NGUYỆN XƯA C̉N ĐÓ H.T
THÍCH NHẬT QUANG |
||
|
||
TRANG NGHIÊM TỰ THÂN Trong đạo Phật, nói tu là
lọc lừa những cặn bă c̣n tồn đọng
trong tâm chúng ta. Chữ tâm ở đây cũng chưa phải
là bản tâm thanh tịnh hằng hữu của ḿnh, nó chỉ
là bóng dáng vọng tưởng thôi. Tuy nhiên c̣n trong ṿng
đối đăi, chúng ta vẫn c̣n sử dụng tâm này,
nhưng gạn lọc những suy nghĩ, những ư
tưởng xấu bỏ đi, giữ lại phần
hiểu biết chân chánh. Người tu biết được
bóng dáng vọng tưởng th́ khéo lọc lừa những
ǵ không cần thiết cho việc tu hành, chúng ta loại
ra. Thải bỏ được nhiều cặn bă th́ c̣n
lại những tinh ba trong trắng. Đây gọi là trang
nghiêm tự thân. Có hai thứ trang nghiêm không thể
thiếu đối với người tu. Một là trang
nghiêm Bồ-đề tự thân, hai là trang nghiêm phúc trí tự
thân. Từ đó phát tâm đại bi trang tghiêm tất cả
các công hạnh, làm lợi ích chúng sanh. Muốn thành tựu đại
nguyện, phát huy đại bi trước nhất chúng ta
phải trang nghiêm Bồ-đề tự thân. Bao giờ Bồ-đề
tâm vững mạnh, bản thân chúng ta thanh tịnh, th́ phát
huy tâm đại từ bi, khởi đại hạnh cứu
giúp chúng sanh. Cho nên biết tâm Bồ-đề đă trang
nghiêm th́ phúc trí cũng trang nghiêm và vững mạnh. Ở
đây nói trang nghiêm tự thân tức là trang nghiêm phúc trí của
ḿnh. Người đầy đủ phúc trí th́ công hạnh
vị tha mới trôi tṛn được. Nói một cách dễ
hiểu là phần bên trong vững mạnh th́ dáng dấp
bên ngoài luôn tươi tắn khỏe mạnh. Những vị
này tâm niệm lúc nào cũng an ḥa, không phiền muộn. V́
thế người đời nh́n dáng dấp bên ngoài là biết
ḿnh tu như thế nào rồi. Không cần phải xem chỉ
tay, xem tướng ǵ cả. Người tu mà ủ dột,
sầu héo là nội dung vắng thiếu. Vắng thiếu
cái ǵ? Vắng thiếu sự sáng suốt và vắng thiếu
trang nghiêm tâm Bồ-đề. Trong nhà thiền các thiền
sư dạy phải sống được với tánh
giác của ḿnh, tức là phải sống với tâm Bồ-đề
hoàn toàn an tĩnh. Muốn thế chúng ta không thể ngồi
chờ, mà phải từng bước thực tập thiền
định. Tâm an định trí tuệ phát sáng, nhận
ra được tâm chân thật hiện hữu ngay
nơi ḿnh. Cố gắng tập sống với tâm đó
gọi là trang nghiêm tự thân Bồ-đề. Chúng ta thường quen ngược
xuôi theo những biến ảo, đổi thay bên ngoài nên
tưởng rằng an lạc giải thoát cũng ở
bên ngoài. Do đó khởi những niệm mong cầu, trông
đợi bên ngoài từ đấng nào đó ban cho ḿnh.
Trong khi đức Phật tuyên bố Ngài chỉ là bậc
đạo sư, không thể ban phước giáng họa
cho ai. Ngài chỉ là một bậc Thầy dẫn
đường, đi hay không là do nơi chúng ta. Ngài không
phải là người có thể ban phước báu hay tội
lỗi cho chúng sanh. Dù rằng Phật đầy đủ
phúc trí thần thông diệu dụng phi thường,
nhưng Ngài không làm việc như vậy. Nói thế để mỗi
người chúng ta tự ư thức, không thể trông đợi
ở đức Phật hay các vị Thánh điều ǵ.
Tất cả đ̣i hỏi ở công sức, sự tu
hành của ḿnh. Tuy tánh giác sẵn có, không phải vay mượn
ở đâu, nhưng nếu không tu chúng ta sẽ không nhận
ra nó. Một ngày sống một ngày công phu là một ngày phấn
khởi. Việc tu hành do ḿnh tự nguyện làm, không bị
bắt buộc, cũng không có ư niệm trông chờ ai giúp
ḿnh được mau hơn tốt hơn. Hiểu vậy
chúng ta sống rất an ổn. Ngược lại, nếu
chúng ta trông cậy bên ngoài, giả như lúc đó sự cầu
nguyện của ḿnh được đáp ứng ta vui,
nhưng khi không được đáp ứng, lúc đó ta
sẽ buồn bực. Thành ra, trong quá tŕnh tu học lúc
vui, lúc buồn, như vậy làm sao tiến. Giống
như người bước tới một bước,
thụt lui năm sáu bước, rồi đứng
đó ngó qua ngó lại nản ḷng, nhất định
người này có đi muôn ngàn năm cũng dẫm chân tại
chỗ. Cho nên chúng ta nắm vững đường lối
chủ trương, cứ thế mà tiến. Dù bước
chậm nhưng từng bước phấn khởi, từng
bước chắc thực không thối lui. Các thiền sư dạy hăy nh́n
dưới gót chân mà đi, cấm không cho ngó qua ngó lại,
dẫm đạp lúa mạ của người. Phải
đi thẳng. Đối với việc tu hành, có người
hỏi chúng tôi rằng: - Thầy tu có ǵ vui không? Tôi nói: - Nếu không vui th́ tu không nổi
đâu. Phải vui, có niềm hân hoan phấn
khởi ḿnh mới bước tới được. Nếu
trong đầu c̣n quờ quạng ngổn ngang trăm thứ,
ḿnh bước mà chẳng biết tới đâu, chẳng
thích thú ǵ cả! Cho nên muốn nội tại sung măn không
ǵ ngoài việc công phu, hằng ngày trau dồi, huân tập
các việc công đức. Đă có đủ phước
trí th́ làm ǵ cũng dễ thành tựu. Quư vị có tin
điều này không? Như chúng ta ăn chung một mâm, làm
chung một việc, đi chung một đoạn
đường, nhưng người có phước, từng
bước đi, từng thức ăn, từng việc
làm của họ đều thuận lợi, tốt đẹp.
C̣n người thiếu phước thiếu duyên, đi
đâu hay làm việc ǵ cũng bị khó khăn, không có kết
quả như ư. Các vị tu hành trong núi thường
nói những lời hết sức b́nh thường
như: "Bần tăng ở trong núi sâu, ít người
lai văng. Ăn th́ ăn hạt lật, hạt dẻ hoặc
rau rừng, uống nước suối v.v…" Đó là
những lời b́nh thường giản dị, nhưng
nội tâm thật sung măn. Hiện nay chúng ta không sống
trong rừng núi, không phải ăn hạt lật hạt
dẻ, uống nước suối. Chúng ta sống trong
thành phố với bao nhiêu tiện nghi, tuy nhiên chúng ta muốn
được như các ngài không phải là dễ. Bởi
v́ tâm ḿnh c̣n nhiều cặn bă quá, chưa được
thanh lọc trong sạch nên chưa đủ phước
để cảm nhận niềm vui sâu lắng của
người sống đạo. Có thể nói người tu hành
giống như ông thợ rèn. Muốn cho thành phẩm của
ḿnh làm ra tinh ṛng, đẹp mắt, th́ những kim loại
để luyện đúc món đồ đó phải
được lọc kỹ cặn bă. Nếu lấy ba
mớ sắt vụn ở chỗ bán phế liệu
đem về nấu rồi đổ ra, th́ ba bữa thôi
tiệm rèn ấy sẽ đóng cửa. Thợ rèn, thợ
hồ hay thợ kim hoàn ǵ cũng vậy, phải có sự
lọc lừa kỹ lưỡng th́ thành phẩm mới
có giá trị. Việc tu hành của chúng ta cũng thế,
muốn yên th́ phải lọc bỏ phiền năo vọng
tưởng lăng xăng. Lọc có nhiều cách. Phật
dạy ḿnh đừng mắc mứu ngoại cảnh, phải
có trí tuệ, buông bỏ những ǵ không cần thiết
hoặc thấy nó giả, v.v… Tùy, chúng ta áp dụng
phương thức nào cũng được hết, với
điều kiện là lọc bỏ được cặn
bă th́ thành quả sẽ như ư. Người có đầy đủ
phúc trí hay tự trang nghiêm bản thân, người đó
tâm Bồ-đề sung măn, được duyên phúc thuận
lợi, tiến thêm một giai đoạn nữa là phát
khởi tâm đại từ bi làm công việc vị tha vô
ngă. Nếu chúng ta chưa sống được với
tánh giác th́ khó phát huy đức vị tha vô ngă. Đôi khi
ḿnh thực hành vị tha vô ngă mà kết quả lại
trái ngược, không vị tha mà là vị ngă. Vâng, có thể
là như thế. Cho nên muốn làm việc v́ chúng sanh,
trước tiên bản thân chúng ta phải trang nghiêm, tâm Bồ-đề
phải vững mạnh. Cho nên ở đoạn kế
này tôi muốn nói đến tánh b́nh đẳng, tức là
tâm v́ mọi người. Nội từ b́nh đẳng
thôi là đă thấy khó rồi. Chữ B́nh là bằng, chữ
Đẳng là không có giai cấp. Làm sao thỏa ḷng
được tất cả mọi người một
cách b́nh đẳng. Khó lắm! Như kiểm lại trong
nhà của ḿnh, trên là các bậc trưởng thượng
như cha mẹ, kế đến anh chị em, rồi tới
con cháu. Mở cửa ra ngoài th́ bà con láng giềng. Trong bà
con láng giềng có bà con cùng họ bên nội, bà con một
họ bên ngoại, bà con gần, bà con xa… Bây giờ đạo
Phật nói b́nh đẳng. Làm sao b́nh đẳng
được? Bởi v́ có khi bà con bên nội ḿnh
thương hơn bà con bên ngoại hoặc ngược
lại. Biểu b́nh đẳng, b́nh đẳng như thế
nào? Cho nên việc này không phải đơn giản.
Nhưng trong nhà Phật có cái b́nh đẳng ḿnh thực
hiện được. Trước nhất là b́nh đẳng
trên tánh giác hay tâm bồ đề. Phật nói tất cả
chúng sanh đều có tánh giác. Chúng ta phát huy tánh b́nh đẳng
theo lời Phật dạy. Chứ c̣n nh́n bằng mắt
thịt, bằng nghiệp duyên phân biệt th́ khó t́m
được sự b́nh đẳng lắm! Chỉ khi
nào ta thấy người này là Phật, người kia là
Phật, ḿnh cũng là Phật, mấy người ghét mấy
người thương ḿnh cũng là Phật, chừng
đó b́nh đẳng. Muốn thấy như vậy, tâm
Phật của chúng ta phải toàn bị, giác tánh sung măn, nội
dung nội tại vững vàng, Chứ bên trong c̣n rào giậu,
tường vách cứng ngắc, tâm Phật chưa phát
huy được th́ không thể có cái nh́n b́nh đẳng
đối với mọi loài. Muốn phát huy được
tinh thần b́nh đẳng trong đạo Phật, chúng
ta phải thấy được chất Phật của
từng người, từng chúng sanh. Chất Phật
đó mỗi người đều sẵn có. Sở dĩ
người kia chưa phát huy được là v́ c̣n những
lư do nghiệp tập riêng của họ, ḿnh nên cảm
thông. Khi nào hết nghiệp họ sẽ mở được
tánh Phật. Chắc chắn như vậy. Chúng ta mở
rộng ḷng ḿnh, buông những hẹp ḥi vị kỷ
để phát huy tánh b́nh đẳng. Đây là yếu tố
chính để phát huy phúc trí của ḿnh. Như vậy hay
biết là bao! Từ cái nh́n của ḿnh mà ta thêm
bệnh hay bớt bệnh. Nếu cái nh́n si mê ích kỷ dẫn
đạo th́ tham sân, phiền năo dấy khởi. Nếu
cái nh́n trí tuệ dẫn đạo th́ ta phát huy được
tánh Phật, trong đó đầy đủ đức
b́nh đẳng và từ bi. Cho nên cái nh́n rất quan trọng.
Như con mắt của Bồ-tát Quán Thế Âm thấy tất
cả chúng sanh đang bị ch́m ngập khổ đau,
Ngài sẵn sàng rưới nước cam lồ, thị
hiện trong mọi ngơ ngách để cứu vớt, tùy
theo phúc duyên của mỗi chúng sanh. Ngài làm việc với
tâm vị tha b́nh đẳng. Đó là do con mắt tuệ
giác của Bồ-tát mở ra. Người tu tầm
thường như chúng ta, mở được con mắt
tuệ, phát huy tánh giác không phải dễ nên phải thiết
tha siêng năng tu tập lắm mới được. Trên thực tế nói dễ làm
khó. Như Ḥa thượng dạy chúng ta buông bỏ,
nhưng ḿnh thấy cái ǵ cũng thích, cũng thương
mến, làm sao buông được. Chẳng những không
buông mà c̣n bỏ túi, để dành cho bây giờ và măi măi về
sau nữa. Chỉ khi nào đầy đủ tuệ giác
thấy những thứ đó là giả, không thiệt ḿnh
mới buông được. Cái thích th́ muốn ôm giữ,
cái không thích th́ muốn tống đi. Chúng sanh là vậy. Bồ-tát
không như thế. Chúng ta là đệ tử Phật,
đi theo con đường Phật đi, tập hành hạnh
Bồ-tát, đừng nuôi dưỡng những quan niệm
ấy. Giả dụ gặp đối tượng ḿnh
không thích, liền dùng pháp nhân duyên, soi rọi ḿnh trước
cái đă. V́ ta tạo nghiệp nhân không tốt với họ
nên nh́n nhau không có thiện cảm. Nếu không tạo
đời này th́ cũng những đời trước.
Đă lỡ tạo nghiệp th́ bây giờ chấp nhận
trả, buông bỏ hết đi, đừng tạo thêm nữa.
Quán sát như vậy, ḷng ḿnh cảm thấy dễ chịu
hơn, nhẹ nhàng hơn. Nh́n chín chắn bằng pháp duyên
sinh, biết rơ tất cả pháp được h́nh thành
do nhiều nhân nhiều duyên, nên ta không cố chấp,
không đóng khuôn trong một hạn hẹp nào. Giống
như cái nhà được h́nh thành không phải chỉ một
cây cột, một miếng ngói hoặc là sợi kẽm…
Trong đó rất nhiều cây cột, cây kèo, rui mè, rồi
bê tông sắt thép, công thợ… đủ thứ. Thiếu
một trong những nhân duyên này cái nhà không thể có. Cho
nên nh́n bằng pháp duyên sinh chúng ta cởi mở, thấy
không có ǵ thiệt nên không chấp. Do không chấp nên không
phiền năo khổ đau. Khi gặp đối tượng
thuận cũng quán như thế. Sự ưa thích này cũng
trong giới hạn nào thôi, nó không thật, buông bỏ
đi. Nếu không chịu buông sớm, một ngày nào do
tính vô thường, nó bị mất đi hoặc ta không c̣n ưa thích nữa
mà cứ đối diện măi sẽ làm cho ḿnh khổ.
Chính những cảm giác dễ chịu là nguồn gốc
của đắm trước và gây nghiệp trong ṿng lẩn
quẩn, nhà Phật gọi là bánh xe luân hồi. Cái nh́n sai
lầm không đáng ǵ hết mà nó làm khổ chúng ta. Tuy
nhiên mê và ngộ không có biên cương, giống như
sáng và tối vậy. Chỉ cần chúng ta chịu thắp
lên ngọn nến trí tuệ là tất cả bóng tối
vô minh tan ngay. Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta
cũng v́ cái nh́n sai lầm mà đưa đến nhiều
tai hại đáng tiếc. Chúng sanh không nh́n bằng tuệ
giác mà nh́n bằng cặp mắt tăm tối nên thấy
ai cũng xấu với ḿnh. Như câu chuyện anh chàng mất
búa. Cái búa chưa t́m được anh ngồi trước
nhà, ai đi ngang anh cũng thấy người đó là kẻ
ăn cắp búa của anh. Chúng ta cũng vậy, v́ tuệ
giác chưa khai mở nên nh́n nhau bằng cặp mắt
nghi ngờ, suy đoán lung tung, không ai tin ai cả. Đă là Phật tử, chúng ta
nên loại bỏ những thói quen xấu ấy đi,
luôn tỉnh sáng thấy rơ việc tu hành là cần thiết
nhất, đừng chạy theo thế sự bên ngoài.
Người đủ phúc trí rồi th́ cái nh́n luôn tốt
lành, không bị mất ngủ, không bận bịu ǵ, cần
nh́n th́ nh́n không cần nh́n th́ cắt. Khi có được
cái nh́n như vậy rồi, ta dễ thông cảm và chia sẻ
với người khác. Đây chính là vị tha. Có tinh thần
này chúng ta mới thực hiện đạo lư b́nh đẳng
một cách hoàn bị nhất. Trong đạo Phật có
những từ như "Vô duyên đại từ",
"Vô duyên đại bi", đại từ đại
bi mà là vô duyên. Vô duyên là sao? Nghĩa là không có duyên ǵ hết.
Chữ "Duyên" là có sự ràng buộc với nhau. Ví
dụ ḿnh nói "Tôi có nhân duyên với người
này", tức là có sự quan hệ cảm thông với
nhau. Ở đây việc làm của Phật, của Bồ-tát
là vô duyên, không ràng buộc với ai hết, làm bằng trí
tuệ và từ bi. Chúng ta chưa được như vậy,
nhưng cũng từng bước tu tập để
đi đến tâm đại từ vô duyên, đại
bi vô duyên ấy. Có thế mới đảm bảo thanh tịnh
giải thoát. Người xưa quở thật
nặng “Các ông giống như con cẩu, đụng ǵ cũng
ngửi cũng liếm” Các ngài nói nghe nhức đầu
thiệt, nhưng một phen nghe là muốn ngộ đạo.
Quả thực chúng sanh là thế. Khi nào quư vị ngồi
một ḿnh sẽ thấy rơ ḿnh hơn. Như chúng ta
đang ngồi thiền, quy luật là không cho chạy ra
ngoài. Thân và tâm đều không được phóng ra ngoài.
Nhưng đố quư vị cấm được con khỉ
này. Lúc nào cũng có những niệm lăn tăn li ti dấy
lên, nào là nhớ Thành phố, nhớ ba má, nhớ chuyện
năm trên năm dưới… hết cái này tới cái kia.
Có khi hai ba việc vô một lúc, chồng chất lên nhau chập
chùng. Các thiền sư bảo chúng ta
buông những thứ đó th́ tâm thanh tịnh hiện bày.
Nói th́ dễ nhưng buông đâu có dễ. Khởi niệm
lên thành phố rồi th́ người thân, bạn bè mời
tiệc tùng đủ thứ, làm sao bỏ được.
Khởi niệm chỗ này, khởi niệm chỗ kia,
lăng xăng niệm trước niệm sau chồng chất
chập chùng. Ngồi một ḿnh trong chỗ vắng vẻ
quí vị mới thấy cái đám khỉ đột của
chúng ta, nó quậy ḿnh tơi bời. Cho nên người
xưa nói tu trên núi trên non mà chưa dừng được
con khỉ vượn trong tâm th́ không hơn nổi người
tu ở thành phố. Người tu ở thành phố mà dừng
được khỉ vượn th́ hơn người ở
trên núi trên non. Rơ ràng như vậy. Cho nên người tu
thiền phải sáng suốt từng phút từng giây, nhận
diện chính ḿnh mới không bị vọng tưởng dẫn
đi. Người tu bắt buộc phải
phát huy trí tuệ. Thiếu trí tuệ chúng ta sẽ ngủ
gục, không có tỉnh sáng. Không có trí tuệ th́ không yên với
con khỉ trong tâm. Do đó thiền sư nói Người
tu phải định tĩnh. Định tĩnh là ǵ? Là
ḿnh không bị xé ra, không ngủ mê nói mớ khi vật vờ,
cũng không nắm Đông bắt Tây khi tỉnh táo. Cả
hai mặt đều giữ công phu tỉnh sáng. Việc
tu cần phải dè dặt, chớ vội nói “tôi tu khá lắm”,
e ḿnh lầm. Những chiếc bóng giả bên ngoài lúc nào cũng
ŕnh rập chụp lên, làm mờ trí tuệ mà ta không biết.
Đó là nguy cơ khiến ḿnh không phát huy được
tnh b́nh đẳng. Chẳng những không phát huy được
tính b́nh đẳng, lại c̣n sử dụng tâm phàm t́nh vọng
tưởng điên đảo để rồi tạo
nghiệp. Ḥa Thượng luôn dặn thế
này: "Đừng nghĩ quấy, đừng nói sai,
đừng làm bậy." Nội cái nghĩ quấy
đừng nghĩ, nếu không b́nh tĩnh, không có trí tuệ
làm sao chúng ta biết ḿnh nghĩ quấy! Ta có thể biết
người khác nghĩ quấy, nhưng không biết ḿnh
đang nghĩ quấy. Ai cũng cái nghĩ của ḿnh là
chân lư, nên người khác đụng tới không
được. Chúng ta nhớ tinh thần tu hành của
nhà thiền là phản quan tức nh́n lại ḿnh. Phản
quan để đi vào thể nhận tánh giác. Nếu
không phản quan mà rọi ra, pha đèn ra ngoài, càng pha càng mất
ḿnh. Đă mất ḿnh mà làm việc vị tha th́ coi chừng,
thiên hạ ngă ngổn ngang hết. Nguy lắm. Phản quan rọi lại để
thấy ḿnh c̣n bao nhiêu bệnh? Bệnh tham, bệnh sân, bệnh
si. Trước nhất phải quán ḿnh, trị bệnh
cho ḿnh rồi hăy nh́n đến người. Nếu bệnh
tham th́ sử dụng quán Bất Tịnh. Trước nhất
quán nơi ḿnh, ta thường cho thân ḿnh quư đẹp nhất.
Bây giờ mở những chỗ không đẹp, phát ra
mùi hôi như cái miệng, lỗ tai, lỗ mũi, những
chỗ trống từ thân tiết ra, không có chỗ nào tốt
đẹp hết. Thế mà nói thân ḿnh đẹp, ai
đụng tới không chịu. Vô lư chưa? Nhờ quán
như vậy hết cưng chiều thân này. Nhận
nơi ḿnh rồi th́ thấy thân người khác cũng
thế. Từ đó ta không chạy theo, không vướng
mắc, tâm lặng yên. Tu một thời gian, Thầy hỏi: - Con tu làm sao? - Bạch Thầy! Bữa nay con
thấy an ổn trong ḷng. Thầy sẽ kiểm nghiệm
ḿnh qua những hiện tượng trước mắt,
xem ḿnh thực sự an ổn chưa. Phật tử ít gặp
trường hợp như thế, chớ chúng tôi trong viện
luôn luôn bị kiểm tra. Ḥa Thượng gặp hỏi: - Lúc này chú tu ra sao? - Bạch Thầy! Lúc này ḷng con
yên. Sau tiếng yên đó liền có một
bài kiểm tra, xem ḿnh yên thật không. Thành ra phần tự
thân chúng ta phải luôn luôn trang nghiêm. Người
được yên là người nhiếp niệm tự
tâm, khẳng định việc tu hành, vững mạnh
làm chủ lấy ḿnh, không bị ngục tù thân tâm giam hăm
sai sử. Các thiền sư dùng từ “Ngục tù thân tâm”
là đối với người chưa làm chủ
được ḿnh. Với người siêu xuất rồi
th́ không nói như vậy. Những từ này xuất phát từ
kinh nghiệm tu hành, nói để cảnh sách nhắc bảo
người sau. Nói ngục tù v́ nơi đó không thể ở
lâu được. Nó chỉ là quán trọ tạm dừng
để mạnh chân, sáng mắt mà tiếp tục đi
nữa. Thêm một điều nữa,
chúng ta muốn việc tu dễ dàng th́ nên cắt bớt
các duyên. V́ duyên là những cái ràng buộc, cắt đứt
nó mới giải thoát được. Thiền sư sở
dĩ tươi tắn nhẹ nhàng khoan thai là v́ không bị
duyên ràng buộc. Như h́nh ảnh Tổ Bồ Đề
Đạt Ma, ngài lướt nhẹ thong dong trên biển
cả, c̣n chúng ta phải đi thuyền bè. Nếu thuyền
đó chở khẳm là ch́m, c̣n Tổ đứng trên cành
lau nổi phù phù, không bao giờ sợ ch́m. Nói
"đi" đó, không phải đi bằng cái thân tám
chục kư, sáu chục kư… mà đi bằng trí tuệ, bằng
diệu dụng của tâm vô nhiễm. Mỗi người đều
có bản tâm vô nhiễm, nhưng v́ mê muội chúng ta tạo
nghiệp như thế nào, bây giờ phải mang thân này,
với nghiệp lực như vậy. Tuy nhiên nó không thật,
có thể hoán chuyển được. Bây giờ làm sao ta
nhận được nó không thật, từ đó trở
về sống với tâm thể trùm khắp th́ thoát khỏi
thân nghiệp báo ấy. Không phải chỉ có Phật mới
vào cảnh giới Niết-bàn. Ḿnh cũng có Niết-bàn.
Niết-bàn ở đây không phải đợi chết mới
lên đó ngồi, mà chỉ cần thoát ra khỏi phiền
năo bất giác là vào được. Niết-bàn đây chính
là tâm rỗng rang sáng suốt của ḿnh. Tâm rỗng rang sáng suốt là
không có vật thể ǵ trong đó. Bao giờ chúng ta buông
được những trở ngại, lọc bỏ hết
cặn bă th́ vào được Niết-bàn chân thật,
thường tại nơi chính ḿnh. Chỗ đó không phải
là chỗ lư luận, không có gịng họ tên tuổi, không
ngôn ngữ ǵ hết. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện
thôi. Không nói mà vẫn thể hiện được, các
thiền sư thể hiện độc đáo hơn ai
hết. Ngài Lâm Tế y áo lên hỏi Tổ Hoàng Bá: - Đại ư Phật pháp là ǵ? Tổ cho ăn một hèo, đi
xuống. Ngày khác, vị Thủ Tọa khuyên: - Lên hỏi nữa, Ḥa Thượng
chưa trả lời th́ lên hỏi nữa! Hỏi lần thứ hai cũng
bị ăn hèo. Xuống, ngài buồn tủi coi như
ḿnh không có nhân duyên với thầy. Hỏi đại ư Phật
pháp hay quá, đâu phải nói sàm nói bậy mà thầy không dạy,
lại c̣n cho ăn hèo, đuổi xuống. Tuy nhiên, vị
sư huynh xúi lên nữa: - Thầy cứ lên hỏi nữa
đi! Lên hỏi lần thứ ba lại
cũng bị ăn hèo. Đó là ǵ? Là thầy trả lời
bằng tâm đại từ bi, không lấy tranh che đầu,
không gắn thêm gịng họ tên tuổi ǵ cho ngài Lâm Tế hết,
mà giữ nguyên cái bất sanh bất diệt đó.
Nhưng ai dám hiểu. Tổ Lâm Tế khi đó cũng
chưa hiểu nổi, hà huống chúng ta. Cho nên thôi, để
dành đó chứ biết làm sao! Quư vị nhớ tất cả
chúng ta đều có tánh giác, đều có trí tuệ đức
tướng Như Lai. Nhận lại hay không là quyền
của mỗi người. Nhận lại báu vật của
ḿnh th́ hết ngược xuôi ngàn đời, khỏi trầm
luân trong sanh tử. Nếu không muốn th́ phải chịu
khổ thôi, không ai thay thế cho ḿnh được cả.
Mong tất cả chúng ta hăy sáng suốt mà lựa chọn
một con đường, trang nghiêm tự thân để
viên măn tâm Bồ-đề. |