SUỐI REO RỪNG TRÚC H.T THÍCH NHẬT QUANG |
||
ĐOẠN 10 Ngồi cong trần thế, Chẳng quản sự thay; Vắng vẳng ngàn kia, Dầu ḷng dong thả. Chú thích: - Ngàn kia: Rừng núi. - Cong: Trong. - Dong thả: Thong thả.
- Dầu ḷng: Mặc
t́nh. Giảng: Ngồi
cong trần thế, tức là ngồi trong trần thế.
Chẳng quản sự thay, là không màng tới việc
đổi thay. Bởi v́ người đă hiểu đă
nhận được lẽ thật, th́ việc thay
đổi không c̣n vấn đề quan trọng nữa. Ở
chốn rừng núi lặng lẽ mặc t́nh, ḷng thong thả
an vui. Đối
với người tu, tất cả duyên đời phải
cắt đứt. Tổ dạy chúng ta không bị lệ
thuộc hay không quản đến đổi thay trong cuộc
đời mới b́nh yên đi trọn con đường
tu hành. Núi rừng là nơi cần thiết để ung
đúc thành tựu sở nguyện tu hành tương đối
dễ dàng. Do vậy, người xưa hành đạo muốn
được thanh tịnh giải thoát, hầu hết
các Ngài đều chọn núi rừng thanh tỉnh, để
giảm thiểu sự ồn náo dưới phố thị.
Có thế tâm dễ ổn định mới phát huy trí tuệ. Chúng ta thấy
rơ ở chợ khó tu hơn ở núi rừng. Thấy xe chạy
ngó theo, thấy người đi để ư, thấy bán
cái ǵ dịu lỗ mũi duyên theo, nghĩa là con khỉ vừa
kêu vừa nhảy. Biết điểm yếu dở
như thế nên Ḥa thượng mới khung chúng ta lại.
Khung như thế nào ? Khung trong Thiền viện, khung
trong pháp tu, khung trong giới luật. Để làm ǵ ?
Để trị bệnh yếu đuối, không làm chủ
của ḿnh. Khi nào chúng ta mạnh th́ những phương
tiện này không cần thiết nữa. Mạnh rồi
th́ cứ việc lên xe mà đi Tây, đi Tàu, đi đâu
miễn tu được là tốt, không ai bắt buộc
ḿnh cả. Nhưng bây giờ chưa mạnh nên mỗi lần
xin đi th́ bị rầy, nó lạ vậy! Nhiều vị
bực bội, vô đây chi mà xin đi cũng bị rầy,
nói tới nói lui hoài. Thật ra huynh đệ muốn
đi đâu th́ đi, nhưng về thần xác phải
c̣n nguyên mới được. Đằng này lúc đi
th́ đủ nhưng về chỉ có xác mà không có hồn.
Đi đâu về lơ lơ lửng lửng mất chủ,
bỏ quên hồn phách ngoài phố hết rồi, có khi
quên đường về nữa. Mệt quá! Chúng ta
yên ḷng trong nếp sống Thanh quy của Thiền viện,
có Phật pháp, có giới luật, có thầy bạn
đùm bọc nhắc nhở để tiến tu, vượt
qua mọi cám dổ của ngũ dục. Khi nào vững
vàng rồi th́ thôi. Lúc đó Thầy tổ cũng phải
viên tịch chớ đâu có sống hoài mà nhắc nhở
ḿnh. C̣n nhỏ, huynh đệ không có sự nhắc nhở
th́ như trâu hoang đi đâu không biết, phá hoại ai
cũng chẳng biết, dây dàm bỏ đâu mất hết
trơn, lơ thơ lửng thửng giống như kẻ
bụi đời. Vọng tưởng dẫn đi mắt
tăm mất dạng. Nghĩ cho cùng quả thật thấy
ḿnh thương ḿnh. Cho nên
huynh đệ cố gắng nỗ lực tu hành, làm sao
khắc tỉnh. Bây giờ chúng ta không được ở
núi rừng, nhưng ở Thiền viện cũng có hàng
rào, có cổng đóng lại. Muốn đi đâu mà thấy
cổng khóa rồi th́ làm ơn trở vô dùm, đừng
có trèo rào kỳ cục lắm. Thật ra, nếu không có
những giới hạn đó huynh đệ rất khó
vươn lên. Đời tu bị chôn vùi trong những cái
vô lư như thế, thật không đáng chi hết. Cho nên
kinh nghiệm sơ khởi của chúng ta là phải tỉnh,
phải giác, trí tuệ sáng suốt không thể nào thiếu
được. Giống đi đêm không cầm đèn,
bao nhiêu sự kiện dưới chân ḿnh đâu có biết.
Nguy hiểm lắm. Người
tu thiền là người phát huy trí tuệ một cách tṛn
đầy. Phát huy trọn vẹn trí tuệ th́ tất cả
cảnh trước mắt không lầm nữa. Đă thế
th́ những ǵ không thật, ḿnh ôm đồm làm chi. Người
không biết các pháp là đồ giả mới chứa chấp,
nếu thật sự trí tuệ đầy đủ th́
không c̣n pháp nào quan trọng nữa. Như đàm giải từ
trong miệng của người bệnh khạc ra mà bảo
nuốt vào làm sao nuốt được. Tu pháp ǵ trong
đạo Phật cũng phải lấy trí tuệ làm
đầu. Nhiều người niệm Phật để
được Phật rước, mà không chịu bỏ
tham chấp si mê th́ Phật cũng không thể rước
được. Phật là giác, niệm Phật là nhớ
tánh giác, sống với tánh giác. Tánh giác hiện tiền
tương ưng với Phật, Phật mới rước,
c̣n lơ ngơ lẩn ngẩn làm sao Phật rước
được. Phải hiểu như thế, niệm Phật
như thế mới được Phật rước.
Trở lại
người tu thiền, trí tuệ được xem là vũ
khí sắc bén nhất. Tất cả những hiện
tượng trước mắt phải thấy rơ ràng,
đúng như thật. Không được thấy sợi
dây mà ra con rắn, không thể dùng biến kế thấy
cái này ra cái khác, phải thấy sự thực. Thấy
được cái đó, hằng sống được
cái đó, gọi là thấy được chân lư hay kiến
đế. Chữ “đế” là chân lư. Chúng ta phấn chấn,
quyết tâm phát huy trí tuệ của ḿnh, nhất định
sẽ thành công. Cho nên trong kinh Pháp Hoa kể đứa con
nít vùa cát chơi nói đây là chùa tháp, niệm Nam Mô Phật
cũng được kết chủng giải thoát. Chủng
tử ấy phát triển dần dần cho tới ngày
thành tựu, được Như Lai thọ kư sẽ
thành Phật. Điều
đó không có ǵ mờ ám. Như Long nữ là loài rồng
cái mới tám tuổi, vậy mà tu hành khai mở chỗ
chân thật ấy tức th́ thành Phật. Thành Phật
nhanh đến mức độ các vị Thanh văn
không ngờ. Cô dâng hạt châu lên đức Phật, Thế
Tôn nhận lấy. Cô hỏi các vị Thanh văn việc
nhanh chăng? Các Ngài nói nhanh lắm. Cô bảo “tôi thành Phật
c̣n nhanh hơn như thế nữa”. Nói xong liền bay qua
nước Vô cấu hiện thân nam và thành Phật hào
quang rực rỡ, chúng hội vô lượng vô biên.
Đó là ǵ ? Là chỗ sẵn có của mỗi chúng sanh, nó
mới nhanh như thế. Nếu không sẵn có làm sao
nhanh dữ vậy ! Ở ngoài đêm vô th́ c̣n phải thọc
tay lấy, mà lấy kiểu đó Thiền sư không chịu.
Các Ngài nói của báu bên ngoài đêm vô không là của nhà ḿnh,
phải từ hông ngực lưu xuất mới chân thật.
Chỉ có cái bản hữu sẵn sàng mới nhanh như
vậy. Chúng ta tu là phát huy cái đó. Việc
tu hành trên nguyên tắc không khó, nhưng chúng ta phải phấn
đấu. Tại sao phải phấn đấu? V́ những
nghiệp tập của ḿnh. Tánh giác sẵn đó nhưng
nghiệp che lấp nên ta không nhận ra được. Mỗi người sinh ra mang một
cái họ, rồi vướng vào đó thành ḍng tộc huyết
thống, không thoát ra được, chớ thật sự
Phật tánh sáng suốt vô cùng, đâu có tên họ vướng
víu lẩm cẩm như thế. Do đó chúng ta tu tập
phấn đấu để vượt qua những vơ cứng
chấp chặt ấy. Trước
nhất ta không bị lệ thuộc bởi ḍng họ
riêng tư. Các huynh đệ vươn lên từ ư thức
đó, nếu không sẽ vướng thoát ra không
được. Chúng sanh đi trong dị loại cũng
v́ sự chấp chặt này. Trí tuệ không sáng, nghiệp
thức mênh mang, đường trước mờ mờ
tăm tối, đi măi trong những con đường kết
nghiệp, không biết lối về. Cho nên muốn thoát
ra khỏi ḍng lưu chuyển đó, chúng ta phải phấn
đấu hết ḿnh, tỉnh táo, khắc phục từng
bước nếm trải để vượt qua nghiệp
tập của bản thân. Tôi
thường mượn h́nh ảnh “Trời trưa nắng
gắt, gánh nặng đường xa, dốc ngược
ta không có quyền đứng hoài, ngồi hoài, nằm hoài
một chỗ. Mà phải vươn lên, bước tới,
kiên quyết cho tới chừng nào đến đỉnh
mới thôi.” Trong quăng này ai tăm tối chất thêm ngọc
ngà châu báu vào gánh là người không sáng. Trái lại kẻ
vất ra cho nhẹ gánh là người sáng suốt. Gánh nhẹ
th́ dễ đi, lên tới đỉnh cao sẽ thấy
khỏe. Nắng gắt chẳng ăn thua ǵ mà trời
trưa cũng chẳng sợ chi. Trong
đoạn này, Sơ tổ Trúc Tâm dạy người tu
hành tuy đang ở giữa cơi đời, đang tiếp
cận với cuộc sống đổi thay vùn vụt
như bao người, nhưng vẫn an nhiên tự tại,
không bị các cảnh duyên làm dao động. Đó là tinh
thần tiêu sái của người tu. Chúng ta hữu duyên
được vào chùa, sống trong Thiền viện có nề
nếp, đây thật là phúc đức. Có người cả
đời t́m không được duyên tốt như vậy.
Do đó huynh đệ ham tu không bị ai cản trở,
chỉ sợ không chịu tu thôi. Hoà
thượng đă giáo hóa Tăng Ni, Phật tử nhiều
năm và nơi đây trở thành tùng lâm, đông đảo
Tăng Ni, Phật tử từ các nơi qui tụ về
học đạo tu hành. Huynh đệ có duyên đến
đây phải nên tranh thủ, đừng để thời
gian qua nhanh không t́m lại được. Người biết
tu th́ tùy duyên tùy cảnh, nơi nào cũng có thể tu
đượïc hết, không nhất thiết phải lên
rừng lên núi. Noi gương người xưa, các Ngài
đă sống cuộc đời tu hành, có vị theo duyên ở
những nơi sầm uất đông đảo nhưng
công phu đắc lực vẫn ngộ đạo, hoặc
có nhiều vị sống trong cảnh núi rừng cô tịch,
ăn lá cây uống nước suối, tu hành ngộ
đạo v.v… chúng ta cũng thế, tùy cảnh tùy duyên,
ngộ đạo là y cứ từ tâm kiên quyết của
ḿnh mà ra. Nếu
tâm không kiên quyết tu, cứ đi t́m cảnh này cảnh
kia, chưa chịu dừng lại hạ ḿnh xuống th́
sẽ đi măi thôi. Người như vậy có thể
nói không nơi nào hợp với họ. Cuối cùng là khách
phong trần, cứ quảy gói đi, một năm ở
hai ba nơi, không nơi nào ở yên hết. Đó là do tâm
chưa dứt khoát, chưa kiên quyết. Tôi nêu vấn
đề này lên để huynh đệ thấy người
tu trước nhất phải có tâm kiên định. Không
thể lêu lỏng theo vọng tưởng lăng xăng
trôi dạt cả đời, không đi tới đâu hết.
Người tu hành là người không quản đến
việc đời. Muốn được như vậy
chúng ta áp dụng phương pháp Ḥa thượng đă dạy:
Người tu phải biết buông bỏ tất cả
những cái lăng xăng, làm chủ được ḿnh
không bị vọng tưởng kéo lôi. Cảnh duyên nào,
pháp trần nào, hành nhơn trong tông môn cũng đều
làm chủ được, không bị động bởi
chúng. Đó là ư chính trong đoạn này. |