NGUYỆN XƯA C̉N ĐÓ H.T
THÍCH NHẬT QUANG |
||
|
||
NHẸ NHÀNG ĐỂ TU Buổi nói chuyện hôm nay, chúng
tôi nói đề tài “Tu một cách nhẹ nhàng”. Chúng ta cùng
nhau ôn lại gương của các vị tu hành thuở
trước để Phật tử bắt chước
theo đó mà tu. Như chúng tôi đă nói rất
nhiều lần, không phải đợi xuất gia, ở
chùa, có điều kiện thuận lợi đầy
đủ ta mới tu. Với hoàn cảnh hết sức
b́nh thường, làm sao phổ được việc tu
vào trong sinh hoạt thường nhật một cách chậm
răi, nhẹ nhàng, từng bước từng bước,
song mỗi bước đều chắc thực, không trợt
té bao giờ. Nghĩa là chúng ta không bao giờ thối lùi
mà luôn tiến lên. Thà đi chậm, mà đi bước
nào chắc bước nấy, chớ đừng đi
nhanh rồi dễ té ngă hoặc thoái hóa, không tốt. Người biết tu là tu trong
ăn mặc ngủ nghỉ, tất cả sinh hoạt của
ḿnh. Ngày xưa các bậc tôn trưởng, nhất là thời
đức Phật c̣n tại thế, những vị làm
việc lớn, làm gương cho chúng đều là những
vị đời sống hết sức b́nh thường,
trong việc ăn việc nghỉ, làm việc, tiếp
xúc… không có ǵ cầu kỳ khác lạ. Các ngài không thể
hiện thần thông lực dụng hoặc tư cách siêu
việt mà người đời không vói tới. Các Ngài
là những con người rất b́nh thường như
chúng ta nhưng tu tập rất thành công. Thời Phật c̣n tại thế,
hai vị đại đệ tử đại diện
cho Phật coi sóc ổn định việc trong chúng là Tôn
giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Mục-kiền-liên. Kế
đến có các ngài như A-nan, Phú-lâu-na, Ca-diếp, Tu-bồ-đề,
Ca-chiên-diên… những vị này có đời sống sinh hoạt
rất b́nh thường, không có ǵ cầu kỳ, cũng
không có ưu thế đặc biệt của thần
linh nào ban cho. Chính hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên
trước khi gặp Phật cũng vất vả lắm,
các Ngài trải qua những khó khăn tu tập theo ngoại
đạo và đă thành công. Nhưng sau đó phát hiện
kết quả của ngoại đạo không đi tới
giác ngộ giải thoát, không giải quyết tận
căn để mầm mống khổ đau sanh tử
luân hồi của con người, nên các ngài mới quy
hướng theo đức Phật. Bằng ư chí, nguyện lực và
trí tuệ của ḿnh, các ngài tu tập theo sự hướng
dẫn của đức Thế Tôn, đă tự chiến
thắng ḿnh, thành tựu Thánh quả và chói sáng hào quang
trong số đại đệ tử của Như Lai.
Các ngài bước bước nào là chắc chắn bước
ấy, chứ không bước trượt, cũng không
nhảy vọt rồi khựng lại hay thoái hóa. Như trường hợp Ngài
A-thù là một bậc tu hành chân chánh, lại thuộc ḍng họ
Thích-ca. Pháp hội của Ngài có rất nhiều cư sĩ
tu hành đạt kết quả tốt. Trong số đó
có một cư sĩ lớn tuổi, hiểu và áp dụng
được Phật pháp vào đời sống nên ông rất
hoan hỷ, không có niềm vui nào sánh kịp sự tu hành hằng
ngày của ông. Do đó đạo tâm tăng trưởng,
trí tuệ tăng trưởng, niềm vui tăng trưởng.
Nhưng c̣n một chút xíu là ông có hai người thân, một
là cậu con trai c̣n nhỏ tuổi, hai là đứa cháu
trai cũng nhỏ tuổi. Cả hai đều là người
thừa kế trong tông tộc, nhưng rất tiếc c̣n
nhỏ quá. Ông biết ḿnh lớn tuổi, mạng sống
không bao lâu, bây giờ phải kư thác gia sản như thế
nào để sau này hai người có điều kiện
kế thừa. Ông liền đến bạch với
ngài A-thù: “Bạch ngài! Con có một số tài sản mà một
đứa con trai và một đứa cháu trai c̣n nhỏ
quá, con không biết phải giao cho đứa nào. Sau này, nếu
con có qua đời, hai đứa nó lớn lên, ngài thấy
đứa nào tin kính Tam bảo th́ được kế
thừa sự sản của con”. Tôn giả A-thù với
tư cách là thầy mà cũng là người trong gịng tộc,
nên ngài hoan hỷ nhận lời. Khi hai đứa nhỏ
lớn lên, người con không được kế thừa
mà người cháu được kế thừa. V́
người cháu theo sự hướng dẫn của ngài
A-thù, tu hành tăng tiến, vững niềm tin đối
với Tam bảo, phát huy đạo hạnh, trí tuệ của
ḿnh đúng như sở nguyện của vị cư sĩ
khi c̣n sinh tiền. Một hôm người con của
vị cư sĩ đến thăm Tôn giả A-nan, bạch
với ngài rằng: “Thưa ngài! Thường như cha mẹ
chết, của cải để lại, ai là người
được kế thừa?” Tôn giả trả lời:
“Cha mẹ để của lại th́ con kế thừa
chứ ai nữa”. Vị này nghe nói như thế, thưa
tiếp: “Vậy tại sao khi cha tôi chết, Tôn giả
A-thù lại sắp đặt cho người cháu kế
thừa, mà tôi không được kế thừa?”. Ngài
A-nan nghe tŕnh bày như thế, mới gặp A-thù hỏi
qua sự t́nh. Từ đó hai Tôn giả bất đồng
quan điểm với nhau về sự việc này. Bấy giờ một số các
vị trong gịng họ Thích, thấy hai Tôn giả chung gịng
tộc lại có ư kiến bất ḥa như thế, khiến
đại chúng xôn xao nên họ t́m cách để hai vị
dung ḥa trở lại. Một hôm La-hầu-la đến,
Phật tử mới họp lại tŕnh bày sự việc
trên, đồng thời cho biết phía quần chúng chấp
thuận theo quan điểm của ngài A-thù. Họ xin Tôn
giả hoan hỷ t́m cách thức nào để hai vị
kia thuận ḥa. Ngài La-hầu-la nói: “Không có ǵ lạ, hôm nào
Tôn giả A-nan đến, các vị ra đón ngài, ai có con
nhỏ ẵm theo. Khi chào Tôn giả xong, thả mấy
đứa nhỏ xuống. Chúng sẽ khóc. Bấy giờ
Tôn giả có hỏi tại sao các ngươi lại
đành ḷng bỏ con như thế, các vị trả lời
“Cái đau ḷng này không bằng sự kiện xảy ra giữa
hai Tôn giả không ḥa hợp nhau. Bao giờ hai vị ḥa hợp
nhau, chúng tôi mới ẵm chúng lên”. Đó là kế sách Tôn
giả La-hầu-la bày ra để hai vị Tôn trưởng
thông cảm ḥa hợp nhau. Đúng như vậy, ngài A-nan
đến, hàng mấy trăm phụ nữ Phật tử
gịng họ Thích-ca ẵm con ra vui mừng đón Ngài, sau
đó bỏ mấy đứa nhỏ xuống đất
hết, chúng khóc la um sùm. Ngài A-nan thắc mắc: “Lạ
thế, v́ sao bữa nay các vị bỏ con ḿnh xuống
đất hết?” Phật tử trả lời như
La-hầu-la đă chỉ vẽ. Ngài A-nan liền họp
chúng trở lại, mời Tôn giả A-thù đến, ngài
hạ ḿnh sám hối. Bấy giờ ngài A-thù mới kể
lại lời di chúc ngày xưa của vị cư sĩ
già. Ngài A-nan hiểu ra, thông cảm và sám hối ngài A-thù.
Hai ngài ḥa hợp trở lại với nhau. Đại
chúng vô cùng hoan hỷ. Một việc hết sức
thông thường, nhưng lại bị gút. Cho nên chúng ta
thường lại vướng ở những sự việc
không đáng chi. V́ ḿnh không đủ sáng suốt, đứng
bên lề này ở lề kia, đều sanh ra gút mắc.
Làm sao đả thông được? Sau khi Tôn giả A-nan
sám hối Tôn giả A-thù rồi, sự việc được
tŕnh bày rơ ràng, cả hai vị đều muốn đạo
giáo thịnh hành, Phật tử tin kính Tam bảo, tu hành
theo sự hướng dẫn của chư tăng, tu
hành có kết quả. V́ lư tưởng chung như thế,
nên phải dẹp hết những gút mắc riêng tư. Chúng ta cũng thế. Những
mâu thuẫn nhỏ nếu không được giải tỏa,
tháo gỡ th́ càng ngày càng có những ranh vức, gai gốc,
sự cố xảy ra rồi cứ trôi xa dần như
nước xa nguồn, cuối cùng đi đến chỗ
chia rẽ bên này bên kia rồi dẫn tới chiến
tranh. Qua câu chuyện, chúng ta thấy ngay trong cuộc sống
của ḿnh, từ những ư niệm, lời nói nếu
chưa kiểm soát kịp sẽ dẫn tới những
hậu quả đáng tiếc. Khi có một người
nào đóng góp ư kiến, ḿnh phải chịu khó lắng
nghe. Chịu khó nghe để t́m sự cảm thông, cùng giải
quyết cho ôn ḥa. Nếu ta cứ khư khư giữ ư
kiến của ḿnh cho là đúng, th́ làm sao phổ
được đạo lư trong đời sống.
Như thế việc tu hành rất khó khăn, càng tu càng
thấy gai góc hiểm trở, không thể vượt qua
được. Ḥa thượng thường dạy
những ư tưởng, những sắp đặt, những
cơ đồ sự nghiệp, tất cả mọi thứ
đều tựa trên một hơi thở mượn
vào, trả ra. Sự vay mượn này cắt đứt
th́ thôi, tất cả đều buông. Dù cho sự nghiệp
ǵ, sắp xếp lớn lao bao nhiêu, hơi thở không c̣n
nữa th́ đứt, không có ǵ để nói nữa. Nhất
là thời điểm của chúng ta, những sự cố
bệnh hoạn, thiên tai, ngày càng dồn dập. Có những
vị cách đó năm ba phút c̣n đứng trước mọi
người tŕnh bày vấn đề này kia, tŕnh bày quan
điểm ư kiến của ḿnh, nhưng vài phút sau đó,
khi mà sư vay mượn không c̣n nữa th́ tất cả
đều buông, buông trong đột ngột. Đó là những
bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy cuộc
đời mong manh giả tạm là vậy. Người tu Phật, hơn ai
hết, làm sao trong sinh hoạt hằng ngày, bỏ hết
những gây cấn, xếp đặt sinh hoạt một
cách hết sức nhẹ nhàng. Lời của tổ Nhân
Tông dạy thật thâm thúy vô cùng “Ở đời vui
đạo hăy tùy duyên” hay một cổ đức khác có
nói “Nhập thế th́ phải tùy duyên, đó là điều
không thể chê trách được”. Như câu chuyện
tôi vừa kể, chúng ta thấy cở như Tôn giả
A-nan mà sẵn sàng hạ ḿnh sám hối người huynh
đệ để giữ ǵn ḥa khí tu hành. Chúng ta đừng
quan niệm các ngài là Thánh mới làm được chuyện
đó, c̣n chúng ta phàm phu tục tử không thể làm
được. Không phải thế. Chúng ta cũng có khả
năng ấy, người xưa được như
thế, ta cũng phải được như thế,
đừng ôm ḷng tự ti mặc cảm mà không thể tiến
đạo. Người tu nếu v́ danh lợi
mà sân si tật đố, phá ḥa hợp tăng, đó là
điều đáng buồn nhất. Cho nên chúng ta phải
khắc phục, khống chế tham sân điên đảo,
sự tu mới tiến. Đừng để tham si xen
vô, nó khuynh loát làm đảo loạn công phu của ḿnh. Tu
mà không chịu sửa đổi là có tội. Nếu ai cũng
nuôi dưỡng tập khí tham sân si th́ không thể gọi
là người tu được. Khi nhận thấy khuyết
điểm, hạ ḿnh sám hối tức khắc, đó là
con người đáng quư. Điều này cũng đâu phải
quá khó khăn, đâu phải đóng cửa tụng
năm mười lần kinh Bát-nhă, kinh Di Đà, kinh Kim
Cương… Tụng kinh cho nhiều mà người ta
đụng tới ong óng lên, như thế Phật nào chứng
cho. Kinh Bát-nhă nói ǵ? Nói một hơi thở ra không bảo
đảm lấy lại. Bây giờ ḿnh phải tạo
đạo tràng trong mọi khung cảnh, mọi thời
gian, làm sao tu tiến được. Muốn thế
đâu có ǵ khó, với điều kiện là đừng
tham, đừng sân đừng si, bỏ đi những
điên loạn lăng xăng vướng mắc ngược
xuôi, như vậy nhất định quư vị tu
được. Tôn giả Xá-lợi-phất là vị
trí tuệ bậc nhất, Tôn giả Mục-kiền-liên
là vị thần thông bậc nhất. Ngài Mục-kiền-liên
dùng thần thông t́m thấy mẹ đọa xuống
địa ngục, khổ sở đói khát cùng cực.
Xót xa ngài quay về bưng một bát cơm đầy xuống
cho mẹ dùng, nhưng bà đâu có dùng được. Thấy
cơm bà mừng khấp khởi, một tay che cho đừng
ai thấy, một tay bốc ăn nhưng đưa vô miệng
cơm hóa thành than, lửa cháy lên. Tại v́ tâm bà đang
cháy bởi lửa tham lam bỏn sẻn, nên thứ ǵ
đưa vô cũng thành lửa hết. Thế là đói vẫn
cứ đói, khổ vẫn cứ khổ. Sau này ngài Mục-kiền-liên
phải quay về tŕnh bạch lên đức Thế Tôn, rồi
thỉnh cầu chư tăng mười phương,
cùng nhất tâm hộ niệm nguyện mẹ ngài chuyển
tâm mới mong thoát khổ. Nhờ lực dụng lớn
lao ấy mới cứu được mẹ, chớ thần
thông bản thân ngài không làm ǵ được. Hôm đó tôn giả Xá-lợi-phất
và tôn giả Mục-kiền-liên trên đường du hóa
về gặp bọn ngoại đạo lơa h́nh. Nhóm ngoại
đạo này không biết tu kiểu ǵ mà họ không mặc
quần áo, thân thể họ bôi tro bôi bùn. Trong đó có những
hạng trưởng giả giàu sang quyền quư lắm chứ,
không phải nghèo thiếu ǵ đâu. Nhưng khi phát tâm tu, họ
buông bỏ hết của cải, không mặc quần áo,
bôi tro bôi đất đầy người, đứng
ngoài trời. Họ đi khất thực bằng cách ai
cho cái ǵ, họ đưa tay cho vô miệng luôn. Bởi v́
họ không c̣n cái ǵ để đựng chứa đồ
ăn cả. Thật là nó dơ dáy kinh khủng, nhưng họ
làm được cũng hay chứ! Nhóm ngoại đạo
lơa h́nh này đón đường không cho hai tôn giả
đi qua. Bao giờ quí Ngài trả lời được
những câu hỏi của họ th́ mới có thể
đi. Họ hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: - Ở trong chúng chánh mạng có
Sa-môn quả không? Chúng chánh mạng là chỉ cho ngoại
đạo. Họ tự xưng ḿnh là chúng chánh mạng. Ngài Xá-lợi-phất trả lời:
- Chúng chánh mạng Sa-môn quả
không. Ngài muốn nói trong chúng chánh mạng
không có quả Sa-môn. Nhưng cách nói ấy làm cho ngoại
đạo không hiểu được. Họ hỏi tiếp: - Chúng Thích-ca có Sa-môn quả
không? Chúng Thích-ca là chỉ cho đệ
tử Phật. Ngài Xá-lợi-phất trả lời: - Chúng Thích-ca Sa-môn quả. Nghĩa là trong chúng đệ tử
Phật có quả sa-môn. Hỏi: - A-la-hán c̣n tham ái không? - Nếu A-la-hán c̣n tham ái là không
có kẻ ngu si. Câu nói này nghe thật khó hiểu.
Nghĩa là các vị A-la-hán mà c̣n tham ái, th́ trên đời
này không c̣n những kẻ ngu si. Bởi v́ các vị A-la-hán
không có tham ái nên chúng sinh ngu si dẫy đầy, ở
đây muốn ám chỉ các vị lơa h́nh. Ngoại đạo
nghe rườm rà quá, cứ tưởng Tôn giả Xá-lợi-phất
nói như thế là khen ngợi đạo giáo của họ,
do đó họ mở đường cho ngài đi qua. Xá-lợi-phất
thoát nạn. Nhưng đến ngài Mục-kiền-liên, họ
lặp lại những câu hỏi đó, Tôn giả trả
lời: - Trong chúng của các ông làm ǵ có
Sa-môn quả. Ngài phủ nhận một cách trắng
trợn, coi như cái búa đập vô đầu của mấy
nhà khổ hạnh lơa thể này. Câu nói ấy dẫn tới
hậu quả Tôn giả Mục-kiền-liên bị bọn
ngoại đạo lơa thể vây đánh bầm tím cả
người, máu me lênh láng, ngài không phản ứng ǵ hết.
Hồi xưa các vị thánh hành hạnh thật đặc
biệt. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất phải
lấy đại y Tăng-già-lê của ḿnh làm vơng
đưa Tôn giả Mục-kiền-liên về tinh xá. Khi về đến tinh xá, đại
chúng lấy làm lạ, nói: “Tôn giả Mục-kiền-liên
là một vị thần thông bậc nhất, tại sao
không thoát khỏi gậy gộc của đám ngoại
đạo lơa h́nh, đến nỗi bị đ̣n như
vậy, thật vô lư!”. Ngài trả lời: “Khi nghiệp quả
đến rồi th́ không thoát được, phải trả
thôi”. Sau đó ngài viên tịch, hài cốt thiêu xong. Đức
Thế Tôn ở giữa đại chúng nói: “Đây là hài cốt
của Tôn giả Mục-kiền-liên, các vị tôn thờ
quư kính, là một vị thánh khẳng khái, dám nói thẳng.
Đây gọi là thánh tử đạo, dám hy sinh trả nợ
của ḿnh để làm sáng đạo giáo”. Ở đây tôi muốn nhấn
mạnh điểm, cũng trong một câu trả lời
mà Tôn giả Xá-lợi-phất thoát nạn, c̣n Tôn giả Mục-kiền-liên
phải trả nợ. Chúng ta không phải là những
người học kỹ thuật, quanh co để
được an ổn, nhưng đôi khi cũng cần
khéo léo, tế nhị, vừa ổn định được
hiện trường vừa giữ được tư
cách đạo giáo của ḿnh. Điều này đ̣i hỏi
ḿnh phải sáng suốt. Tuy nhiên cũng phải quán triệt
luật nhân quả, khi nào trả quả th́ mạnh dạn
trả, chứ không trốn tránh. Tùy phương tiện,
tùy thời cơ, tùy hoàn cảnh, làm sao vừa giữ ḿnh
vừa tu hành được, chứng tỏ cho đối
phương thấy được đạo lư, chủ
trương của ḿnh. Cho nên với trí tuệ của
ḿnh, tôn giả xá-lợi-phầt đă chiến thắng
được ngoại đạo. Gương hạnh
ngày xưa như thế, bây giờ chúng ta cố gắng
làm thế nào phát huy được trí tuệ của ḿnh. Qua cái chết của Tôn giả
Mục-kiền-liên, đức Phật nói: “Này tất cả
các thầy Tỳ-kheo, các thầy hăy chiêm ngưỡng hài
cốt của Mục-kiền-liên, đă mang sắc thân
th́ chắc chắn c̣n nghiệp phải trả”. Đây là
điều chúng ta cần học, thần thông không đối
địch được với nghiệp lực. Phật
dạy: “…… Đă mang sắc thân th́ chắc chắn c̣n nghiệp
phải trả, nhục thể phải chịu luật
vô thường”. Luật như thế, hễ c̣n thân tứ
đại này th́ c̣n bị vô thường chi phối. Nó
mài giũa từng chút một. Con người mạnh khỏe
rồi già bệnh, tóc bạc, răng long, đi lụm cụm,
bệnh hoạn rồi chết, đổi thay liên tục
không dừng. C̣n mang sắc thân này th́ chắc chắn phải
trả nghiệp, không chạy đàng nào khỏi. Phật thường nói “Bồ-tát
sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, chúng ta nhân th́ không lo tu
mà cứ sợ quả. Nhiều người hằng ngày
nôm nốp lo sợ, sợ cái ǵ? Sợ ḿnh mau già. Có
người nói: Tu hành không có con cái, không biết mai mốt
bệnh ai nuôi, nằm bù lăn bù lóc, khổ dữ. Cứ
nôm nốp lo như thế. Chúng ta tin chắc c̣n thân là c̣n
bệnh, bệnh không dành riêng cho ai hết. Người lớn
tuổi, người nhỏ tuổi, người giàu
sang, người nghèo khổ… ai cũng có bệnh. Dân gian
thường nói “Trời kêu ai nấy dạ”, là ư này. Cho
nên chúng ta phải tỉnh táo phấn chấn lên, hiểu
rơ c̣n thân này th́ c̣n bệnh, vui vẻ chấp nhận, không
lo sợ ǵ cả. Các vị thiền sư nói “Giả
dụ như ngay bây giờ ḿnh mang những thứ bệnh
độc hại nhất, phải chết. Mọi
người gớm ghiếc, ḿnh cũng vẫn
tươi cười, giữ vững niềm tin đối
với Tam bảo.” Biết chắc rằng thân này giả
tạm, luôn có bệnh như thế. Quư vị thấy
như bệnh ung thư, đâu phải từ bên Tây bay tấp
vô ḿnh. Con vi trùng ung thư sẵn trong người, gặp
duyên nó phát triển thành ra bệnh. Bệnh lao phổi, bệnh
lớn tim, bệnh lở loét bao tử ǵ đó, ai cũng
có sẵn hết. Nếu ḿnh không khéo th́ thành bệnh. Nói
khéo là khéo làm sao? Khéo hạn chế tới đâu tốt tới
đó, chớ không phải nói khéo là hoàn toàn không bị bệnh.
Ví dụ quí vị biết cái bao tử, cái tỳ vị,
cái ruột của ḿnh lạnh, mà mỗi ngày cứ uống
nước đá vô th́ làm sao khỏi bệnh. Hay ḿnh biết
cái gan nóng, nó sắp sơ tới nơi mà cứ hút thuốc
lá với uống cà phê đen vô th́ làm sao khỏi bệnh?
Đó là khéo, biết tật xấu th́ ngừa, mai ra đỡ
bệnh. Chứ c̣n th́ ai cũng bệnh và bệnh nào cũng
chết hết. Luật sanh diệt là như vậy. Ai cũng bị luật vô
thường chi phối, nghiệp tập ai cũng phải
trả. Do đó Phật dạy: “Sinh tử trả nghiệp
là chuyện thường t́nh, không có ǵ phải hoang mang lo
sợ”. Đó là câu nói gần như chân lư. Sinh tử trả
nghiệp là chuyện thường t́nh. Khi chúng ta nhận
được như vậy rồi th́ c̣n lo sợ cái ǵ!
C̣n lo sợ là thấy nó không b́nh thường, thấy nó
vĩ đại to lớn quá đi. Nếu thấy nó
thường thôi, chết không sợ th́ sợ cái ǵ nữa?
Người Phật tử chết không sợ mới giữ
đạo, mới tu hành được, chứ c̣n sợ
chết sợ ma th́ tu không nổi. Phải gan như vậy. Khi xả báo thân con người
không nên mê muội, oán thù và sân giận. Lúc bệnh sắp
chết, chúng ta b́nh tĩnh, đừng mê muội, đừng
oán thù, đừng sân hận ǵ hết. Muốn được
như thế phải tu ngay bây giờ. Phật tử tập
buông bỏ cố chấp về thân, về cảnh, về
tâm của ḿnh th́ mới b́nh tĩnh, sáng suốt được.
Bây giờ c̣n chấp c̣n nắm là c̣n mê. Dù quư vị học
giỏi bao nhiêu, bằng cấp cao cỡ nào mà c̣n chấp
là c̣n mê. Kể cả hành Tăng Ni xuất gia đă nghiên
cứu học hỏi Phật pháp mười năm hai
mươi năm, mà c̣n vấn đền nào đó
chưa thông, c̣n bám vào đó là c̣n mê. C̣n mê th́ khó đảm
bảo được an ổn khi xả báo thân này. Đó
là gốc của sự tu. Nói về oán thù, chúng ta đă thấy
tất cả pháp không thật th́ oán thù cái ǵ? Như
người đứng trước mặt ḿnh chửi,
họ kêu gịng tộc ông bà ḿnh ra chửi. Ta thấy
người đó nói nhảm, lời nói của họ từ
những động tác của lưỡi môi răng, từ
tư tưởng xằng bậy phát ra, không có ǵ dính dáng
đến ḿnh cả. Nếu chúng ta cố chấp, nghe
người ta nói “mầy là con ḅ” tự nhiên nhận ḿnh
là con ḅ, rồi xảy ra hận thù làm sao an ổn
được. Như vậy là mê. Cho nên Phật dạy
muốn bỏ báo thân này được an lạc tự tại
th́ đừng mê, đừng oán thù, sân hận ǵ hết. Chúng ta cầu nguyện cho ḿnh an
lạc, bà con ḿnh an lạc, thầy tổ an lạc,
nhưng chưa thực hiện điều kiện tiên
quyết cốt lơi để được an lạc, chỉ
mới đốt nhang khấn nguyện th́ không bao giờ
an lạc. Chúng ta nên thực tập tu hành, sửa đổi
những cái xấu khuyết của ḿnh để
được an lạc. Như vậy việc cầu
nguyện mới chân chính, mới có kết quả thiết
thực, c̣n không chỉ là cầu nguyện suông thôi. Nếu
có kết quả cũng chỉ là hăn hữu, tùy phước
tùy duyên mà được như vậy thôi. Như quí vị
cầu cho ông già ḿnh khỏe mạnh và ông già được
khỏe theo như lời cầu nguyện. Đó là do
trong khoảng thời gian thân thể ông cụ c̣n khỏe,
gặp những loại thuốc bổ hay ăn uống
ngon, ngủ nghỉ tốt, cuộc sống thoải mái
nên có kết quả như thế. Nhưng quí vị lại
nói: “Chà! Ḿnh cầu nguyện hay quá, ông già an lạc thật”.
Không phải đâu, v́ duyên trong khoảng đó như thế.
Thật sự phải sửa phải tu ngay cốt lơi, mới
có an lạc chắc thật. Trong các nghiệp, “Cận tử
nghiệp” là nghiệp nặng nhất. Có những nghiệp
trong nhà Phật chủ trương chuyển được.
Nhưng cận tử nghiệp là nghiệp nguy hiểm,
có thể nói nặng nề quan trọng nhất. Song nó cũng
chuyển được, nhưng chuyển bằng cách
nào? Chuyển không có nghĩa là người ta đánh ḿnh,
ḿnh đánh lại; người ta chửi ḿnh ḿnh chửi
lại, mà chuyển là ḿnh đủ lực, đủ
sáng suốt không oán thù, không gây hấn, không mê muội khi
người ta chửi hoặc đánh ḿnh. Chúng ta không bị
những lời chửi làm mờ đi trí tuệ, ta hoàn
toàn bất động, tịch tĩnh khi duyên xấu
đến với ḿnh. Quư vị nên hiểu nghĩa “chuyển”
trong nhà Phật là như thế, chứ không sẽ lầm
về vấn đề chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp ngay gốc là
thấy nó không thật. Chúng ta phân tích sẽ thấy, ví dụ
người phát âm mà cái lưỡi của họ ngắn
chừng phân nửa lưỡi của ḿnh, hai môi của
họ không đủ, hàm răng không c̣n cái nào, lưỡi
cụt ngẳn, cho họ phát âm, họ nói cái ǵ? Cho dù họ
kêu tên ông già ḿnh chửi, quư vị thử nghe được
không? Nghe không được. Như vậy lời phát ra
là do kết hợp lưỡi, hai môi đầy đủ,
hai hàm răng đầy đủ, với các tác động
bên trong phát ra như thế. Nếu những duyên ấy
thiếu đi, phát âm thành ngọng ngệu, biết trúng
trật ǵ đâu. Như thế mà ḿnh chấp. Đó gọi
là chuyển ngay từ gốc. Chứ không phải suy diễn
theo kiểu “Anh chửi tôi, tôi thừa hiểu, tôi biết
luôn những nguyên nhân nào khiến anh chửi tôi”, từ
đó có đối đầu đối địch, oan
oan tương báo. Cứ thế xảy ra, kéo dài liên tục,
không bao giờ dứt. Anh chửi tôi một lời, tôi chửi
anh hai lời, như thế trả đũa, trả
đi trả về đời đời kiếp kiếp
không bao giờ mất. Từ đó trở thành nghiệp.
Nghiệp tức là năng lực từ hành động của
ḿnh, nó lặp đi lặp lại liên tục nên tạo
thành sức mạnh, có năng lực. Có nghiệp rồi
th́ gây nghiệp thế nào hậu quả như thế ấy.
Người tu sáng suốt hơn ai hết, làm sao hóa giải
ngay từ trong nguyên nhân, đừng bị động th́
được an lạc thôi. Trong cuộc sống b́nh thường,
chúng ta hóa giải được tất cả những
nghiệp tập của ḿnh th́ cận tử nghiệp lúc
sắp ra đi sẽ nhẹ nhàng, tốt đẹp. Muốn
thế phải b́nh tĩnh sáng suốt, đừng sân hận,
cố chấp, phải có sự tha thứ cho nhau, việc
tu hành mới nhẹ nhàng, chứ không th́ nặng nề
như đá, không bao giờ tiến. Làm sao tâm ḿnh nhẹ
nhàng, an ổn mới đúng là tâm lượng người
tu. Có câu chuyện thế này. Một
thiền tăng nọ hóa đạo trên ngọn núi, với
số tăng ni theo tu hành khá đông. Dưới núi có một
ḍng sông lớn, muốn qua làng bên kia phải dùng đ̣. Ở
đó chỉ có một bến đ̣ độc nhất,
thiền tăng muốn làm Phật sự nơi nào cũng
phải xuống đ̣. Người quản lư bến
đ̣ ngoài 50 tuổi, rất chất phác, làm việc cẩn
thận nên được dân làng hai bên bờ sông tin cậy.
Một sáng nọ người ta không thấy vị lái
đ̣ lớn tuổi nữa mà lại xuất hiện một
cô lái đ̣ trẻ đẹp duyên dáng. Khách đi đ̣ ai
cũng thích thú ngắm nh́n cô ta. Cũng như thường
lệ thiền tăng xuống đ̣ qua sông. Thấy cô
lái đ̣ xinh đẹp, thầy len lén nh́n. Khi xuống
đ̣ mọi người trả một đồng
đi hết, thầy bị giữ lại. Cô nói: “Thầy
phải trả cho tôi hai đồng”. Ông thầy lấy
làm lạ hỏi: “Sao vậy?”. Cô nói: “Thêm một đồng
thầy lén nh́n tôi”. Ông thầy mau mau lấy thêm một
đồng trả cho rồi, không đôi chối quanh co
làm chi Bận về, nhớ lại
chuyện hôm trước, ông thầy cúi mặt nh́n xuống
sàng, không dám ngó lên. Vậy mà khi xuống đ̣ cô lại
đ̣i tới bốn đồng. Ông thầy càng thắc
mắc hơn và được cô trả lời: “Kỳ
trước thầy nh́n tôi bằng mắt, kỳ này thầy
nh́n tôi bằng tâm nên phải trả gấp bốn lần”.
Thiền tăng cười lấy tiền trả và
như đă nhận được đạo lư từ
cô lái đ̣ cừ khôi kia. Sau đó cô lái đ̣ biến mất
và trả lại cho bến đ̣ người lái đ̣
đứng tuổi năm xưa. Câu chuyện cho chúng ta thấy
cái tâm của ḿnh là quan trọng nhất. Nếu tâm ô nhiễm,
dong rủi, th́ ḿnh bị nó kéo mũi dẫn đi. Cho nên
người tu tuy dụng công nhẹ nhàng nhưng phải
cớ sức tự chủ mạnh mẽ. Tâm thanh tịnh
th́ vượt khỏi buộc ràng vướng mắc,
ngược xuôi, tăm tối, lăng xăng điên
đảo. Ai c̣n giữ tâm vọng tưởng đảo
điên Phật nói người đó nuôi giặc làm con,
tai họa không bao giờ tránh được. Như quí vị
đang ngồi đây mà tơ tưởng Thành phố, Vũng
Tàu, Đà Lạt th́ cắt ngay mới yên, mới sống
với tâm chân thật được. Người tu muốn
nhẹ nhàng, an lạc phải thường xuyên kiểm
tra tâm ḿnh. Những tơ tưởng, nghĩ ngợi, tức
tối, lăng xăng bỏ đi. Tu tâm là gốc, sửa
ngay tâm là chuyển được nghiệp. Chúng ta phải có sự yên tĩnh,
sáng suốt nhất định trong khi tu tập. Đừng
mê muội, đừng uất hận, đừng cố
chấp th́ mới nhận và sống được với
tâm thanh tịnh. Quư vị cố gắng, chúng ta là con Phật,
phải làm sao sống an lạc như ngài, trở về
với sự yên tĩnh, lặng lẽ sáng suốt của
chính ḿnh. Được vậy sự giải thoát an vui
nhất định ở trước mắt, chớ
không có đâu xa. |