NGUYỆN XƯA C̉N ĐÓ

H.T THÍCH NHẬT QUANG

TRANG NGHIÊM T THÂN

 

Trong đạo Phật, nói tu là lọc lừa những cặn bă c̣n tồn đọng trong tâm chúng ta. Chữ tâm ở đây cũng chưa phải là bản tâm thanh tịnh hằng hữu của ḿnh, nó chỉ là bóng dáng vọng tưởng thôi. Tuy nhiên c̣n trong ṿng đối đăi, chúng ta vẫn c̣n sử dụng tâm này, nhưng gạn lọc những suy nghĩ, những ư tưởng xấu bỏ đi, giữ lại phần hiểu biết chân chánh. 

Người tu biết được bóng dáng vọng tưởng th́ khéo lọc lừa những ǵ không cần thiết cho việc tu hành, chúng ta loại ra. Thải bỏ được nhiều cặn bă th́ c̣n lại những tinh ba trong trắng. Đây gọi là trang nghiêm tự thân.

Có hai thứ trang nghiêm không thể thiếu đối với người tu. Một là trang nghiêm Bồ-đề tự thân, hai là trang nghiêm phúc trí tự thân. Từ đó phát tâm đại bi trang tghiêm tất cả các công hạnh, làm lợi ích chúng sanh.

Muốn thành tựu đại nguyện, phát huy đại bi trước nhất chúng ta phải trang nghiêm Bồ-đề tự thân. Bao giờ Bồ-đề tâm vững mạnh, bản thân chúng ta thanh tịnh, th́ phát huy tâm đại từ bi, khởi đại hạnh cứu giúp chúng sanh. Cho nên biết tâm Bồ-đề đă trang nghiêm th́ phúc trí cũng trang nghiêm và vững mạnh. Ở đây nói trang nghiêm tự thân tức là trang nghiêm phúc trí của ḿnh. Người đầy đủ phúc trí th́ công hạnh vị tha mới trôi tṛn được. Nói một cách dễ hiểu là phần bên trong vững mạnh th́ dáng dấp bên ngoài luôn tươi tắn khỏe mạnh. Những vị này tâm niệm lúc nào cũng an ḥa, không phiền muộn. V́ thế người đời nh́n dáng dấp bên ngoài là biết ḿnh tu như thế nào rồi. Không cần phải xem chỉ tay, xem tướng ǵ cả. Người tu mà ủ dột, sầu héo là nội dung vắng thiếu. Vắng thiếu cái ǵ? Vắng thiếu sự sáng suốt và vắng thiếu trang nghiêm tâm Bồ-đề.

Trong nhà thiền các thiền sư dạy phải sống được với tánh giác của ḿnh, tức là phải sống với tâm Bồ-đề hoàn toàn an tĩnh. Muốn thế chúng ta không thể ngồi chờ, mà phải từng bước thực tập thiền định. Tâm an định trí tuệ phát sáng, nhận ra được tâm chân thật hiện hữu ngay nơi ḿnh. Cố gắng tập sống với tâm đó gọi là trang nghiêm tự thân Bồ-đề.

Chúng ta thường quen ngược xuôi theo những biến ảo, đổi thay bên ngoài nên tưởng rằng an lạc giải thoát cũng ở bên ngoài. Do đó khởi những niệm mong cầu, trông đợi bên ngoài từ đấng nào đó ban cho ḿnh. Trong khi đức Phật tuyên bố Ngài chỉ là bậc đạo sư, không thể ban phước giáng họa cho ai. Ngài chỉ là một bậc Thầy dẫn đường, đi hay không là do nơi chúng ta. Ngài không phải là người có thể ban phước báu hay tội lỗi cho chúng sanh. Dù rằng Phật đầy đủ phúc trí thần thông diệu dụng phi thường, nhưng Ngài không làm việc như vậy.

Nói thế để mỗi người chúng ta tự ư thức, không thể trông đợi ở đức Phật hay các vị Thánh điều ǵ. Tất cả đ̣i hỏi ở công sức, sự tu hành của ḿnh. Tuy tánh giác sẵn có, không phải vay mượn ở đâu, nhưng nếu không tu chúng ta sẽ không nhận ra nó. Một ngày sống một ngày công phu là một ngày phấn khởi. Việc tu hành do ḿnh tự nguyện làm, không bị bắt buộc, cũng không có ư niệm trông chờ ai giúp ḿnh được mau hơn tốt hơn. Hiểu vậy chúng ta sống rất an ổn. Ngược lại, nếu chúng ta trông cậy bên ngoài, giả như lúc đó sự cầu nguyện của ḿnh được đáp ứng ta vui, nhưng khi không được đáp ứng, lúc đó ta sẽ buồn bực. Thành ra, trong quá tŕnh tu học lúc vui, lúc buồn, như vậy làm sao tiến. Giống như người bước tới một bước, thụt lui năm sáu bước, rồi đứng đó ngó qua ngó lại nản ḷng, nhất định người này có đi muôn ngàn năm cũng dẫm chân tại chỗ. Cho nên chúng ta nắm vững đường lối chủ trương, cứ thế mà tiến. Dù bước chậm nhưng từng bước phấn khởi, từng bước chắc thực không thối lui.

Các thiền sư dạy hăy nh́n dưới gót chân mà đi, cấm không cho ngó qua ngó lại, dẫm đạp lúa mạ của người. Phải đi thẳng. Đối với việc tu hành, có người hỏi chúng tôi rằng:

- Thầy tu có ǵ vui không?

Tôi nói:

- Nếu không vui th́ tu không nổi đâu.

Phải vui, có niềm hân hoan phấn khởi ḿnh mới bước tới được. Nếu trong đầu c̣n quờ quạng ngổn ngang trăm thứ, ḿnh bước mà chẳng biết tới đâu, chẳng thích thú ǵ cả! Cho nên muốn nội tại sung măn không ǵ ngoài việc công phu, hằng ngày trau dồi, huân tập các việc công đức. Đă có đủ phước trí th́ làm ǵ cũng dễ thành tựu. Quư vị có tin điều này không? Như chúng ta ăn chung một mâm, làm chung một việc, đi chung một đoạn đường, nhưng người có phước, từng bước đi, từng thức ăn, từng việc làm của họ đều thuận lợi, tốt đẹp. C̣n người thiếu phước thiếu duyên, đi đâu hay làm việc ǵ cũng bị khó khăn, không có kết quả như ư.

Các vị tu hành trong núi thường nói những lời hết sức b́nh thường như: "Bần tăng ở trong núi sâu, ít người lai văng. Ăn th́ ăn hạt lật, hạt dẻ hoặc rau rừng, uống nước suối v.v…" Đó là những lời b́nh thường giản dị, nhưng nội tâm thật sung măn. Hiện nay chúng ta không sống trong rừng núi, không phải ăn hạt lật hạt dẻ, uống nước suối. Chúng ta sống trong thành phố với bao nhiêu tiện nghi, tuy nhiên chúng ta muốn được như các ngài không phải là dễ. Bởi v́ tâm ḿnh c̣n nhiều cặn bă quá, chưa được thanh lọc trong sạch nên chưa đủ phước để cảm nhận niềm vui sâu lắng của người sống đạo.

Có thể nói người tu hành giống như ông thợ rèn. Muốn cho thành phẩm của ḿnh làm ra tinh ṛng, đẹp mắt, th́ những kim loại để luyện đúc món đồ đó phải được lọc kỹ cặn bă. Nếu lấy ba mớ sắt vụn ở chỗ bán phế liệu đem về nấu rồi đổ ra, th́ ba bữa thôi tiệm rèn ấy sẽ đóng cửa. Thợ rèn, thợ hồ hay thợ kim hoàn ǵ cũng vậy, phải có sự lọc lừa kỹ lưỡng th́ thành phẩm mới có giá trị. Việc tu hành của chúng ta cũng thế, muốn yên th́ phải lọc bỏ phiền năo vọng tưởng lăng xăng. Lọc có nhiều cách. Phật dạy ḿnh đừng mắc mứu ngoại cảnh, phải có trí tuệ, buông bỏ những ǵ không cần thiết hoặc thấy nó giả, v.v… Tùy, chúng ta áp dụng phương thức nào cũng được hết, với điều kiện là lọc bỏ được cặn bă th́ thành quả sẽ như ư.

Người có đầy đủ phúc trí hay tự trang nghiêm bản thân, người đó tâm Bồ-đề sung măn, được duyên phúc thuận lợi, tiến thêm một giai đoạn nữa là phát khởi tâm đại từ bi làm công việc vị tha vô ngă. Nếu chúng ta chưa sống được với tánh giác th́ khó phát huy đức vị tha vô ngă. Đôi khi ḿnh thực hành vị tha vô ngă mà kết quả lại trái ngược, không vị tha mà là vị ngă. Vâng, có thể là như thế. Cho nên muốn làm việc v́ chúng sanh, trước tiên bản thân chúng ta phải trang nghiêm, tâm Bồ-đề phải vững mạnh. Cho nên ở đoạn kế này tôi muốn nói đến tánh b́nh đẳng, tức là tâm v́ mọi người.

Nội từ b́nh đẳng thôi là đă thấy khó rồi. Chữ B́nh là bằng, chữ Đẳng là không có giai cấp. Làm sao thỏa ḷng được tất cả mọi người một cách b́nh đẳng. Khó lắm! Như kiểm lại trong nhà của ḿnh, trên là các bậc trưởng thượng như cha mẹ, kế đến anh chị em, rồi tới con cháu. Mở cửa ra ngoài th́ bà con láng giềng. Trong bà con láng giềng có bà con cùng họ bên nội, bà con một họ bên ngoại, bà con gần, bà con xa… Bây giờ đạo Phật nói b́nh đẳng. Làm sao b́nh đẳng được? Bởi v́ có khi bà con bên nội ḿnh thương hơn bà con bên ngoại hoặc ngược lại. Biểu b́nh đẳng, b́nh đẳng như thế nào? Cho nên việc này không phải đơn giản. Nhưng trong nhà Phật có cái b́nh đẳng ḿnh thực hiện được.

Trước nhất là b́nh đẳng trên tánh giác hay tâm bồ đề. Phật nói tất cả chúng sanh đều có tánh giác. Chúng ta phát huy tánh b́nh đẳng theo lời Phật dạy. Chứ c̣n nh́n bằng mắt thịt, bằng nghiệp duyên phân biệt th́ khó t́m được sự b́nh đẳng lắm! Chỉ khi nào ta thấy người này là Phật, người kia là Phật, ḿnh cũng là Phật, mấy người ghét mấy người thương ḿnh cũng là Phật, chừng đó b́nh đẳng. Muốn thấy như vậy, tâm Phật của chúng ta phải toàn bị, giác tánh sung măn, nội dung nội tại vững vàng, Chứ bên trong c̣n rào giậu, tường vách cứng ngắc, tâm Phật chưa phát huy được th́ không thể có cái nh́n b́nh đẳng đối với mọi loài.

Muốn phát huy được tinh thần b́nh đẳng trong đạo Phật, chúng ta phải thấy được chất Phật của từng người, từng chúng sanh. Chất Phật đó mỗi người đều sẵn có. Sở dĩ người kia chưa phát huy được là v́ c̣n những lư do nghiệp tập riêng của họ, ḿnh nên cảm thông. Khi nào hết nghiệp họ sẽ mở được tánh Phật. Chắc chắn như vậy. Chúng ta mở rộng ḷng ḿnh, buông những hẹp ḥi vị kỷ để phát huy tánh b́nh đẳng. Đây là yếu tố chính để phát huy phúc trí của ḿnh. Như vậy hay biết là bao!

Từ cái nh́n của ḿnh mà ta thêm bệnh hay bớt bệnh. Nếu cái nh́n si mê ích kỷ dẫn đạo th́ tham sân, phiền năo dấy khởi. Nếu cái nh́n trí tuệ dẫn đạo th́ ta phát huy được tánh Phật, trong đó đầy đủ đức b́nh đẳng và từ bi. Cho nên cái nh́n rất quan trọng. Như con mắt của Bồ-tát Quán Thế Âm thấy tất cả chúng sanh đang bị ch́m ngập khổ đau, Ngài sẵn sàng rưới nước cam lồ, thị hiện trong mọi ngơ ngách để cứu vớt, tùy theo phúc duyên của mỗi chúng sanh. Ngài làm việc với tâm vị tha b́nh đẳng. Đó là do con mắt tuệ giác của Bồ-tát mở ra. Người tu tầm thường như chúng ta, mở được con mắt tuệ, phát huy tánh giác không phải dễ nên phải thiết tha siêng năng tu tập lắm mới được.

Trên thực tế nói dễ làm khó. Như Ḥa thượng dạy chúng ta buông bỏ, nhưng ḿnh thấy cái ǵ cũng thích, cũng thương mến, làm sao buông được. Chẳng những không buông mà c̣n bỏ túi, để dành cho bây giờ và măi măi về sau nữa. Chỉ khi nào đầy đủ tuệ giác thấy những thứ đó là giả, không thiệt ḿnh mới buông được. Cái thích th́ muốn ôm giữ, cái không thích th́ muốn tống đi. Chúng sanh là vậy. Bồ-tát không như thế. Chúng ta là đệ tử Phật, đi theo con đường Phật đi, tập hành hạnh Bồ-tát, đừng nuôi dưỡng những quan niệm ấy. Giả dụ gặp đối tượng ḿnh không thích, liền dùng pháp nhân duyên, soi rọi ḿnh trước cái đă. V́ ta tạo nghiệp nhân không tốt với họ nên nh́n nhau không có thiện cảm. Nếu không tạo đời này th́ cũng những đời trước. Đă lỡ tạo nghiệp th́ bây giờ chấp nhận trả, buông bỏ hết đi, đừng tạo thêm nữa. Quán sát như vậy, ḷng ḿnh cảm thấy dễ chịu hơn, nhẹ nhàng hơn.

Nh́n chín chắn bằng pháp duyên sinh, biết rơ tất cả pháp được h́nh thành do nhiều nhân nhiều duyên, nên ta không cố chấp, không đóng khuôn trong một hạn hẹp nào. Giống như cái nhà được h́nh thành không phải chỉ một cây cột, một miếng ngói hoặc là sợi kẽm… Trong đó rất nhiều cây cột, cây kèo, rui mè, rồi bê tông sắt thép, công thợ… đủ thứ. Thiếu một trong những nhân duyên này cái nhà không thể có. Cho nên nh́n bằng pháp duyên sinh chúng ta cởi mở, thấy không có ǵ thiệt nên không chấp. Do không chấp nên không phiền năo khổ đau.

Khi gặp đối tượng thuận cũng quán như thế. Sự ưa thích này cũng trong giới hạn nào thôi, nó không thật, buông bỏ đi. Nếu không chịu buông sớm, một ngày nào do tính vô thường, nó bị mất đi  hoặc ta không c̣n ưa thích nữa mà cứ đối diện măi sẽ làm cho ḿnh khổ. Chính những cảm giác dễ chịu là nguồn gốc của đắm trước và gây nghiệp trong ṿng lẩn quẩn, nhà Phật gọi là bánh xe luân hồi. Cái nh́n sai lầm không đáng ǵ hết mà nó làm khổ chúng ta. Tuy nhiên mê và ngộ không có biên cương, giống như sáng và tối vậy. Chỉ cần chúng ta chịu thắp lên ngọn nến trí tuệ là tất cả bóng tối vô minh tan ngay.

Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta cũng v́ cái nh́n sai lầm mà đưa đến nhiều tai hại đáng tiếc. Chúng sanh không nh́n bằng tuệ giác mà nh́n bằng cặp mắt tăm tối nên thấy ai cũng xấu với ḿnh. Như câu chuyện anh chàng mất búa. Cái búa chưa t́m được anh ngồi trước nhà, ai đi ngang anh cũng thấy người đó là kẻ ăn cắp búa của anh. Chúng ta cũng vậy, v́ tuệ giác chưa khai mở nên nh́n nhau bằng cặp mắt nghi ngờ, suy đoán lung tung, không ai tin ai cả.

Đă là Phật tử, chúng ta nên loại bỏ những thói quen xấu ấy đi, luôn tỉnh sáng thấy rơ việc tu hành là cần thiết nhất, đừng chạy theo thế sự bên ngoài. Người đủ phúc trí rồi th́ cái nh́n luôn tốt lành, không bị mất ngủ, không bận bịu ǵ, cần nh́n th́ nh́n không cần nh́n th́ cắt. Khi có được cái nh́n như vậy rồi, ta dễ thông cảm và chia sẻ với người khác. Đây chính là vị tha. Có tinh thần này chúng ta mới thực hiện đạo lư b́nh đẳng một cách hoàn bị nhất. Trong đạo Phật có những từ như "Vô duyên đại từ", "Vô duyên đại bi", đại từ đại bi mà là vô duyên. Vô duyên là sao? Nghĩa là không có duyên ǵ hết. Chữ "Duyên" là có sự ràng buộc với nhau. Ví dụ ḿnh nói "Tôi có nhân duyên với người này", tức là có sự quan hệ cảm thông với nhau. Ở đây việc làm của Phật, của Bồ-tát là vô duyên, không ràng buộc với ai hết, làm bằng trí tuệ và từ bi. Chúng ta chưa được như vậy, nhưng cũng từng bước tu tập để đi đến tâm đại từ vô duyên, đại bi vô duyên ấy. Có thế mới đảm bảo thanh tịnh giải thoát.

Người xưa quở thật nặng “Các ông giống như con cẩu, đụng ǵ cũng ngửi cũng liếm” Các ngài nói nghe nhức đầu thiệt, nhưng một phen nghe là muốn ngộ đạo. Quả thực chúng sanh là thế. Khi nào quư vị ngồi một ḿnh sẽ thấy rơ ḿnh hơn. Như chúng ta đang ngồi thiền, quy luật là không cho chạy ra ngoài. Thân và tâm đều không được phóng ra ngoài. Nhưng đố quư vị cấm được con khỉ này. Lúc nào cũng có những niệm lăn tăn li ti dấy lên, nào là nhớ Thành phố, nhớ ba má, nhớ chuyện năm trên năm dưới… hết cái này tới cái kia. Có khi hai ba việc vô một lúc, chồng chất lên nhau chập chùng.

Các thiền sư bảo chúng ta buông những thứ đó th́ tâm thanh tịnh hiện bày. Nói th́ dễ nhưng buông đâu có dễ. Khởi niệm lên thành phố rồi th́ người thân, bạn bè mời tiệc tùng đủ thứ, làm sao bỏ được. Khởi niệm chỗ này, khởi niệm chỗ kia, lăng xăng niệm trước niệm sau chồng chất chập chùng. Ngồi một ḿnh trong chỗ vắng vẻ quí vị mới thấy cái đám khỉ đột của chúng ta, nó quậy ḿnh tơi bời. Cho nên người xưa nói tu trên núi trên non mà chưa dừng được con khỉ vượn trong tâm th́ không hơn nổi người tu ở thành phố. Người tu ở thành phố mà dừng được khỉ vượn th́ hơn người ở trên núi trên non. Rơ ràng như vậy. Cho nên người tu thiền phải sáng suốt từng phút từng giây, nhận diện chính ḿnh mới không bị vọng tưởng dẫn đi.

Người tu bắt buộc phải phát huy trí tuệ. Thiếu trí tuệ chúng ta sẽ ngủ gục, không có tỉnh sáng. Không có trí tuệ th́ không yên với con khỉ trong tâm. Do đó thiền sư nói Người tu phải định tĩnh. Định tĩnh là ǵ? Là ḿnh không bị xé ra, không ngủ mê nói mớ khi vật vờ, cũng không nắm Đông bắt Tây khi tỉnh táo. Cả hai mặt đều giữ công phu tỉnh sáng. Việc tu cần phải dè dặt, chớ vội nói “tôi tu khá lắm”, e ḿnh lầm. Những chiếc bóng giả bên ngoài lúc nào cũng ŕnh rập chụp lên, làm mờ trí tuệ mà ta không biết. Đó là nguy cơ khiến ḿnh không phát huy được tnh b́nh đẳng. Chẳng những không phát huy được tính b́nh đẳng, lại c̣n sử dụng tâm phàm t́nh vọng tưởng điên đảo để rồi tạo nghiệp.

Ḥa Thượng luôn dặn thế này: "Đừng nghĩ quấy, đừng nói sai, đừng làm bậy." Nội cái nghĩ quấy đừng nghĩ, nếu không b́nh tĩnh, không có trí tuệ làm sao chúng ta biết ḿnh nghĩ quấy! Ta có thể biết người khác nghĩ quấy, nhưng không biết ḿnh đang nghĩ quấy. Ai cũng cái nghĩ của ḿnh là chân lư, nên người khác đụng tới không được. Chúng ta nhớ tinh thần tu hành của nhà thiền là phản quan tức nh́n lại ḿnh. Phản quan để đi vào thể nhận tánh giác. Nếu không phản quan mà rọi ra, pha đèn ra ngoài, càng pha càng mất ḿnh. Đă mất ḿnh mà làm việc vị tha th́ coi chừng, thiên hạ ngă ngổn ngang hết. Nguy lắm.

Phản quan rọi lại để thấy ḿnh c̣n bao nhiêu bệnh? Bệnh tham, bệnh sân, bệnh si. Trước nhất phải quán ḿnh, trị bệnh cho ḿnh rồi hăy nh́n đến người. Nếu bệnh tham th́ sử dụng quán Bất Tịnh. Trước nhất quán nơi ḿnh, ta thường cho thân ḿnh quư đẹp nhất. Bây giờ mở những chỗ không đẹp, phát ra mùi hôi như cái miệng, lỗ tai, lỗ mũi, những chỗ trống từ thân tiết ra, không có chỗ nào tốt đẹp hết. Thế mà nói thân ḿnh đẹp, ai đụng tới không chịu. Vô lư chưa? Nhờ quán như vậy hết cưng chiều thân này. Nhận nơi ḿnh rồi th́ thấy thân người khác cũng thế. Từ đó ta không chạy theo, không vướng mắc, tâm lặng yên.

Tu một thời gian, Thầy hỏi:

- Con tu làm sao?

- Bạch Thầy! Bữa nay con thấy an ổn trong ḷng.

Thầy sẽ kiểm nghiệm ḿnh qua những hiện tượng trước mắt, xem ḿnh thực sự an ổn chưa. Phật tử ít gặp trường hợp như thế, chớ chúng tôi trong viện luôn luôn bị kiểm tra.

Ḥa Thượng gặp hỏi:

- Lúc này chú tu ra sao?

- Bạch Thầy! Lúc này ḷng con yên.

Sau tiếng yên đó liền có một bài kiểm tra, xem ḿnh yên thật không. Thành ra phần tự thân chúng ta phải luôn luôn trang nghiêm. Người được yên là người nhiếp niệm tự tâm, khẳng định việc tu hành, vững mạnh làm chủ lấy ḿnh, không bị ngục tù thân tâm giam hăm sai sử. Các thiền sư dùng từ “Ngục tù thân tâm” là đối với người chưa làm chủ được ḿnh. Với người siêu xuất rồi th́ không nói như vậy. Những từ này xuất phát từ kinh nghiệm tu hành, nói để cảnh sách nhắc bảo người sau. Nói ngục tù v́ nơi đó không thể ở lâu được. Nó chỉ là quán trọ tạm dừng để mạnh chân, sáng mắt mà tiếp tục đi nữa.

Thêm một điều nữa, chúng ta muốn việc tu dễ dàng th́ nên cắt bớt các duyên. V́ duyên là những cái ràng buộc, cắt đứt nó mới giải thoát được. Thiền sư sở dĩ tươi tắn nhẹ nhàng khoan thai là v́ không bị duyên ràng buộc. Như h́nh ảnh Tổ Bồ Đề Đạt Ma, ngài lướt nhẹ thong dong trên biển cả, c̣n chúng ta phải đi thuyền bè. Nếu thuyền đó chở khẳm là ch́m, c̣n Tổ đứng trên cành lau nổi phù phù, không bao giờ sợ ch́m. Nói "đi" đó, không phải đi bằng cái thân tám chục kư, sáu chục kư… mà đi bằng trí tuệ, bằng diệu dụng của tâm vô nhiễm.

Mỗi người đều có bản tâm vô nhiễm, nhưng v́ mê muội chúng ta tạo nghiệp như thế nào, bây giờ phải mang thân này, với nghiệp lực như vậy. Tuy nhiên nó không thật, có thể hoán chuyển được. Bây giờ làm sao ta nhận được nó không thật, từ đó trở về sống với tâm thể trùm khắp th́ thoát khỏi thân nghiệp báo ấy. Không phải chỉ có Phật mới vào cảnh giới Niết-bàn. Ḿnh cũng có Niết-bàn. Niết-bàn ở đây không phải đợi chết mới lên đó ngồi, mà chỉ cần thoát ra khỏi phiền năo bất giác là vào được. Niết-bàn đây chính là tâm rỗng rang sáng suốt của ḿnh.

Tâm rỗng rang sáng suốt là không có vật thể ǵ trong đó. Bao giờ chúng ta buông được những trở ngại, lọc bỏ hết cặn bă th́ vào được Niết-bàn chân thật, thường tại nơi chính ḿnh. Chỗ đó không phải là chỗ lư luận, không có gịng họ tên tuổi, không ngôn ngữ ǵ hết. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện thôi. Không nói mà vẫn thể hiện được, các thiền sư thể hiện độc đáo hơn ai hết. Ngài Lâm Tế y áo lên hỏi Tổ Hoàng Bá:

- Đại ư Phật pháp là ǵ?

Tổ cho ăn một hèo, đi xuống. Ngày khác, vị Thủ Tọa khuyên:

- Lên hỏi nữa, Ḥa Thượng chưa trả lời th́ lên hỏi nữa!

Hỏi lần thứ hai cũng bị ăn hèo. Xuống, ngài buồn tủi coi như ḿnh không có nhân duyên với thầy. Hỏi đại ư Phật pháp hay quá, đâu phải nói sàm nói bậy mà thầy không dạy, lại c̣n cho ăn hèo, đuổi xuống. Tuy nhiên, vị sư huynh xúi lên nữa:

- Thầy cứ lên hỏi nữa đi!

Lên hỏi lần thứ ba lại cũng bị ăn hèo. Đó là ǵ? Là thầy trả lời bằng tâm đại từ bi, không lấy tranh che đầu, không gắn thêm gịng họ tên tuổi ǵ cho ngài Lâm Tế hết, mà giữ nguyên cái bất sanh bất diệt đó. Nhưng ai dám hiểu. Tổ Lâm Tế khi đó cũng chưa hiểu nổi, hà huống chúng ta. Cho nên thôi, để dành đó chứ biết làm sao!

Quư vị nhớ tất cả chúng ta đều có tánh giác, đều có trí tuệ đức tướng Như Lai. Nhận lại hay không là quyền của mỗi người. Nhận lại báu vật của ḿnh th́ hết ngược xuôi ngàn đời, khỏi trầm luân trong sanh tử. Nếu không muốn th́ phải chịu khổ thôi, không ai thay thế cho ḿnh được cả. Mong tất cả chúng ta hăy sáng suốt mà lựa chọn một con đường, trang nghiêm tự thân để viên măn tâm Bồ-đề.

 

 

 

]

 

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM