung Hoa gọi là “Cửu tuần bách nhật”,
chúng ta bây giờ nhập hạ ba tháng tức chín
mươi ngày. Trong đó trừ hao chuyện bệnh hoạn,
đi lại cúng kính, nghỉ ngơi ǵ ǵ th́ c̣n chừng
năm mươi ngày, chứ không nhiều. Chỉ xin
được dự vào Sơ quả thôi, không biết
chúng ta đă thực hiện được chưa nói chi
đến Tứ quả. Người thời nay phần
nhiều không nỗ lực, tu hành trậm tŕ trậm trật,
nay bị rầy, mai bị quở, đi đây đi
đó. Nay đổi chùa này, mốt dời am kia mà thấy
vui, chớ thành đạo một cái rụp, không biết
làm sao, buồn chết luôn! Trong bốn quả, quả thấp
nhất là Dự lưu. Hàng cư sĩ có khi gặp Phật
được nghe pháp, chỉ trong ṿng đôi phút có thể
vào quả này tức nhập ḍng thánh. Đă dự vào trong
ḍng thánh rồi th́ không bao giờ lui sụt. Như ông Cấp Cô Độc là
một vị Trưởng giả. Ban đầu ông không
biết ǵ về đức Phật cả. Nhân dịp
đi làm ăn xa, ông nghe bạn bè kể về đức
Phật với những công đức thù thắng nên rất
lấy làm lạ. Lại trong lúc ấy mọi người
rộn rịp sắm sửa thức ăn, chuẩn bị
ngày mai cung thỉnh Phật và Thánh chúng tới để
được cúng dường. Tuy không biết cúng dường
như thế nào nhưng ông thấy phấn khởi lạ
thường. Bạn bè rủ ông nghỉ lại để
sáng mai gặp Phật. Đêm đó ông ngủ không
được, trong ḷng nao nao muốn gặp Phật
ngay. Vị chủ nhà thấy vậy, nên trong đêm tối
dẫn ông tới gặp đức Thế Tôn. Cấp Cô Độc nghĩ
đoàn Tỳ-kheo của Phật là 1250 vị, nếu ở
một chỗ chắc ồn ào lắm. Người nói một
tiếng cũng thành cái chợ nhỏ chứ đâu phải
ít, nhưng tại sao đi gần tới chỗ đức
Phật mà thấy yên phăng phắt. Màn đêm phủ xuống,
cảnh trí thiên nhiên bất động. Ông lấy làm lạ,
không biết người bạn có gạt ḿnh, dẫn
đi đâu không. Tại sao tới chỗ cả ngh́n
người mà không nghe một tiếng động như
thế này? Một lúc sau, thấy dáng đức Phật từ
xa, Cấp Cô Độc đă nghe một niềm cung kính
dâng tràn và dường như đức Phật biết
trước, nên kêu: “Cấp Cô Độc! Hăy tới
đây”. Sau đó, đức Phật chỉ nói vài câu ông
liền dự vào ḍng thánh. Niềm tin đối với
Tam bảo kiên cố, tất cả công đức lành ông
đă tu tạo trong nhiều đời, tới lúc đó
phát triển. Tâm ông mở rộng, niềm tin niềm hoan
hỷ đối với chánh pháp không ǵ có thể lay chuyển.
Ông đảnh lễ đức Phật trở về xứ.
Trước khi chuẩn bị về
xứ ông nghĩ phải thỉnh Phật và đoàn thánh
tăng qua chỗ của ḿnh, để đức Phật
hướng dẫn pháp mà Ngài và chư vị thánh tăng
đă tu chứng cho dân xứ ông được thắm
nhuần, giúp họ hết khổ. Cái khổ sinh tử
b́ lao từ nhiều đời trầm luân, chỉ có học
pháp Phật mới giải tỏa được. Ông liền
đê đầu đảnh lễ thỉnh cầu đức
Phật và chư Thánh tăng theo nguyện vọng của
ḿnh. Đức Thế Tôn hoan hỷ chấp thuận. Sau
đó ông mua đất của Thái tử Kỳ Đà và kiến
lập tinh xá Kỳ Hoàn. Tại đây đức Thế
Tôn nhập rất nhiều mùa hạ, trú xứ này là
nơi mà đức Phật đă hướng dẫn,
khai đạo cho vô lượng Thánh chúng thành tựu Phật
đạo. Chúng ta chắc cũng đă kết
chủng Bát-nhă, chủng Phật nên mới gặp Phật
pháp, phát tâm tu hành nhưng có lẽ tu chưa tốt nên tới
bây giờ cũng c̣n nguyên đây. Tuy nhiên hy vọng với
chủng duyên tốt sẵn có từ trước, chúng ta
sẽ thành tựu Phật đạo trong tương lai.
Muốn thế chúng ta phải có cách tu tập để
giải quyết được việc sinh tử của
ḿnh. V́ đây là vấn đề lớn lao đáng ngán
đáng sợ nhất. Sinh ra không có sung sướng ǵ hết
nên vừa chào đời là đă khóc rồi. Nếu không
khóc được th́ bị đánh cho khóc, cuộc đời
này nó lạ lùng như vậy. Sự có mặt của ḿnh
bắt đầu bằng tiếng khóc, đó là dấu hiệu
báo trước sự khổ của một đời
người. Những giai đoạn kế tiếp tùy
theo căn duyên, nghiệp quả của từng người
mà có báo chướng khác nhau. Ngoài cái riêng c̣n có cái chung nữa,
chúng sanh phải chịu những nỗi khổ chung riêng
này tác động qua lại lẫn nhau. Trong đoạn
nhân duyên đó không có ǵ b́nh ổn cả, một trăm
điều th́ đă tám chín mươi điều không
như ư, họa hoằn lắm có một đôi điều
tương đối như ư. Nhưng cái như ư đó
cũng tạm thời, giả hợp, không thực, nó ngầm
chứa những bất an bất ổn trong ấy. Chúng ở
đâu ta không biết, nhưng dường như lúc nào nó
cũng sẵn sàng có mặt. Ta phải đương
đầu tiếp cận giải quyết trôi tṛn như
thế nào, đó là việc của ḿnh. Trôi tṛn như thế
nào? Có người sanh con cái lớn lên, cưới gă xong
th́ nói trôi tṛn. Có người tới gần tắt thở
mà chưa chia chát sắp đặt mọi việc trong
nhà là chưa trôi tṛn. Sự việc muốn trôi tṛn là phải
giải quyết khi ḿnh c̣n thở, chứ lúc đứng
tṛng rồi, đạo lư không c̣n, con cái tranh giành với
nhau, th́ cái gọi là trôi tṛn thành ra bất toàn. Vấn đề sinh rồi vấn
đề tử chiếm hết thời gian của chúng
ta. Mỗi ngày công việc của ḿnh, đâu phải chỉ
ăn uống nước, mà c̣n phải đi lại giao
tiếp, đủ chuyện. Do vậy cả ngày ḿnh gặp
nhau trong bận rộn. Người này hỏi người
kia “sáng giờ làm ǵ?” - Quét
nhà, đi chợ, nấu cơm, chuyện này chuyện
kia, chưa rồi chuyện nào hết. Chuyện buổi
sáng chưa rồi chuyện buổi trưa tới, chuyện
buổi trưa chưa rồi, chuyện buổi chiều
tấn công, chuyện buổi chiều chưa xong, mặt
trời xuống lại ngủ vùi trong đêm tối, mù mịch.
Quư vị thấy nguy cơ của hiểm họa của
khổ đau đổ xuống thân phận con người
như vậy. Bài pháp đầu tiên đức
Thế Tôn dạy tại Lộc Uyển là khổ đế.
Con người vừa mở mắt ra đời là khổ.
Lớn lên đối duyên trái nghịch khổ, bệnh tật
ốm đau khổ, rồi dần già yếu khổ. Tới
chết là cái người ta sợ hăi nhất nên cũng
khổ. Khổ đó từ những tập nhân phiền
năo mà ra. Khổ chẳng qua là quả thôi, các tập nhân mới
là nguyên nhân tạo khổ. Cho nên muốn dứt khổ phải
trừ từ các tập nhân. Nhận ra khổ và tập
nhân gây khổ rồi, đức Phật mới dạy
sang phương pháp trừ bỏ tập nhân khổ gọi
là đạo đế. Hết khổ đến
được chỗ an vui gọi là diệt đế.
Con đường để thực hiện hết tập
nhân khổ là các ông phải sống chân chính, đừng
nghĩ sai, nói sai, làm sai. Đó là con đường Bát
chánh đạo, con đường không dính bên này không mắc
bên kia. Hầu hết kinh điển
Đại thừa Phật dạy, muốn cho ḿnh trót lọt
đến nơi đến chốn, đừng vướng
bờ này, đừng mắc bờ kia, đừng bị
hủy thể giữa ḍng, không bị ma quỷ ốp, nhất
định phải đi con đường trung đạo
đệ nhất nghĩa đế. Bây giờ không phải
Khổ đế, không phải Tập đế, không phải
Diệt đế, không phải Đạo đế mà là
Trung đạo đệ nhất nghĩa đế, nó
trót lọt, vượt qua hết. Phật nói giản dị,
bài pháp chỉ có năm phút đồng hồ, năm vị
bạn đồng tu chứng thánh quả, trở thành
năm vị đại thánh A-la-hán. Chúng ta thấy con mắt
trí tuệ khi mở ra th́ chuyển hóa rất nhanh, rất
an toàn. Thế nên Phật dạy: Thế
gian vốn vô thường, Cơi
nước rất mong manh, Thân
tứ đại khổ, không, Năm
ấm là vô ngă, Luôn
sinh diệt biến đổi, Giả
dối không có chủ, Tâm
là nguồn việc ác, Thân
là rừng tạo tội, Nếu
mở được cửa này, Thay
đổi được quan điểm, Thường
tu tập như vậy, Th́
sẽ thoát sinh tử. “Thế gian vốn vô thường”,
biết tất cả mọi thứ trên thế gian đều
vô thường. Vô thường là ǵ? Là sự đổi
thay lớn lao mà không ai có thể ngăn cản được.
Tất cả chúng ta cho tới muôn sự muôn vật chung
quanh đều bị vô thường chi phối. Chúng ta cũng
thấy biết vô thường nhưng vẫn cứ b́nh
thường, chứ không chịu thức tỉnh. Như
hôm nào chùm tóc của ḿnh đen thui, bây giờ trắng hết
chỗ này. Ai làm nó trắng? Vô thường làm nó trắng.
Ta thử nh́n gương mặt của ta, hồi mười
mấy tuổi cho tới bốn năm mươi tuổi,
vẫn tên họ như thế nhưng thay đổi hết.
Hồi xưa gương mặt hơi bầu bầu
đầy đầy, bây giờ nó dài dài xuống, hủn
chỗ này lỏm chỗ kia. Ngộ quá! Ḿnh đâu có muốn
như vậy. Hay hàm răng đổi chừng vài cái th́
miệng của ḿnh nó kỳ lắm, xấu lắm. Sự
thay đổi không ai muốn mà nó cứ thay đổi.
Chúng ta luôn luôn muốn toàn vẹn, muốn an ổn như
thuở nào, nhưng vô thường không cho phép. Con người
đối phó với vô thường thật điên đầu.
Không ai chống trái được, thiên hạ đều
khóc, đều run sợ hết. Bà cụ kia có thằng con trai
cưng lắm, học rất giỏi nhưng khi thi tú tài
một xong, bỗng nhiên nổi chướng không chịu
học nữa. Bà bắt nó phải đi học, nó không
nghe và bỏ nhà đi. Sau đó la cà tập tành theo bạn
bè hút thuốc uống rượu, chơi bời đủ
thứ chuyện. Thời gian không bao lâu, thấy nó tàn tạ
quá, bà mẹ khổ sở vô cùng nên dẫn vô Thường
Chiếu cạo quách cái đầu, cho mày học làm thầy
chùa, quét lá đa ăn cơm qua ngày, mai ra thay đổi
tâm tánh. Khuya ba giờ, mấy thầy kêu dậy, ảnh
nói “ở nhà không có dậy ba giờ, bảy giờ kêu dậy
chưa chắc dậy tui đă dậy, chứ mấy ông
kêu ba giờ!”. Mấy thầy ở đây cũng cứng
lắm. Không dậy, ông lấy nước đổ
ướt hết, phải dậy thôi. Đổ vài lần
ảnh quen không thèm dậy, mấy thầy lấy nhang
đốt cặm chung quanh, ảnh ngủ không được
nhưng không dám cục kịt sợ bị phỏng, rồi
cũng phải dậy. Dậy mà không thèm đi rửa mặt,
ngồi đó. Mấy thầy bắt lên chùa ngồi thiền,
ban đầu ảnh không chịu lên nhưng cuối cùng
cũng phải dẫn xác lên. Ngồi thiền bữa
đầu đau quá muốn thối lui. Mấy thầy bảo
rán lên, ở đây ban đầu ai cũng đau vậy
đó, bây giờ hết rồi. Một thầy đứa
cái chân ra nói coi đi, cái chân của thầy móp vô, chỗ
đó bầm hết, da lột ra. Nó nói: “Trời ơi!
Thuở nay con chưa từng học được mấy
cái này, bây giờ con quyết tâm học. Nó phát nguyện học”.
Thời gian khoảng một tháng nó ngồi thiền
được, từ từ ngồi lên một tiếng
rồi tiếng rưởi. Quư thầy nói chừng nào ngồi
thiền tự tại là thành công. Nó hỏi “ngồi tự
tại là sao ?” Ngồi tự tại là muốn ngồi
bao nhiêu th́ ngồi, không thấy đau nữa. Nếu tự
tại được một cái này th́ tất cả những
cái khác cũng làm chủ được, bấy giờ
ḿnh tự tại với sanh tử. Cho tới bây giờ ảnh rất
tiến bộ. Khuya ba giờ đánh kiểng thức
chúng là ảnh dậy, khỏi phải kêu. Dậy rồi
đi rửa mặt lên ngồi thiền, không phải nhắc
nhở. Sáng ra cũng đi làm công tác tự nhiên, tới
giờ thọ trai đi thọ trai, tới giờ tụng
kinh sám hối đi tụng kinh sám hối. Anh đem bài học
thuộc ḷng này về tŕnh với mẹ, bà mẹ vui lắm.
Bà nói rằng: “Ngày xưa tưởng đâu con chết rồi.
Mẹ chỉ có một ḿnh con thôi mà con hư hỏng, mẹ
khổ sở biết chừng nào. Bây giờ con được
như vầy mẹ mừng quá trời đất”. Bà mẹ
đă chọn được một nơi cho con ḿnh
nương thân, ở đó nó mở cửa trí tuệ,
phát huy cái đặc biệt nơi con người ḿnh.
Cái đặc biệt này ai cũng có thể làm được,
phát huy được, nhưng nếu yếu đuối
một chút th́ không được ǵ hết. Yếu đuối
là ví dụ như ngồi thiền đau chân quá, không rán nữa
gỡ chân ra th́ cứ tới mức đó là gỡ ra
thôi, không rán được thêm tí nào hết. Bởi vậy
chuyện tu hành, nhiều khi b́nh thường thôi mà ḿnh
không quyết tâm, không được hướng dẫn
kỹ lưỡng chu đáo, không có duyên tốt, kém ư chí
th́ không làm được. Khó lắm chứ không phải
dễ đâu. Cửa vô thường không tha bất
cứ một ai. Cho nên khi ta nh́n lại thấy ḿnh lớn
lên, anh chị ḿnh cũng lớn hơn th́ cha mẹ ḿnh
đă già đă chết. Khó t́m gia đ́nh nào mà ông cố, bà
cố c̣n sống, ông nội bà nội c̣n nguyên, cha mẹ
anh chị em đầy đủ. Xưa nay trong đời
chưa có một gia đ́nh nào như vậy. Chúng ta đọc
kinh c̣n nhớ chuyện một bà mẹ có đứa con
duy nhất chín mười tuổi vừa chết. Bà khổ
sở vô cùng ẵm xác con chạy t́m thuốc cứu sống.
Chạy t́m măi không ra, cuối cùng bà t́m đến cầu
cứu đức Phật. Phật bảo: “Con đi t́m
cho đức Thế Tôn một nắm tro của nhà nào
chưa từng có người chết, đem về
đây ta sẽ cứu cho”. Người mẹ ấy v́
quá thương con nên chạy t́m khắp, nhưng không t́m
được nhà nào xưa nay chưa có người chết.
Bà trở về tŕnh lại với đức Thế Tôn.
Phật bảo: “Đúng thế, trên đời này ai cũng
phải chết, gia đ́nh nào cũng có người chết.
Ḿnh không chết th́ những người thân ḿnh chết”.
Nhờ thế bà mẹ ấy thức tỉnh không c̣n sầu
khổ ôm xác con đi t́m thuốc cứu sống lại nữa. Có nhiều đứa bé sinh ra,
chưa biết mặt cha mẹ ḿnh là ai th́ cha mẹ
đă chết. Ngày xưa lúc tôi ở Vạn Đức,
buổi khuya có người đem một đứa bé lại
bỏ trước cổng chùa. Họ ghi trong giấy là
hai mươi bốn tháng, nó nằm ngoa ngoe, kiến bu
đầy. Thầy chống gậy đi tới thấy
đứa bé, kêu mấy chú đem vô, nhờ mấy cô Phật
tử ở nhà bếp nuôi dùm. Những trường hợp
như vậy, lớn lên nó nói con không có cha mẹ hay cha
con là ông thầy, mẹ con là mấy cô công quả nhà bếp.
Nói vậy mấy ông thầy mang tiếng chết đi.
Cho tới hai mươi mấy gần ba mươi tuổi,
nó không tu mà lập gia đ́nh, bấy giờ bà mẹ mới
xuất hiện, vô năn nỉ thầy: “Ngày xưa con bị
lỗi lầm, chồng con đánh đập quá. Nếu
con không làm như vậy th́ đứa bé này bị chồng
con giết, bởi vậy con phải cam ḷng như thế”.
Cuộc đời có nhiều sự đau khổ bất
toàn như vậy. “Cơi nước rất mong manh”,
điều này cũng dễ thấy. Như vừa rồi
chúng ta nghe những vụ khủng bố, động
đất, sóng thần… thây người chết như rạ.
Cho nên Phật nói cơi nước mong manh, không bền chắc.
Như ṭa nhà bên Mỹ, nghe nói cũng chắc lắm
nhưng máy bay đâm vô cũng sập, có ǵ chắc
đâu. Nhận được lời Phật dạy
chúng ta không mê đắm theo vật chất cảnh duyên
bên ngoài là dự được vào trong ḍng thánh rồi. Nhận
tới nơi tới chốn là thấy chân lư, là kiến
đế. Nhờ thế chúng ta giảm bớt những
h́nh thức làm mất thời gian, hao sức tổn thần,
mà tập trung vận dụng trí tuệ soi chiếu lẽ
thực của tất cả các pháp. Bởi v́ nếu
không thấy được lẽ thực của các pháp,
con người sẽ khổ vô cùng. “Thân tứ đại khổ,
không”, nhà Phật nói có thân là có khổ. Ví dụ như mấy
cái răng cùng mọc ḿnh cũng đau, đau bất kỳ
chỗ nào cũng thấy khó chịu. Lần đó tôi bị
sạn thận, vô thầy Năm coi mạch. Tới
nơi thấy cô kia, trong con mắt có một cái mụt,
nó lấn làm cho con mắt trồi xuống, tôi chắc là
bệnh nhân phải đau đớn lắm. Quả
nhiên, đến hồi hỏi ra mới biết cô bị
ung thư mắt. Ḿnh bị sạn là đă nghe đau thấu
trời rồi, vậy mà cô ta bị ung thư mắt,
không biết c̣n đau tới đâu! Người bị
phong thấp viêm khớp, nay sưng chỗ này mai sưng
chỗ khác cũng khổ. Bệnh nhân sức dầu giảm
đây nó sưng kia. Kệ nó, nó sưng chỗ nào th́
sưng, thay đổi riết cũng quen. Đầu gối
đau, trên cổ tay cũng đau, tuy nhiên không đến
đỗi, c̣n nhè trên mặt trên mắt mà lở loét th́ thật
chướng đời. Đó là những thay đổi
bệnh thật của thân mà chúng ta không làm chủ
được, khổ như vậy đó. Thân ngũ uẩn là sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Sắc là sắc chất, gồm
bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong. Thọ,
tưởng, hành, thức thuộc về tâm. Thọ là cảm
thọ, tưởng là tưởng tượng, hành là những
suy nghĩ biến đổi, thức là sự phân biệt.
Năm uẩn này luôn luôn thay đổi. Bởi thế hồi
sáng gương mặt của ḿnh tươi, đến
trưa nghe ai nói ǵ không bằng ḷng ḿnh nổi giận, mắt
trợn trừng, miệng méo môi giựt, gương mặt
thay đổi tức th́. Lát sau mấy người trong
nhà an ủi, ḿnh vui lên, hết hung tợn như khi
trưa. Vui buồn thay đổi liên tục, làm thân tâm
chúng ta dao động bất an. Hễ vui th́ chân mài ngang tầm
dễ coi, c̣n nổi giận lên th́ chân mài dựng ngược,
mặt đỏ gay nh́n thấy phát sợ. V́ vậy Phật
nói nó không thật, không cố định, thân tứ đại
là khổ, không. Thiền sư Tông Bổn, tác giả
quyển “Sơn Cư Bách Vịnh” mới mười hai
mười ba tuổi đă nhận ra điều này.
Trong gia đ́nh Ngài có một người cậu tuổi
tác tương đương nên rất thân nhau. Ông cậu
lớn hơn vài tuổi, nhưng tâm t́nh cả hai rất
hợp. Bữa đó Ngài đến rủ cậu đi
chơi mà sao thấy cậu nằm hoài không chịu dậy.
Ngài hỏi mẹ: - Sao bữa nay ông cậu nằm
không dậy? Mẹ Ngài nói: - Con đi ra ngoài chơi đừng
động đến cậu, cậu chết rồi. Ngài hỏi: - Chết là sao hả mẹ? Bà mẹ giải thích một hồi,
Ngài hỏi tiếp: - Sao lại chết, cậu chết
rồi mai mốt con có chết không? - Chết chứ, mẹ cũng
chết, con cũng chết, ba của con cũng chết,
tất cả người trong nhà này đều phải
chết hết. Ngài hoảng lên hỏi: - Nếu vậy, sau này con sống
với ai? Bà mẹ không trả lời
được. Sự thắc mắc đó không
ai giải quyết được. Cuối cùng hôm ấy
có mấy vị thầy trên núi về, ghé thăm nhà Ngài.
Thiền sư hỏi: - Thưa mẹ, mấy ông này là
ai? - Là mấy thầy. - Mấy thầy làm ǵ? - Mấy thầy tu. - Thưa mẹ, mấy thầy
tu có thể biết được mai mốt con ở với
ai không? - Con hỏi đi, chắc có lẽ
mấy thầy biết. Ngài lại hỏi mấy thầy:
- Thưa thầy, mai mốt mẹ
con chết, tất cả người trong nhà chết hết,
con ở với ai? - Con ở với thầy. - Vậy giờ con theo thầy
được không? - Ở với thầy th́ theo thầy
chứ sao! Ngài liền nói với mẹ chuẩn
bị đồ đạt theo mấy thầy về núi.
Vài năm sau Ngài ngộ đạo, trở thành một vị
thiền sư đặc biệt. Đặc biệt nhất
của Ngài là thấu triệt được những sự
đổi thay mất mát của con người trong cuộc
đời. Cho nên những lời Ngài dạy trong “Sơn
cư bách vịnh” nói lên được phong thái của một
thiền tăng tự tại ở núi. Một người
tu ở núi một ḿnh không có chùa to, không có đệ tử
là quá tự tại rồi. Nhà tranh, cửa tre, thật
đơn sơ giản dị, ung dung thanh thản, không
ǵ có thể buộc ràng, quả đúng với hai chữ
“tự tại”. “Các pháp không chủ”, các pháp do
duyên sinh, không có chủ thể cố định. Ví dụ
chủ của cái nhà này là ai? Chắc có lẽ là người
sáng lập, phải không? Thật ra không có ai là chủ cả.
Cái nhà từ vọng tưởng của người sáng
lập hợp với các thứ nhân duyên khác như cột,
kèo, trính, xuyên… công thợ chung hợp tạo thành h́nh thức
như thế này gọi là cái nhà. Bây giờ tháo gỡ ra
ra hết, hỏi “Cái kèo là nhà phải không?” “Không phải,
nó chỉ là một khúc gỗ”. T́m trong vách tường cũng
không có chủ, trên nóc nhà cũng không có chủ, chỗ nào
cũng không có chủ hết. Cái nhà là do con người giả
định đặt ra, gọi đây là Pháp Đường,
Trai Đường, Thiền Đường, điện
Phật v.v... tùy theo công dụng của mỗi nơi mà có
tên khác, c̣n chủ thể của nó th́ không có. Thân chúng ta cũng vậy, không
t́m ra được chủ thể. Từ đầu, mắt,
tay, chân, mặt, mũi… hơp lại, thành ra thân. Bây giờ
gỡ từng bộ phận ra, hỏi mỗi thứ có
phải là thân không th́ rơ ràng không phải. Như cái tay của
ḿnh lỡ có sự cố, người ta tháo khớp thảy
ra, hỏi cái này phải tay của ông không? Nói không phải,
cái tay tôi hư rồi. Khi cái tay c̣n trên thân th́ nói của
ḿnh, vừa bỏ ra lại bảo không phải của
ḿnh. Rơ ràng không có ǵ thật, không có ǵ cố định.
Đạo Phật dạy cho chúng ta có cái nh́n không thiên lệch,
không cố chấp, các pháp luôn đổi thay và không có chủ
tể. Phật nói thế gian vô thường
nhưng v́ chúng sanh chấp là thường nên khổ. Càng
chấp càng ǵn giữ, càng bảo tŕ th́ càng khổ. V́ chắc
chắn giữ không được. Phật tử biết
rơ thân này giả hợp, ta nên dùng nó để tập trung
hoán chuyển những quan niệm sai lầm, những cái
nh́n không đúng chân lư, từ đó thoát khỏi sự trói
buộc của thân. Ai thường thấy biết
như vậy, sống thực với những hiểu biết
chân chánh th́ dần dần hết khổ, là người
sáng đạo, được dự vào ḍng Thánh. Ví dụ
như bây giờ có ai tới gơ vào thân ḿnh, hỏi “thiệt
không?”, ta nên nói thiệt hay nói không thiệt? Nếu nói
không thiệt họ đánh cho một cái chắc đau lắm.
Ḿnh nói “Không thiệt nhưng đang tạm dùng nên cũng
phải nương tay”. Mong chư huynh đệ hiểu
rơ những ǵ Phật dạy, mở những cánh cửa
tu hành ra để bước vào đạo lộ giác ngộ
giải thoát. |